intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thi sĩ Phạm Hầu trong phong trào thơ mới 1932 - 1945

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:6

44
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong Thi nhân Việt Nam, Phạm Hầu được con mắt tinh đời của Hoài Thanh "ngó" đến với hơn một trang sách giới thiệu và in hai bài thơ. Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, nhà thơ xứ Quảng này lại được Nguyễn Tấn Long giới thiệu kỹ hơn và in 13 bài thơ. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thi sĩ Phạm Hầu trong phong trào thơ mới 1932 - 1945

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 12, 2002<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> THI SĨ PHẠM HẦU TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI 1932 ­ 1945<br /> Hoàng Sĩ Nguyên<br /> Trường THPT Phạm Phú Thứ, Điện Bàn, Quảng Nam<br /> <br /> Trong  Thi  nhân   Việt  Nam,   Phạm   Hầu   đượ c   con   mắt   tinh   đời   của   Hoài <br /> Thanh "ngó" đến với hơn một trang sách giới thiệu và in hai bài thơ. Trong  Việt <br /> Nam thi nhân tiền chiến,  nhà thơ xứ Quảng này lại đượ c Nguyễn Tấn Long giới <br /> thiệu kỹ  hơn và in 13 bài thơ. Chừng đó cũng đủ  làm "vốn liếng" để  Phạm Hầu  <br /> "neo" đượ c trong lòng bạn đọc hơn 60 năm nay. Với ý thức tìm kiếm và lưu giữ <br /> đầy trách nhiệm, sau bao nhiêu năm xuôi ngược, ông Hoàng Minh Nhân đã bướ c <br /> đầu giới thiệu  Tuyển tập Phạm Hầu  với 25 bài thơ (không tính một bài còn nghi <br /> vấn tác giả) và 19 ý kiến, bài viết xung quanh gia đình, cuộc đời và tác phẩm của <br /> thi sĩ. Như vậy, đến nay chúng ta có thể nhận diện đượ c rõ hơn gươ ng mặt Phạm  <br /> Hầu trong phong trào Thơ mới 1932 ­ 1945:<br /> 1. Những vần thơ nhức nhối nỗi buồn, cô đơn<br /> Trên đỉnh Ngũ Hành Sơn ­ danh thắng của Đà Nẵng ­ có một Vọng Hải đài. <br /> Nơi đây, bên cạnh trùng khơi đại dương, giữa mênh mông mây gió còn tấm bia đá rêu <br /> phủ  với dòng Hán tự  ba chữ  Vọng ­ Hải ­ Đài. Chắc hẳn Phạm Hầu đã có lần lên  <br /> đây, như Đỗ Phủ từng "Đăng Cao" vậy! Hoài Thanh nhận ra  Vọng hải đài  là một ẩn <br /> ngữ ­ "Lòng người là một vọng hải đài". [1/155]. Không gian điểm nhìn là hồn người <br /> cô quạnh, ở đó thừa gió chiều, mây sớm, chỉ thiếu con người. Nỗi buồn luôn là cấp  <br /> số nhân khi không có người chia sẻ. Đây là lời "trách yêu" hay ghi nhận chua chát sự <br /> đơn côi:<br /> Chỉ biết mình tôi thương nhớ tôi<br /> Không cần ai phải nhớ thương tôi <br /> (Riêng tây)<br /> Trong 25 bài thơ của Phạm Hầu thì 24 bài đã nói đến buồn, cô đơn hoặc mang <br /> âm hưởng buồn, cô đơn. Thi nhân đã sớm mang mối sầu tình:<br /> Ao ước ngày mai sắc nàng thơm<br /> (Lý tưởng)<br /> Tình câm lặng, tình tuyệt vọng khiến nhà thơ cay đắng đổ lỗi cho mộng hờ <br /> Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc<br /> Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ<br /> (Lý tưởng)<br /> Nỗi đớn đau thường canh cánh, nức nở, hành hạ nhà thơ:<br /> Tiếng rên xiết giờ tàn khi chấm hết<br /> Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu.<br /> 69<br /> Tim nhói lên nức nở những ban đầu<br /> Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng<br /> (Mãi dâng trọn hồn vui)<br /> Cũng như  dòng chảy của Thơ  mới 1932 ­ 1945, tình yêu trong thơ  Phạm Hầu <br /> nhẹ  nhàng, vấn vương xao xuyến. Ý yêu đương gắn với những nỗi buồn man mác,  <br /> ngậm ngùi:<br /> Nhớ bạn tình xa tôi mỉm cười<br /> Nụ cười lạnh lẽo khóc đầu môi<br /> Chân tôi vô ý đưa trên cỏ<br /> Tay khẽ một vài chiếc lá rơi<br />              (Trên đồi)<br /> Nếu các nhà thơ đương thời, và đặc biệt Xuân Diệu đến với tình yêu bằng những khao  <br /> khát hưởng thụ, chủ động "ôm", "quấn", "riết" trong say đắm của "bến mê ly", "trời phóng  <br /> đãng", thì ngược lại, cung bậc tình yêu của Phạm Hầu có khác. Những khao khát, đắm đuối <br /> biểu lộ qua tiếng nói âm thanh: <br /> Chàng ngả hồn trong ánh mắt si<br /> Của nàng khi nhạc riết mê ly<br />               (Dạ nhạc)<br /> Thi nhân là kẻ thất bại, thường ở thế "cầu xin":<br /> ­ Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ<br /> Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê<br /> ­ Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ<br /> Vì lời yêu rên xiết ấn trong tôi.<br />                 (Chiều buồn)<br /> ­Chàng xin tay ngọc thôi ve vuốt<br /> Đến phím sau cùng là biệt ly<br />                   (Dạ nhạc)<br /> Thi nhân làm một cuộc đuổi bắt người đẹp, nhưng chỉ thấy " quanh tôi là mộng  <br /> hay bươm bướm/ quanh tôi là mộng hay nắng sớm " (Vọng lâu), nên trái tim luôn se <br /> sắt :<br /> Lòng tôi e cũng cô đơn thế<br /> Sẽ chín yêu thương bởi mọi người<br />                  (Trái xanh)<br /> Thiên nhiên trong thơ Phạm Hầu thật gần gũi. Đó đây là những chùm sim dại,  <br /> những lá hổ  ngươi, trái bù đường, hoa chuối rừng mà đã có những lần " ...hai đứa  <br /> tranh nhau hút/ Hoa chuối rừng thơm ngọt lạ  đời" (Trên đồi). Bài thơ  Nơi thôn dã <br /> nồng ấm một tình quê mộc mạc, cảm động. Có cái yên tĩnh, trong trẻo của vùng đất <br /> Gò Nổi quê ông. Chúng ta gặp ở đây chất thơ  của Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh <br /> Thơ. Có khác là  ở  Phạm Hầu ngổn ngang một cảnh sắc thiên nhiên trong màu tươi <br /> của hương vị cuộc sống lao động, những bức tranh tả thực mà sâu gợi như điệu hồn  <br /> thiêng mãi ngân trong lòng thi sĩ:<br /> ... Bãi dâu xanh, cánh đồng phơi cỏ rác<br /> <br /> 70<br />     Sau những ngày gặt hái đã vừa qua<br /> Con sông gần lơ, sắc núi xa xa <br /> Dưới cầu gỗ phơi sương màu đã bạc<br /> ... Áo cộc trắng, quần đen da tắm nắng<br />     Giỏ dâu tròn còn trống ở sau vai<br /> Lũ gái quê mộc mạc buổi ban mai<br /> Xa còn để tiếng nói cười văng vẳng...<br /> Yêu cái đẹp, nhà thơ xót thương cho cành hoa rụng. Bài Tám hoa là lời ai điếu <br /> cho tang lễ xác hoa, thổn thức quặn đau một nỗi mất mát quá lớn của cái Đẹp trong  <br /> cõi vô định.<br /> Cứ mỗi ngày đi qua<br /> Lại có một hoa rụng<br /> ... Mà ngờ đâu dưới huyệt<br /> Không tìm thấy tám hoa.<br /> Nếu làm thống kê, chúng ta sẽ  thấy những từ  : buồn, sầu, lệ, cô đơn, xuất <br /> hiện dày đặc ở  thơ Phạm Hầu. Chỉ riêng bài Chiều Buồn và Vọng lâu, mỗi bài 20 <br /> câu thơ mà buồn, sầu, lệ, cô đơn xuất hiện đến 11 lần. Cũng như cái tôi tiểu tư  sản  <br /> trong thơ  mới 32 ­ 45 nói chung, cái tôi cô đơn Phạm Hầu "càng đi sâu  càng thấy  <br /> lạnh" [1/52]:<br /> ­ Tôi buồn cô độc, ôi lầu vọng<br /> ­ Tôi buồn rưng rức bên lầu vọng <br /> ­ Lầu dựng buồn cao ngập ý thơ<br />         (Vọng Lâu)<br /> Đó là những biểu hiện "vọng hải đài", của lòng mình, của chính mình khi đã  <br /> dựng trong lòng cảnh "vọng lâu" (Vọng đài).<br />  Đúng là một nỗi buồn, một nỗi đau chân thành của  "cái khát vọng được thành thực"  <br /> [1/14] Chính nỗi đau buồn đích thực này đã "làm thức tỉnh ý thức con người và vì thế, nó  <br /> mang trong mình tính dự báo xã hội" [6.7].<br /> 2. Những vần thơ chứa nhiều tín hiệu nghệ thuật mới lạ<br /> "Mới chỉ trong cái tuổi đôi mươi mà thi sĩ Phạm Hầu đã quyết định mang theo bên  <br /> mình một hoài bão to lớn"  [2/73]. Hoài bão trước hết, có lẽ, là việc Phạm Hầu chọn cho  <br /> mình một con đường sống có trách nhiệm với đồng loại. Bài thơ  Tấm lòng son đề tặng <br /> anh chị ruột như một sự giải bày quan điểm sống và ý muốn thoát ly khỏi gia đình quyền  <br /> quý để lên đường theo tiếng gọi của đất nước. Đây là bài thơ dài nhất của Phạm Hầu,  <br /> như cảm xúc tuôn trào một mạch không dứt. Con chim không chịu học tiếng người, không <br /> chịu ở lồng son mà chỉ muốn trở về với dòng suối trong, cánh đồng mênh mông, cỏ thơm,  <br /> trời thẳm, với: <br /> ... ước và mong <br /> Một quãng đời trong sạch <br />          (Tấm lòng son)<br /> <br /> <br /> 71<br /> Tâm tr ạ ng c ủa con chim trong bài th ơ  là lờ i đồ ng vọ ng v ới tâm tr ạ ng c ủ a <br /> con h ổ  trong  Nh ớ  r ừng  c ủ a Th ế  L ữ, là tiế ng nói chung c ủa m ộ t th ế  h ệ  thi sĩ  <br /> Th ơ  m ới 32­45 trong c ảnh n ướ c m ất nhà tan.<br /> Là con người thi sĩ, Phạm Hầu tự hào về nghiệp của mình, có ý thức trau dồi rõ  <br /> nét. Bên cạnh tiếng nói mạnh dạn xưng danh thi sĩ của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân <br /> Diệu... có tiếng nói của Phạm Hầu.<br /> ­ Thuở nhỏ đêm nằm mơ thấy bướm <br /> Giờ không mơ bướm lại mơ thơ                 <br />                (Lý tưởng)<br /> ­ Cái cây thi sĩ vô tình đã <br /> Biên những dòng "thơ là" bẽ bàng            <br />                   (Y Lan)<br /> Trong số  25 bài thơ  đăng trong tuyển tập của Phạm Hầu, có 16 bài theo thể <br /> thơ 7 chữ, 5 bài thể thơ 8 chữ, 2 bài thể thơ 5 chữ, 1 bài thể thơ 4 chữ, 1 bài lục bát.  <br /> Xét về thể thơ, chúng tôi thấy phương thức biểu hiện của thơ Phạm Hầu nằm trong  <br /> xu thế vận động cơ bản của thể thơ 7, 8 chữ giai đoạn này. <br /> Điều này dễ  lý giải; bởi trong Thơ mới 32 ­ 45, thể thơ 7, 8 chữ đã đạt đến  <br /> "một phẩm chất cổ  điển" (cổ  điển với nghĩa hoàn hảo về  thể  loại ­ Nguyễn Bá <br /> Thành). Dấu ấn đậm nét của Phạm Hầu là ở khía cạnh góp phần cách tân dòng thơ,  <br /> câu thơ. Thơ  Phạm Hầu có nhiều câu ngắt dòng, vắt dòng, dòng dài hơn câu, đặc <br /> biệt thán từ với dấu chấm than dày đặc ở một số khổ thơ... là điều ít thấy ở các nhà <br /> thơ đương thời: <br /> ­ Chao ôi ! Chết cả lời thơ<br /> Chao ôi ! Điếng cả tim thờ quạnh hiu <br /> Gió ôi ! Dâng ngọn thủy triều <br /> Mau đi rửa sạch tiêu điều dáng thu <br />                          (Thu)<br /> ­ Ôi bạn ngọc ! ôi em của anh <br /> Ôi chim! ôi bướm ! ôi ngày xanh !<br /> Đã bay đi hết, bay đi hết<br /> Ghê gớm, tôi như một khổ hình <br />                     (Riêng tây)<br /> Con người tâm trạng sầu vương muôn nẻo và nỗi buồn  khi " theo tư tưởng vô cùng  <br /> tận ­ chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu" (Lý tưởng) đã tạo cho thơ Phạm Hầu những tiếng <br /> kêu, lời than đứt quãng, những nỗi đau đứt đoạn rỉa rói tâm can !<br /> Phạm Hầu quả  là ngườ i có năng lực cảm thụ cái đẹp. Nhà thơ  đã từng khóc <br /> hoa rụng (Tám hoa), tiếc nhạc dừng (D ạ nh ạc) t ừ cái lạ hoá của cảm xúc thi nhân <br /> bất tận:<br /> Trời là trang giấy rộng như mơ<br /> Ghi chép hồn cây phải một tờ<br /> Khốn nỗi bao người lơ đãng quá<br /> Vô tình không hiểu đó là thơ!<br /> <br /> 72<br />                 (Y Lan)<br /> Nhà thơ thấy mình như đã sống hàng ngàn vạn năm cùng vũ tru:û<br /> Tuổi tôi, màu lá: ai sinh trước<br /> Hiu hắt đôi bên lúc đọ màu<br />            (Vọng lâu)<br /> Phạm Hầu có một cái "vẫy ngoài vô tận", "một cái nhìn hương" mà trong Thơ mới <br /> chưa ai dùng. Chừng  ấy cũng đã là ngọc, góp phần làm sáng hơn kho tàng thi ca đất <br /> nước.<br /> ­ Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận<br /> Chẳng biết xa lòng có những ai<br />        (Vọng hải đài)<br /> ­ Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹ<br /> Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi!<br />               (Mộng Cù lao)<br /> Phạm Hầu quan niệm nghệ thuật phải đưa ta đến sự vô biên, tuyệt đích. Cái lạ <br /> của hồn thơ Phạm Hầu cũng chính là ở chỗ đó. Nhắc đến Phạm Hầu người ta nhắc  <br /> đến  Vọng hải đài. Nếu Vọng ­ Hải ­ Đài  thật thì cũng còn cái hữu hạn của tầm <br /> nhìn. Đằng này là "đài lòng"; mà "đài lòng" thì đúng là vô tận, ngoài vô tận nữa, quả <br /> là mênh mông, xa ngái!<br /> Phạm Hầu thường nhắc đến cõi vô cùng tuyệt đích:<br /> ­ Ta đợi người đây, tuyệt đích ơi!<br /> ­ Tôi theo tư tưởng vô cùng tận.<br />                                   (Lý tưởng) <br /> Đó là cứu cánh hay khát vọng cao cả  mà Phạm Hầu luôn có ý thức dâng hiến.  <br /> Thi nhân tự nguyện nhận hết đau thương cho cuộc đời đẹp:<br /> Nếu tôi đau, trời đẹp. Nếu tôi đau<br /> Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau        <br />            (Mãi dâng trọn hồn vui)<br /> ... "Ôi! Thơ của những con người như thế, cầm lên tay một câu, một chữ  nặng  <br /> cả một cuộc đời người" [3/103].<br /> Phạm Hầu đã để  lại sâu đậm một dấu  ấn trong phong tràoThơ  mới 1932 ­ <br /> 1945.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Hoài Thanh ­ Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học tái bản 2000.<br /> 2. Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến, NXB Văn học, 1996. <br /> 3. Hoàng Minh Nhân (sưu tầm ­ biên soạn), Vẫy ngoài vô tận, NXB Thanh Niên, <br /> 2001.<br /> 4. Huỳnh Hùng, "Gò nổi, đất học ­ đất anh hùng", Báo Quảng Nam tháng 3/1996.<br /> 5. Hoàng Phủ  Ngọc Tường, "Đứa con của Phù sa" ­ Tuyển tập Hoàng Phủ  Ngọc  <br /> Tường, NXB Phương Nam, 2001.<br /> <br /> 73<br /> 6. Giáo sư  Lê Đình Kỵ, Thơ  mới những bước thăng trầm, NXB TP Hồ  Chí Minh,  <br /> 1993.<br /> 7. Hồng Nhu, Bài phát biểu hội thảo văn học ở Bình Trị Thiên, Báo văn nghệ TW số <br /> ra ngày 23/1/1988.<br /> 8. Nguyễn Bá Thành, Tư  duy thơ và tư  duy thơ Việt Nam hiện đại, NXB Văn học,  <br /> 1988.<br /> 9. Tuyển tập Tác giả ­ tác phẩm Thơ mới 1932 ­ 1945, NXB Hội nhà văn, 2001.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Phạm Hầu là một trong 41 nhà thơ được Hoài Thanh ­ Hoài Chân giới thiệu trong Thi  <br /> nhân Việt Nam. Thơ và tư  liệu về  Phạm Hầu mới được sưu tầm thêm một số. Chưa nhiều  <br /> nhưng cũng tạm đủ để nhận diện gương mặt Phạm Hầu trong làng "Thơ mới 1932 ­ 1945".  <br /> Bài viết xoay quanh một số nét về con người Phạm Hầu, làm bật nổi "những vần thơ nhức  <br /> nhối nỗi buồn, cô đơn", "những vần thơ chứa đầy khát vọng" mà thi nhân để  lại cho chúng  <br /> ta. Qua đó, làm sáng tỏ thêm tài năng của Phạm Hầu, thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của nhiều  <br /> thời, có công góp phần tỏa sáng thi ca Việt Nam.<br /> <br /> <br /> THE PORTRAIT OF PHAM HAU IN "NEW POETRY" 1932 ­ 1945<br /> Hoang Si Nguyen<br /> Pham Phu Thu High School <br /> <br /> SUMMARY<br /> Pham Hau was one of   fourty ­ one new poets who was introduced to "Thi Nhan Viet  <br /> Nam" by Hoai Thanh and Hoai Chan. Some of Pham Hau's poems and his information have  <br /> been collected recently. Although they are not redundant but enough to identify him in "Tho moi  <br /> 1932   ­   1945"   village.   This   writing   mainly   focused   on   Pham   Hau's   characteristics   and  <br /> dominated "painful, sad and lonely poems" and fully hopeful poems which he left for us. <br /> Thanks to them, we understand and admire his talent more and more. He was worthy to  <br /> be the poet of many periods and contributed many achievements to Vietnamese poetry.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 74<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2