intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: ViLisbon2711 ViLisbon2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

85
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong xu thế hội nhập cùng phát triển, với những tiến bộ của nghiên cứu văn học, với những cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn, cách đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác, khoa học hơn về tác phẩm văn chương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hóa

KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 04 NĂM 2019<br /> Thơ Nôm Hồ Xuân Hương<br /> dưới góc nhìn văn hóa<br /> ThS. TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI,<br /> HÀ THỊ MINH NGỌC<br /> Trường THPT Phan Bội Châu<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> T<br /> rong xu thế hội nhập cùng phát triển, với<br /> những tiến bộ của nghiên cứu văn học,<br /> với những cải cách, đổi mới ở Việt Nam<br /> và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn, cách<br /> đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác, khoa<br /> học hơn về tác phẩm văn chương. Và tiếp cận<br /> văn học dưới góc nhìn văn hóa giúp chúng ta<br /> có một cái nhìn, một cách đánh giá khoa học<br /> hơn, chân xác hơn đối với giá trị văn học truyền<br /> thống, mở ra một hướng nghiên cứu mới vừa<br /> hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn được bản<br /> sắc truyền thống văn hoá.<br /> Hồ Xuân Hương là một hiện tượng thơ nữ<br /> độc đáo, lạ lùng hiếm thấy của văn học trung<br /> đại Việt Nam vì thơ bà thấm đẫm màu sắc văn<br /> hóa. Ngay từ khi xuất hiện, Hồ Xuân Hương trở<br /> thành “nỗi ám ảnh” đối với độc giả cũng như<br /> giới nghiên cứu phê bình trong việc tiếp nhận<br /> và đánh giá lại những giá trị mà thơ Nôm truyền<br /> tụng Hồ Xuân Hương mang lại về phương diện<br /> văn hóa.<br /> 1. Khái niệm văn hóa và phương pháp<br /> tiếp cận văn hóa học<br /> Theo Trần Nho Thìn văn hoá là một hệ<br /> thống mở “Nhân học văn hoá”, “nhân chủng học là nói đến tập tục tín ngưỡng tôn giáo, nói đến<br /> văn hoá”. Văn hoá Việt còn là sản phẩm của giao đời sống tinh thần... Bất kỳ một giá trị văn học<br /> lưu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ... Vì nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn<br /> thế khái niệm văn hoá tương đối rộng. Văn hoá hoá, từ một đời sống văn hoá nhất định.<br /> là phạm trù giá trị làm cho con người thoát ra Yếu tố văn hoá ảnh hưởng lớn đến sự thành<br /> khỏi tình trạng mông muội. Văn hoá bao gồm công của tác phẩm. Cách tiếp cận văn hoá học<br /> văn minh, kinh tế, sức khoẻ, ăn uống, văn học... trong nghiên cứu tác phẩm văn chương sẽ<br /> chứ không phải mình lễ hội và nói đến văn hoá giúp chúng ta khám phá chân lý nghệ thuật<br /> 6 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> một cách đúng hướng hơn. Trần Nho Thìn đã người con gái mạnh mẽ, quyết liệt, dám thách<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> chỉ ra một số bước tiếp cận theo phương pháp thức với lề thói xã hội để giữ lại “khối tình” minh<br /> văn hoá học đối với văn học Trung đại Việt Nam chứng cho tình yêu của mình.<br /> như sau: Phẩm chất để Xuân Hương tự hào về người<br /> - Đối với văn học trung đại cần phục phụ nữ còn là sự gan góc, sức chịu đựng của<br /> nguyên tái hiện không gian văn hoá cũng như người phụ nữ trước nỗi đời cơ cực, để giữ gìn<br /> những nhân tố thời đại tác động. cái sắt son của người đàn bà, vẫn giữ tấm lòng<br /> - Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn son, đằm thắm, tha thiết dù bị bầm dập:<br /> hoá thời đại. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,<br /> - Xác định cơ sở văn hoá xã hội đã hình Mà em vẫn giữ tấm lòng son<br /> thành nên tác phẩm (đề tài, chủ đề, hình thức (Bánh trôi nước)<br /> nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu<br /> Trong một xã hội rối ren, khi mà thân phận<br /> thành tác phẩm...).<br /> người phụ nữ bị rẻ rúng như xã hội Việt Nam<br /> 2. Nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, người<br /> dưới góc nhìn văn hóa phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son, kiên trinh,<br /> 2.1. Người phụ nữ với phẩm chất cao quý thủy chung của mình, cố gắng sống đẹp và có<br /> nghĩa thì thật đáng trân trọng biết bao. Cách<br /> Sự tự hào về giới của Hồ Xuân Hương thể<br /> thể hiện này cho thấy phong cách và bản lĩnh<br /> hiện ở ca ngợi phẩm chất cao quý của người<br /> của Xuân Hương tạo ra sự vượt bậc và khác biệt<br /> phụ nữ. Những người phụ nữ như bà sống<br /> giữa nữ sĩ và các tác giả khác về phẩm chất của<br /> trong xã hội phong kiến chịu nhiều nỗi thua<br /> người phụ nữ Việt Nam trong văn học.<br /> thiệt nhưng không lùi bước. Trong mọi hoàn<br /> cảnh họ đều ý thức rõ về chính mình và tìm Thơ Nôm Hồ Xuân Hương còn thể hiện sự<br /> cách vươn lên với tinh thần ham sống, yêu đời tự hào về người phụ nữ muốn làm nên một sự<br /> đến cảm động, để khẳng định mình, để tồn tại; nghiệp anh hùng, không kém nam giới:<br /> tồn tại để khát khao; khát khao tận hưởng hạnh Ví đây đổi phận làm trai được<br /> phúc (dù cuộc đời đáp trả phía họ toàn những<br /> Thì sự anh hùng há bấy nhiêu<br /> điều cay đắng). Đó là hình ảnh người phụ nữ<br /> đầy nghị lực vượt qua niềm đau riêng, vượt qua (Đề đền Sầm Nghi Đống)<br /> bất hạnh như lỡ thì, làm lẽ, góa chồng... Không phải Xuân Hương coi thường nam<br /> Xuân Hương không muốn nghe tiếng nhi mà “ghé mắt trông ngang” đền thờ Sầm Nghi<br /> khóc nỉ non của người phụ nữ. Bà cũng không Đống. Hành động ấy thể hiện thái độ của bà rất<br /> muốn giới mình đành lòng cam chịu thân rõ ràng, một tên cướp nước bại trận như hắn thì<br /> phận lệ thuộc, bị coi thường, bị ném đi khi kẻ có gì đáng để người ta kính trọng, thờ phụng.<br /> khác giới đã cảm thấy chán chê. Xuân Hương May cho hắn gặp người Việt Nam nhân từ còn<br /> khuyên người đàn bà có chồng vừa mất “Nín cho hắn một chỗ để nương thân, còn có nơi để<br /> đi kẻo thẹn với non sông”, bà không muốn con siêu thoát về kiếp khác. Xuân Hương không nói<br /> người ấy khóc than mãi làm gì, cũng không cần quá chút nào, thử nhìn vào lịch sử chống giặc<br /> phải theo cái đạo “tam tòng” ấy làm gì, hãy để của dân tộc thì thấy ngay. Người phụ nữ Việt<br /> sức mà còn bước tiếp... Xuân Hương cho người Nam cũng có những con người tài năng, đã<br /> đọc tiếp cận với một cô gái không chồng mà từng làm nên nghiệp lớn như Bà Trưng, Bà Triệu.<br /> chửa do cả nể trong tình yêu bị lỡ làng cũng là Xuân Hương đã khẳng định tài năng và<br /> một cô gái nhân hậu, khoan dung “Mảnh tình phẩm chất của giới nữ để thế giới phải nhìn lại<br /> một khối thiếp xin mang” và đồng thời là một địa vị của họ. Hơn một lần Xuân Hương đề cao<br /> KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7<br /> phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Họ có bỏng khát vọng yêu thương của một người<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 04 NĂM 2019<br /> sức mạnh vượt qua gian khó, suy nghĩ và hành phụ nữ bất hạnh trong đời sống tình ái, thơ<br /> động của họ đôi khi được Xuân Hương nâng Xuân Hương lúc nào cũng như muốn san bằng<br /> lên ngang tầm non sông, vũ trụ. Thân phận bất cho được cái tập tục cổ hủ bao đời đè nặng lên<br /> hạnh, số kiếp đau khổ của họ được hoá thân bản năng và giới tính của con người, để cất cao<br /> vào sông núi: “Trơ cái hồng nhan với nước non” giọng ca ngợi, tự hào về giới.<br /> (Tự tình - Bài 2). 2.2. Thú vui trần thế và khát vọng tình yêu<br /> Xuân Hương đem “cái hồng nhan” so cùng Lịch sử phát triển và sự trường tồn của<br /> “nước non”. Cảnh buồn nhưng không gợi sự con người đã để lại nhiều di sản văn hóa đầy ý<br /> thương cảm, nhờ cách nói cứng cỏi rất Xuân nghĩa từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể, đến<br /> Hương, “cái hồng nhan” ấy trải lòng cùng nước phi vật thể. Ở một mức độ nào đó, ta không thể<br /> non. Câu thơ Xuân Hương cứ khắc khoải một phủ nhận vai trò tích cực của yếu tố tính dục<br /> niềm khát khao giao cảm. trong đời sống của con người. Sự có mặt của<br /> Thơ Xuân Hương như một thông điệp tính dục đã giúp nhân loại nhận diện lại chính<br /> khẳng định nguồn sống của xã hội là người mình một cách đặc thù và độc đáo nhất. Vì hoạt<br /> phụ nữ, họ là những người yêu chồng, chăm động tính giao vốn là thuộc tính của mọi sinh<br /> sóc và nuôi dạy con cái, vun vén gia đình: “Tất cả thể sống (trong đó có con người). Tất nhiên ở<br /> những thu là với vén” (Cái nợ chồng con). Thậm đây người viết chỉ đề cập đến khía cạnh tính<br /> chí bà tự hào vì sự dâng hiến to lớn của người dục của con người.<br /> phụ nữ. Họ sinh ra để tiếp nối sự sống, để ban Tình yêu là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn<br /> phát hạnh phúc và cái đẹp cho đời. Họ có khả và trạng thái mãnh liệt nhất của tình yêu chính<br /> năng làm cho giới đàn ông từ hiền nhân quân là sự hòa hợp giữa hai thể xác. Nói đến nam nữ<br /> tử đến vua chúa chết mê chết mệt. là nói đến giới tính, nói đến tình yêu là nói đến<br /> một phần của mối quan hệ giới tính, như thế,<br /> Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của Xuân<br /> quan hệ xác thịt là khía cạnh của quan hệ yêu<br /> Hương và cũng là tiếng lòng của biết bao người<br /> đương, và sự gần gũi về thân xác là một nhu<br /> phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Đó là tiếng lòng<br /> cầu, một thú vui trong quan hệ giới tính ấy. Khát<br /> của một con người không bao giờ quên ý thức<br /> vọng về tình yêu ở khía cạnh hòa hợp thể xác<br /> và tự ý thức về mình. Ta hãy nghe cách bà bày<br /> không chỉ có ở nam giới. Con người ai cũng có<br /> tỏ: “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” (Mời trầu).<br /> khát vọng ấy, phụ nữ không ngoại lệ. Hồ Xuân<br /> Không dùng đại từ nhân xưng mà bà xưng Hương đã dùng văn chương để thể hiện khát<br /> tên riêng của mình “Này của Xuân Hương”. Lối vọng ấy bằng những bài thơ vừa thanh vừa tục.<br /> nói mang đầy ý thức khẳng định và niềm tự<br /> Ta biết rằng, cuộc đời tình ái của nữ sĩ Hồ<br /> hào, đến kiêu hãnh trong lời tình tự kia đã thể<br /> Xuân Hương cũng như cuộc đời tình ái của<br /> hiện rõ cái tâm của người mời trầu. Xuân Hương<br /> người phụ nữ Việt Nam sống dưới chế độ phong<br /> mời trầu cũng là mời duyên, mời tình và bày tỏ<br /> kiến không bao giờ được chủ động quyết định,<br /> lòng mình. Với cách xưng danh xưng tính ấy Xuân Hương thấu hiểu hơn ai hết đời sống chăn<br /> thật tự tin, bà đã đi trước thời đại của mình rất gối của một người phụ nữ, hạnh phúc thật bấp<br /> xa, vì cách xưng hô như thế đến văn học hiện bênh. Tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân Hương ở góc<br /> đại mới phổ biến. độ nào cũng có thể thấy yếu tố bản băng, giới<br /> Hồ Xuân Hương đã đưa ra những bằng tính thể hiện một cách bàng bạc. Nên có nhiều<br /> chứng xác thực về giá trị của người phụ nữ, ý kiến cho rằng, thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang<br /> đồng thời bà cũng khẳng định vai trò tất yếu màu sắc tính dục, hay nặng nề hơn, có người<br /> của họ trong cuộc sống. Dưới ngòi bút cháy cho đó là thứ thơ “dâm, tục”.<br /> 8 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> Đây quả là vấn đề phức tạp và cũng đầy người. Bà không biết đến thứ tình dục đã được<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> hứng thú. Dư luận búa rìu này không phải là cải trang, tô son điểm phấn, hoặc thứ tình dục<br /> không có nguyên nhân của nó. Trước hết, vì sản đã được nâng đên mức độ tinh khiết một cách<br /> phẩm của dòng thơ ấy xuất thân từ một nữ sĩ, gượng ép của văn chương giáo điều, giả dối.<br /> nữ giới ít khi có tiếng nói trong xã hội, giữa đám Yếu tố tục luôn lấp ló trong thơ bà. Tục<br /> đông; hơn nữa, thơ bà đã dám đụng đến mảnh nhưng không gợi dục, không khiêu dâm, vì<br /> đất giới tính - giới địa của sự “cấm kị” (điều mà yếu tố ấy gắn với cuộc sống, thói quen, hành<br /> giai cấp phong kiến ra sức che giấu, khinh miệt); vi của người bình dân (mà trong thế giới quan<br /> sau nữa trong thơ toàn những biểu tượng mà của người bình dân những chuyện đó là lành<br /> nhìn ở góc độ nào cũng lấp lửng những chuyện mạnh, là thứ sản phẩm giúp họ giảm đi những<br /> hoan lạc, những bộ phận gợi cảm của giới nữ nỗi vất vả trong lao động, thể hiện một tinh<br /> (làm cho người ta vừa thích thú và kinh sợ). thần lạc quan). Chuyện ái ân trong cuộc sống là<br /> Thật khó có thể giải thích chỉ bằng cảm quan tự nhiên, không chỉ là nhu cầu mà còn là quyền<br /> của mỗi cá nhân mà phải truy nguyên vào văn lợi của con người do đấng tạo hóa ban tặng.<br /> hóa dân gian người Việt để tìm ra câu trả lời<br /> Văn chương nghệ thuật đích thực luôn lấy<br /> thỏa đáng. Và cho đến ngày hôm nay, Hồ Xuân<br /> con người làm trung tâm thể hiện. Những khát<br /> Hương vẫn là một hiện tượng thơ đặc biệt của<br /> khao, những nỗi niềm của con người bao giờ<br /> văn học trung đại, vì bà có những sáng tác vượt<br /> cũng là đề tài chính cho đối tượng của văn học,<br /> ra ngoài thi pháp, đặc trưng sáng tạo của văn<br /> cho người nghệ sĩ sáng tạo. Hồ Xuân Hương<br /> chương chính thống. Thơ Nôm của bà chịu sự<br /> cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo nghệ<br /> “giao thoa” rất nhiều của những tư tưởng và<br /> thuật ấy. Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của một<br /> hình thức nghệ thuật của văn hóa dân gian,<br /> người đàn bà khao khát được yêu, được sống và<br /> đặc biệt là văn hóa phồn thực.<br /> yêu sống một cách trọn vẹn. Khát vọng ấy làm<br /> Theo Đỗ Lai Thuý trong Hoài niệm phồn cho tiếng nói của Xuân Hương độc đáo, khác lạ<br /> thực, Hồ Xuân Hương đã làm sống lại cả một hơn những người cùng thời với bà. Có thể nói,<br /> truyền thống văn hóa phồn thực hùng hậu viết những tác phẩm mang màu sắc văn hóa<br /> trong sáng tác của mình bằng cách đề cập rất cũng chính là đề cập đến những cái gì thuộc<br /> kĩ lưỡng, sắc sảo tình yêu mang màu sắc tính về con người, cuộc đời Xuân Hương.<br /> dục với những đòi hỏi phải thỏa mãn cuộc sống<br /> 3. Nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hương<br /> ái ân của con người. Sự thể hiện nội dung này<br /> dưới góc nhìn văn hóa<br /> trong tác phẩm của bà đã đẩy vị thế của bà<br /> trước ranh giới mỏng manh giữa nghệ thuật Một điều độc đáo khi tiếp cận thơ Nôm Hồ<br /> thanh cao và nghệ thuật dung tục, đồng thời Xuân Hương, chúng tôi nhận thấy vấn đề văn<br /> các vấn đề tính dục trong thơ bà cũng đưa vào hóa còn được thể hiện trong các thủ pháp nghệ<br /> những cuộc đàm thoại của dư luận, chứ không thuật. Các thủ pháp nghệ thuật luôn là một<br /> đơn thuần là chuyện phiếm khi “trà dư tửu hậu”. phần tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm<br /> văn chương. Vì vậy các nhà văn, nhà thơ rất<br /> Thơ Xuân Hương thể hiện khát vọng tình<br /> quan tâm khi sử dụng các thủ pháp nghệ thuật<br /> yêu thuộc về bản chất tự nhiên của con người.<br /> để biểu đạt các nội dung tư tưởng của mình.<br /> Bà thấu hiểu điều đó và nâng lên thành triết<br /> lí sống. Thứ triết lí này không xa lạ mà nó gần 3.1. Biểu tượng tạo nghĩa độc đáo<br /> với triết lí trong dân gian - triết lí vì con người, Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống<br /> chống lại những gì trái tự nhiên, làm tổn hại, bằng biểu tượng, biểu tượng càng gần gũi bao<br /> què quặt con người (cả phần hồn và xác), để nhiêu với hiện thực càng có sức sống bấy nhiêu<br /> giành lấy khát vọng và tình yêu đầy đủ cho con với cuộc đời. Các tác phẩm nghệ thuật của ta và<br /> KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9<br /> thế giới chẳng đã có biết bao tác phẩm nghệ Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 04 NĂM 2019<br /> thuật đã từng vượt qua thời gian, sống mãi với Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.<br /> thời gian vì nó không xa lạ với cuộc đời, vì nó<br /> Trai đu gối hạc khom khom cật,<br /> gắn bó máu thịt với cuộc đời, với triết lí muôn<br /> đời mà tinh thần nhân văn luôn tỏa sáng. Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.<br /> Biểu tượng là một điểm độc đáo tạo nên Bốn mảnh hồng quần bay phấp phới,<br /> những cách thức thể hiện lạ lùng trong thơ Hai hàng chân ngọc duỗi song song.<br /> Nôm Hồ Xuân Hương. Bước vào thế giới thơ<br /> Bài thơ Đánh đu đầy những chuyển động<br /> Hồ Xuân Hương như lạc vào rừng biểu tượng<br /> của con người cùng với việc sử dụng từ ngữ<br /> ngôn ngữ, thấp thoáng, gợi đầy những kích<br /> như từ “trồng”, theo cách phát âm của người<br /> thích khám phá, đầy những tín hiệu về xúc cảm<br /> Bắc bộ, “trồng” được đọc như “chồng”, có nghĩa<br /> thẩm mĩ. Có thể nói, biểu tượng trong thơ Hồ<br /> là xếp lên nhau, chồng lên nhau; rồi “uốn lưng”,<br /> Xuân Hương rất đặc biệt - biểu tượng tạo nên ý<br /> nghĩa thứ hai của tác phẩm, những biểu tượng “ngửa lòng”, “chân duỗi song song”... Bài thơ làm<br /> này đa phần là biểu tượng về tính dục. Hệ thống dậy lên một nghĩa khác, hướng đến nghĩa về<br /> ngôn ngữ lấp lánh hai mặt hiện lên qua biểu hành động tính giao của con người. Thế giới<br /> tượng và sự liên tưởng tinh tế của người đọc. nghệ thuật trong thơ bà là một thế giới đầy<br /> biểu tượng tồn tại dưới nhiều dạng thức khác<br /> Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân<br /> nhau muôn màu muôn vẻ. Những biểu tượng<br /> Hương được xây dựng từ thế giới cảm giác<br /> phồn thực đã trở thành ý đồ nghệ thuật, trở<br /> đậm chất dân gian và cực kỳ phong phú: Quả<br /> thành phương tiện chuyển tải ý đồ nghệ thuật<br /> mít, bánh trôi nước, con ốc nhồi, cái quạt, đánh<br /> của nhà thơ.<br /> đu, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, Thiếu ngữ ngủ ngày,<br /> tranh tố nữ ... Đó là những biểu tượng văn hoá Tóm lại đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến<br /> dân gian, văn hoá tôn giáo đã ăn sâu vào tâm với một “rừng” biểu tượng. Những biểu tượng<br /> khảm tiềm thức của dân tộc Việt Nam từ bao có ý nghĩa xã hội sâu sắc và những biểu tượng<br /> đời. Từ những biểu tượng ấy, qua tư duy thơ Hồ phồn thực văn hoá tôn giáo. Nhưng biểu tượng<br /> Xuân Hương được biến hoá thần kỳ lấp lánh ấy đều có hai mặt lấp lửng thanh và tục, nghĩa<br /> nhiều tầng nghĩa, đem đến nhiều cánh lý giải ngầm và nghĩa phô, nghĩa đen và nghĩa bóng.<br /> khác nhau. Thế giới thơ Hồ Xuân Hương là một Hai mặt này kết nối với nhau, chuyển hoá cho<br /> thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới nhiều dạng nhau như âm với dương trong một trạng thái<br /> thức khác nhau với những sắc màu khác nhau cực độ. Bởi vậy, nếu tách chúng ra là phá vỡ cấu<br /> muôn hình vạn trạng. trúc của biểu tượng, dễ đi đến cái nhìn phiến<br /> diện định kiến. Với những cách thể hiện biểu<br /> Vì vậy ta không phải ngạc nhiên thơ Hồ<br /> tượng trong thơ như thế, hình tượng nghệ<br /> Xuân Hương đầy những ám ảnh về biểu tượng<br /> thuật trong thơ Nôm của bà không chỉ đơn<br /> hang động: Động Hương Tích, Hang Cắc Cớ, Đào<br /> thuần là tả cảnh, ca ngợi vẻ đẹp của tự nhiên<br /> Ba Dội, Hang Thanh Hoá, Kẽm Trống, Cửa Dó, Đá<br /> mà qua đó ta còn cảm nhận được những tâm<br /> ông Chồng bà Chồng...<br /> tình, những nỗi niềm của con người.<br /> Cụ thể trong các thi phẩm: Đánh đu, Dệt<br /> 3.2. Ngôn ngữ giàu bản sắc văn hóa<br /> cửi, Trống thủng, Tát nước, Mắng học trò dốt -1,<br /> Mắng học trò dốt -2, Đèo Ba Dội, Tự tình -1, Xướng Khảo sát phần thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta<br /> họa với Chiêu Hổ -1, Xướng họa với Chiêu Hổ -2. thấy bà dùng nhiều thủ thuật chơi chữ, nói lái,<br /> Đánh đu là một trò chơi không thể thiếu được pha trộn nhiều phong cách, vận dụng cả điển<br /> trong những ngày Tết hoặc lễ hội cổ truyền ở cố, điển tích: Bồng Đảo, Đào Nguyên, thỏ ngọc,<br /> nước ta. Xuân Hương miêu tả: Hằng Nga... để ẩn dụ cho vấn đề giới tính; từ<br /> 10 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> những lời nhẹ nhàng hoặc táo tợn mang khẩu của ông sư, bà vãi, chú tiểu với nhau như người<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> khí bình dân: mặc mẹ, thây cha, trái gió ... nhưng bình dân vẫn nói nôm na “ông sư bà vãi cuộn<br /> tất cả đều được thể hiện với sắc thái tinh tế. tròn lấy nhau”.<br /> Ngoài ra Xuân Hương còn đặc biệt chú ý Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng là con<br /> đến nghệ thuật chơi chữ. Chơi chữ để hướng đẻ của người nghệ sĩ. Là sản phẩm của một<br /> đến những gì thuộc về trần thế của con người thời đại. Nhận thức phản ánh là quy luật văn<br /> cũng là một thủ pháp nghệ thuật Xuân Hương chương. Vì thế thơ Hồ Xuân Hương là một<br /> sử dụng rất khéo léo. Bài Bỡn bà lang khóc chồng sản phẩm của thời đại. Một thời đại đang trên<br /> có nhiều từ chỉ các vị thuốc: cam thảo, quế chi, đường băng hoại về đạo đức, suy vi về chính<br /> trần bì, thạch nhũ, quy thân, liên nhục, cả những trị, cùng kiệt về kinh tế... Thơ Hồ Xuân Hương<br /> dụng cụ bào chế thuốc: dao cầu, từ chỉ hành là tiếng nói hết sức hồn nhiên tự nhiên mang<br /> động bào chế thuốc: sao, tẩm. Thủ pháp nghệ đậm bản sắc văn hoá dân gian. Nhưng cũng là<br /> thuật này dựa trên sự đa nghĩa của từ. Ngoài tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với chế độ<br /> giá trị là tên của các vị thuốc, theo nghĩa Hán phong kiến đầy rẫy những bất công ngang trái<br /> Việt, trần bì còn hiểu là da thịt, thạch nhũ: vú lên tiếng bênh vực quyền sống con người đặc<br /> đá, quy thân: phần củ của đương quy, liên nhục: biệt là người phụ nữ. Với một sức sáng tạo tuyệt<br /> thịt của hạt sen. Những từ ngữ luôn lấp lửng chỉ vời. Một nghệ thuật độc đáo có một không hai.<br /> những thứ quen thuộc, những thứ thuộc về đời Thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng giao thoa, là<br /> sống vợ chồng khiến cho bà Lang phải buồn cái gạch nối giữa văn chương bác học và văn<br /> bã, tiếc nuối mới cất tiếng khóc tỉ ti mà không chương bình dân: vừa nôm na dung dị, vừa quý<br /> khóc thảm thiết, khóc cho những thứ đáng để phái cao sang. Những trước tác nghệ thuật của<br /> cho bà ôm ấp thì nay phải tẩm mang đi, những nữ sĩ có sức lay động, sức ám ảnh sâu xa trong<br /> thứ để lại hoá ra vô nghĩa cho một người đàn tâm hồn người đọc.<br /> bà goá bụa. Nhìn nhận và đánh giá thơ Hồ Xuân Hương<br /> Nghệ thuật lái trong mảng thơ Nôm của nói chung, từ góc nhìn văn hoá nói riêng, đem<br /> bà, chắc cũng là hiện tượng vô cùng đặc sắc: đến cho chúng ta một cái nhìn phóng khoáng<br /> suông không đấm, đếm lại đeo, đáo nơi neo, lộn mới mẻ tìm ra cái bản chất, cái mấu chốt trên<br /> lèo, lo cũ, đá đeo, nắng cực, trái gió, đứng tréo, con đường tìm đến chân lý nghệ thuật. Tiếp cận<br /> đẽo đá... Nói lái thường thấy trong văn học dân văn hoá học sẽ mở ra nhiều hứa hẹn mới không<br /> gian, văn học viết có nhưng không nhiều. Ở chỉ nghiên cứu phân tích thơ Hồ Xuân Hương và<br /> đây, Xuân Hương đã khai thác vốn ngôn ngữ thơ trung đại nói riêng mà sẽ là phương pháp<br /> nôm na bình dân để chơi chữ, nói lái. Có lẽ Xuân hữu hiệu áp dụng nghiên cứu các giá trị văn<br /> Hương là một trong số rất ít những nữ sĩ của học nói chung./.<br /> văn học trung đại Việt Nam sử dụng thủ pháp<br /> nghệ thuật này, hơn thế bà dùng khá mạnh TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> tay. Bà tạo ra những câu từ mà độc giả nào vô 1. Trần Nho Thìn - Truyện Kiều dưới góc nhìn văn hoá - NXB<br /> Giáo dục, Hà Nội 2003.<br /> tình sẽ bị “sập bẫy” bà “gài” ngay. “Chùa Quán<br /> 2. Nguyễn Bá Thành - Bản sắc văn hoá Việt Nam qua giao<br /> Sứ” được Xuân Hương tái hiện với lời hỏi thăm lưu văn hoá - NXB ĐHQG Hà Nội,<br /> ông sư trụ trì “đáo nơi neo”, để chú tiểu quên cả 3. Đỗ Lai Thuý - Thơ Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực.<br /> NXB Văn hoá Thông tin.<br /> gõ chày Kình, bà vãi thì ngồi lần tràng hạt hết 4. Lý luận văn học - NXB Giáo dục - ĐHQG Hà Nội.<br /> “đếm lại đeo”. Cụm từ “đáo nơi neo”, “suông không<br /> đấm”, cũng như “đếm lại đeo”... hiểu theo nghĩa<br /> thứ hai của nó thì đây cũng chính là chuyện<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2