intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông tin nghiên cứu và đánh giá Giáo dục Đại học – Số 2/2014

Chia sẻ: Cho Gi An Do | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông tin nghiên cứu và đánh giá Giáo dục Đại học – Số 2/2014 với nội dung đánh giá khoa học không phải cái gì đáng phải tính đếm đều có thể đếm được và không phải cái gì có thể đếm được thì đều phải tính đếm; đánh giá khoa học vai trò, phương pháp và xu hướng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông tin nghiên cứu và đánh giá Giáo dục Đại học – Số 2/2014

thông tin Thông tin<br /> <br /> cứu<br /> Nghiên<br /> & Đánh<br /> cứugiá<br /> & Đánh giá<br /> Giáo dục Đại học Giáo dục Đại học<br /> giá GDĐH,<br /> Trung tâm<br /> Trường<br /> Nghiên<br /> ĐH Nguyễn<br /> cứu & Đánh<br /> Tất Thành,<br /> giá GDĐH,<br /> TP. HCM,<br /> TrườngViệt<br /> ĐHNam Số 2-2014<br /> Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam Số 2-2014<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ng phải cái gì có thểKhông<br /> tính đếm<br /> phải được<br /> cái gì đều<br /> đángđược<br /> phảitính<br /> tínhđếm<br /> đếm đều có thể đếm được<br /> hải cái gì đángvàđược<br /> khôngtínhphải<br /> đếncáithìgìđều<br /> có thể<br /> có thể<br /> đếmđođược<br /> đếmthìđược<br /> đều đáng phải tính đếm<br /> Albert Enstein Albert Enstein<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> LỜI GIỚI THIỆU<br /> Tiếp theo chủ đề bình duyệt đồng nghiệp trong đánh giá khoa<br /> học đã được đặt ra trong Bản tin Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH số<br /> 1-2014, Bản tin số 2 sẽ trình bày một bức tranh tổng thể hơn về<br /> đánh giá khoa học.<br /> Bài tổng thuật này dựa trên một số tư liệu thành văn được các tổ<br /> chức tài trợ nghiên cứu Châu Âu biên soạn gần đây, cùng với một<br /> số kết quả nghiên cứu liên quan, để trình bày một cách tổng quát<br /> vai trò của đánh giá khoa học, giới thiệu một số kỹ thuật đánh giá<br /> phổ biến, phân tích những điểm mạnh và hạn chế của từng<br /> phương pháp, và bàn về cơ chế tài trợ nghiên cứu cho các trường<br /> đại học, dựa trên kết quả khảo sát ở 12 quốc gia.<br /> Chúng tôi nhấn mạnh mục tiêu của đánh giá là cải thiện chất<br /> lượng, đồng thời cũng đề cập đến nguy cơ các tiêu chí thay vì là<br /> công cụ để đánh giá đã biến thành mục đích tự thân của giới hàn<br /> lâm;bởi lẽ điều này đã tạo ra nhiều hiệu ứng tiêu cực.<br /> Giới hàn lâm quốc tế cũng đã bắt đầu nhận ra điều này, và ngày<br /> càng có nhiều tiếng nói ủng hộ cho một xu hướng mới trong<br /> đánh giá khoa học: không xem nhẹ những tiêu chí định lượng và<br /> những thứ có thể tính đếm được như số lượng bài báo hay chỉ số<br /> trích dẫn, nhưng không nô lệ cho những chỉ báo ấy mà bổ sung<br /> cho nó bằng những hình thức và phương pháp khác khả dĩ khích<br /> lệ hiệu quả và chất lượng, khích lệ những công trình nghiên cứu<br /> có thể rủi ro hơn nhưng nhằm vào lợi ích dài hạn của xã hội nhiều<br /> hơn tuy rằng tác động của nó không phải lúc nào cũng dễ dàng<br /> đo lường được.<br /> Để có cái nhìn nhiều chiều, Bản tin số này cũng giới thiệu bản<br /> dịch một bài báo mới đây (ngày 9/12/2013) trên tờ The Guradian<br /> với tiêu đề khá sốc: “Các tập san như Nature, Cell và Science đang<br /> phá hoại khoa học ra sao”, và một bài viết khác nói về tình trạng<br /> lạm dụng đánh giá khoa học của tác giả Yves Gingras đăng trên<br /> University World News số tháng 2-2014 vừa qua. BBT bản tin xin<br /> cảm ơn các tác giả và dịch giả đã cho phép sử dụng bài.<br /> Chúng tôi hy vọng bài viết có nhiều gợi ý hữu ích để cải thiện việc<br /> quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH ở<br /> Việt Nam.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ĐÁNH GIÁ<br /> KHOA HỌC<br /> <br /> Vai trò,<br /> phương pháp<br /> và xu hướng<br /> Phạm Thị Ly<br /> Tổng thuật, bổ sung và bình luận<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> www.cheer.edu.vn 3<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TỔNG QUAN<br /> VỀ ĐÁNH GIÁ KHOA HỌC<br /> Thành quả nghiên cứu khoa học (NCKH) có vai trò quan<br /> trọng trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Để có<br /> những thành quả đó, hoạt động NCKH đòi hỏi một nguồn<br /> lực đầu tư lớn của nhà nước, cũng như của các tổ chức Những lý do để thực hiện<br /> nghiên cứu, các trường ĐH. Chính vì chi tiêu cho NCKH rất<br /> đáng kể, nên cần có những phương pháp đánh giá hiệu<br /> đánh giá khoa học<br /> quả của sự chi tiêu ấy một cách khách quan. Chúng ta đánh giá các dự án, chương trình,<br /> Các quỹ nghiên cứu, các nhà tài trợ cần có minh chứng công trình, đề tài nghiên cứu vì hai lý do<br /> vững chắc để đi đến quyết định xác đáng về việc nên đầu chính: để tăng cường và cải thiện hoạt động<br /> tư cho lĩnh vực gì hoặc nhà khoa học nào. Đánh giá Khoa nghiên cứu, hoặc để nắm bắt được những<br /> học đem lại công cụ để tìm kiếm những minh chứng ấy. kết quả mà nó đạt đến. Với lý do trước ta có<br /> Hơn thế nữa, nó đặt nền tảng cho công việc quản lý, giám đánh giá trong tiến trình, nhấn mạnh việc cải<br /> sát tiến trình nghiên cứu; giúp đánh giá tác động và ý thiện quy trình thực hiện, hoặc nhằm vào<br /> nghĩa thiết yếu của hoạt động nghiên cứu, cũng như rút việc hiểu rõ hơn mục đích và nhu cầu của<br /> kinh nghiệm để điều chỉnh chính sách NCKH và gợi ý cho nghiên cứu. Với lý do sau, ta có đánh giá<br /> những hướng nghiên cứu trong tương lai. tổng hợp và nhằm vào việc hiểu rõ những gì<br /> hoạt động nghiên cứu đã tạo ra, cơ chế nhân<br /> Ở cấp trường/viện/tổ chức khoa học công nghệ, đánh giá quả và hiệu quả của việc đầu tư cho những<br /> khoa học còn liên quan đến việc công bố kết quả nghiên nghiên cứu ấy.<br /> cứu, đề bạt chức danh khoa học, bổ nhiệm biên chế, và<br /> phân bổ kinh phí. Nói một cách cụ thể hơn, hoạt động đánh<br /> giá khoa học nhằm cung cấp thông tin cho<br /> những mục đích sau đây:<br /> Giải trình trách nhiệm và xem xét tính xác<br /> đáng của hoạt động nghiên cứu: nhằm đáp<br /> ứng các yêu cầu về báo cáo và nhằm xem<br /> <br /> <br /> 4 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> xét xem một dự án hay chương trình NCKH đã thực hiện được đến mức độ<br /> nào mục tiêu mà nó đặt ra; tạo điều kiện để các tổ chức, đơn vị, hay quỹ tài<br /> trợ nghiên cứu thấy được liệu quyết định của họ đầu tư cho dự án hay<br /> chương trình đó có phải là một lựa chọn đúng đắn nhất hay không.<br /> Lập kế hoạch và xây dựng chiến lược: nhằm hiểu được cơ chế vận hành của<br /> các sáng kiến hay hoạt động tài trợ; tìm kiếm những cơ chế tốt nhất để đạt<br /> được mục đích; xác định những lĩnh vực ưu tiên để tài trợ và gợi ý cho các<br /> chiến lược tài trợ.<br /> Làm chính sách và vận động cho chính sách: cung cấp minh chứng để tạo ra<br /> cái nền cho những yêu cầu, hay những tác động của hoạt động NCKH trong<br /> những lĩnh vực mà các Quỹ, các tổ chức đang hỗ trợ thực hiện. Những minh<br /> chứng này rất quan trọng để vận động cho những chính sách liên quan.<br /> Cải thiện cách thức hoạt động của các tổ chức, đơn vị: nhằm xác định những<br /> thành tựu của hoạt động NCKH và biết rằng ở nơi nào việc tài trợ cho NCKH<br /> đã tạo ra kết quả khác biệt nổi bật. Điều này sẽ giúp đánh giá tác động của<br /> việc đầu tư cho NCKH từ những nguồn khác nhau và theo những cơ chế<br /> khác nhau.<br /> Tuy việc đánh giá khoa học có thể diễn ra sau khi dự án, công trình đã hoàn<br /> tất, nhưng nó thực chất là một mắt xích trong cái vòng tròn lớn hơn về đánh<br /> giá và ra quyết định, cho nên mỗi bước đi của nó đều cần phục vụ cho mục<br /> tiêu tổng thể là cải thiện cả quá trình hoạt động khoa học.<br /> <br /> <br /> Quy trình đánh giá khoa học<br /> Hình 1 dưới đây cho chúng ta hình dung về quy trình đánh giá khoa học:<br /> <br /> Dự kiến Tài trợ Tình trạng lâm thời<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4<br /> Giai đoạn 5<br /> XIN TÀI TRỢ ĐÁNH GIÁ THÀNH TÍCH NHẬN TÀI TRỢ BÁO CÁO<br /> KẾT QUẢ BAN ĐẦU<br /> NCKH QUÁ KHỨ TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN<br /> <br /> <br /> Phạm Thị Ly<br /> Giai đoạn 6 Giai đoạn 7 Giai đoạn 8 Giai đoạn 9<br /> ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN CHIA SẺ KIẾN THỨC Tổng thuật, bổ sung<br /> TRÍCH DẪN và<br /> ĐÁNH GIÁbình luận<br /> TỔNG KẾT<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Sau khi hoàn thành<br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1: Quy trình đánh giá khoa học<br /> Nguồn: Ismail, Nason, Marjanovic and Grant (2009), adapted from UK Evaluation Forum (2006)<br /> <br /> <br /> <br /> www.cheer.edu.vn 5<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Có ba phân đoạn chính trong quá trình đánh giá khoa học: trước tài trợ, trong quá trình và sau khi hoàn thành.<br /> Đánh giá trước khi tài trợ (Giai đoạn 1 và 2)<br /> Lựa chọn dự án nào để tài trợ là vấn đề đánh giá chất lượng của cả dự án lẫn cá nhân hay tập thể đứng ra thực<br /> hiện dự án bằng cách sử dụng những tiêu chí thống nhất. Trong giai đoạn này, phương pháp phổ biến nhất là<br /> kết hợp bình duyệt đồng nghiệp (peer review – đánh giá qua ý kiến của các chuyên gia trong cùng lĩnh vực) và<br /> phân tích trắc lượng thư mục (bibliometrics – đánh giá qua phân tích thống kê công bố khoa học và chỉ số<br /> trích dẫn). Đôi khi có thể có quy trình điều chỉnh dự án sau bình duyệt để các nhà khoa học cân nhắc ý kiến<br /> của đồng nghiệp, của các bên liên quan và sửa lại dự án ít nhiều nếu cần.<br /> Đánh giá trong quá trình tài trợ (Giai đoạn 3, 4, 5)<br /> Khi dự án nghiên cứu đã được chấp thuận tài trợ và tiến hành thực hiện, cần có một hệ thống quản lý giám sát<br /> nhằm ghi nhận tiến trình đạt được so với mục tiêu đặt ra. Nhiều cơ quan tài trợ nghiên cứu có quy định báo<br /> cáo giữa kỳ mỗi năm hoặc nửa năm một lần trong quá trình thực hiện dự án. Đây cũng là cơ hội để những<br /> người quản lý hoặc thực hiện dự án thảo luận với nhà tài trợ về những điều chỉnh nội dung dự án so với kế<br /> hoạch ban đầu. Điều này rất quan trọng để đảm bảo cho việc nghiên cứu đáp ứng mục tiêu mà nó đặt ra hoặc<br /> trong trường hợp cần thiết xem xét lại mục tiêu ban đầu dưới ánh sáng của những khám phá hay minh chứng<br /> mới xuất hiện trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy , dựa trên việc rút kinh nghiệm và lãnh đạo phù hợp, đánh giá<br /> trong quá trình có vai trò xây dựng tích cực cho hoạt động NCKH.<br /> Một vấn đề thường nảy sinh trong hoạt động đánh giá ở giai đoạn này, là xem xét lại những điều kiện của đầu<br /> vào: nguồn lực tài chính hay vật chất, nhân sự kể cả cộng tác viên) và những yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá<br /> trình nghiên cứu (ví dụ như tính thích hợp của thiết kế nghiên cứu và phương pháp đi tìm câu trả lời cho câu<br /> hỏi nghiên cứu; những khó khăn nảy sinh trong quá trình nghiên cứu; hiệu quả của nghiên cứu, tương tác với<br /> những người có thể sử dụng kết quả của nghiên cứu. Cả những kết quả ban đầu cũng có thể là vấn đề cần<br /> thảo luận trong việc đánh giá ở giai đoạn này: về bài báo khoa học, về những khả năng phổ biến hay áp dụng<br /> một kết quả nào đó đã đạt được trong quá trình thực hiện dự án mặc dù dự án chưa kết thúc.<br /> Đánh giá khi dự án nghiên cứu kết thúc (Giai đoạn 6-9)<br /> Khi dự án nghiên cứu đã hoàn tất, những kiến thức được tạo ra thường được chia sẻ trong cộng đồng học<br /> thuật dưới hình thức bài báo khoa học hay những hình thức ấn phẩm khoa học khác.Thêm vào đó, đã có sự<br /> chia sẻ kiến thức rất quan trọng và mạnh mẽ diễn ra khi người nghiên cứu thiết lập quan hệ hợp tác với đồng<br /> nghiệp, với những nhóm nghiên cứu khác trong nước và ngoài nước, cũng như khi họ trình bày kết quả<br /> nghiên cứu trong các cuộc họp, hội thảo, sinh hoạt học thuật. Đồng thời, kết quả nghiên cứu này cũng sẽ được<br /> trình bày với những đối tượng rộng hơn, những người sẽ sử dụng hay liên quan đến việc sử dụng những kết<br /> quả nghiên cứu ấy, chẳng hạn như nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà chuyên môn, hay cộng đồng xã hội.<br /> Các kênh để phổ biến thì khá đa dạng: qua đào tạo, qua mạng lưới chuyên gia và giao tiếp cá nhân, qua truyền<br /> thông đại chúng, kể cả qua website hay blogs của người nghiên cứu là những hình thức ngày càng phổ biến.<br /> Để có thể đánh giá đầy đủ về việc những kiến thức được tạo ra qua nghiên cứu đã được vận dụng như thế nào<br /> và bởi những ai, rất cần hiểu rõ những kênh truyền thông khoa học này và cách thức vận hành của nó. Những<br /> cơ chế ấy sẽ có ảnh hưởng rất quan trọng tới kết quả sau cùng của dự án. Chính những tác động đến giới hàn<br /> lâm và cộng đồng xã hội là cái mà chúng ta quan tâm nhiều nhất khi đánh giá kết quả cuối cùng về hiệu quả<br /> tài trợ cho một dự án, hay một chương trình nghiên cứu.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 6 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hoàn vốn cho tài trợ nghiên cứu:<br /> tác động mà kết quả nghiên cứu<br /> tạo ra<br /> Các loại tài trợ nghiên cứu khác nhau tạo ra những kiểu Tìm những minh chứng cho<br /> hoàn vốn khác nhau. Việc hoàn vốn này có thể diễn ra ở<br /> bất cứ giai đoạn nào trong quá trình thực hiện dự án tác động mà nghiên cứu<br /> nghiên cứu. Tuy nhiên cần phân biệt những thứ mà hoạt tạo ra<br /> động nghiên cứu tạo ra (ouputs) với những kết quả mà<br /> hoạt động nghiên cứu đạt được (outcomes), và những tác Tác động mà một công trình hay dự án<br /> động mà nó tạo ra (impacts). nghiên cứu tạo ra có thể được đánh giá ở<br /> nhiều cấp độ tổ chức khác nhau, từ cấp độ<br /> Những thứ mà hoạt động nghiên cứu tạo ra là các sản tác động do bản thân dự án tạo ra, đến tác<br /> phẩm tri thức được thể hiện dưới hình thức ấn phẩm động đối với cơ chế tài trợ, đến lĩnh vực<br /> khoa học và chỉ số trích dẫn, bằng sáng chế, số nghiên chuyên ngành, và đến cả hệ thống.<br /> cứu sinh được đào tạo) trong khi những kết quả hay tác<br /> động mà nghiên cứu đạt được thì dẫn chiếu đến những Có một số điều nên và không nên làm trong<br /> lợi ích lớn hơn cho xã hội về chất lượng sống, về hoàn vốn đánh giá khoa học. Tầm quan trọng của<br /> đầu tư và tăng trưởng kinh tế, về những tác động lâu dài những thứ nên hay không nên này tùy thuộc<br /> trong lĩnh vực chuyên ngành, và ảnh hưởng đến tiến trình vào mục đích của các tổ chức tài trợ nghiên<br /> chính trị. Một số tác động về kinh tế và xã hội có thể là kết cứu, cũng như kiểu kết quả hay tác động mà<br /> quả của những nỗ lực thận trọng nhằm phổ biến kết quả họ muốn tạo ra.<br /> nghiên cứu rộng rãi đến công chúng và những người làm Việc đánh giá phải phù hợp với mục tiêu của<br /> chính sách; thường thì kết quả khó mà thấy trước. Những chúng ta: Hệ thống đánh giá của chúng ta,<br /> kết quả mà nghiên cứu tạo ra thường phải mất thời gian bao gồm các tiêu chí mà chúng ta đặt ra và<br /> lâu hơn để nhìn thấy, so với những sản phẩm trực tiếp cách mà ta thực thi việc đánh giá, phải phản<br /> như ấn phẩm hay bằng sáng chế. Hơn thế nữa những kết ánh những gì chúng ta mong muốn việc<br /> quả ấy còn tùy thuộc vào những nhân tố bên ngoài như nghiên cứu phải đạt được và cách mà nó<br /> hành lang pháp lý, môi trường chính trị và xã hội. được thực hiện. Những nghiên cứu do sự tò<br /> mò khoa học thúc đẩy và nhằm tìm ra kiến<br /> thức mới trong những biên giới chuyên<br /> ngành quen thuộc sẽ được đánh giá bằng<br /> những phương pháp thông lệ như bình<br /> duyệt đồng nghiệp và trắc lượng thư mục.<br /> <br /> <br /> www.cheer.edu.vn 7<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Những nghiên cứu đa ngành hay liên ngành cũng ít trình nghiên cứu, được đề cập trên bìa báo hay<br /> nhiều tương tự. Những NCKH nhằm tạo ra sản truyền thông đại chúng, bình duyệt đồng nghiệp,<br /> phẩm mới hay công nghệ đột phá có thể sẽ cần đến v.v.) để xác định những tiến bộ mà nghiên cứu ấy<br /> loại chuyên gia khác và tiêu chí khác để đo lường tạo ra và tác động của nó.<br /> mức độ thành tựu. Nói cho cùng, chúng ta muốn<br /> Đừng diễn giải quá mức các dữ liệu ta có: chúng ta<br /> không chỉ những nhà khoa học tài giỏi nhất, mà là<br /> cần tránh đánh giá tác động hoàn vốn khi không đủ<br /> muốn có những nhà khoa học có khả năng thực<br /> dữ liệu để rút ra một kết luận vững chắc và lành<br /> hiện mục tiêu của chúng ta một cách tốt nhất.<br /> mạnh. Điều này có thể là đặc biệt đáng lưu ý khi đo<br /> Giữ vững tỉ lệ tương đối khi đánh giá: Đừng quên tác động xã hội mà một công trình nghiên cứu nào<br /> đánh giá kết quả nghiên cứu trong mối tương quan đó tạo ra.<br /> giữa những nguồn lực được đầu tư và quy mô, kích<br /> Cố gắng giữ cho dữ liệu và kết luận của chúng ta có<br /> cỡ, trọng tâm của nghiên cứu.<br /> thể so sánh được với nhau: rất hữu ích nếu chúng ta<br /> Nhận thức được sự đánh đổi: Khi thiết kế khung thực hiện so sánh giữa những kết quả đánh giá khác<br /> đánh giá chúng ta cần ý thức được sự tương thuộc nhau qua thời gian và qua các chương trình, dự án,<br /> và đánh đổi tồn tại giữa các yếu tố. Nói cụ thể hơn công trình nghiên cứu khác nhau. Điều này sẽ giúp<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> là, việc lựa chọn mục tiêu đánh giá sẽ ảnh hưởng chúng ta thấy rõ những xu hướng và mô hình của<br /> đến việc lựa chọn các thước đo kết quả, và sự lựa hoạt động khoa học. Khó khăn ở đây là bảo đảm<br /> chọn thước đo kết quả có khả năng sẽ ảnh hưởng tính chất có thể so sánh được với nhau của dữ liệu<br /> đến cách nghĩ về mức độ kết tập và thời gian. Ví dụ, và kết quả, trong khi vẫn công nhận những khác<br /> nếu chúng ta quan tâm đến việc nắm bắt tác động biệt chẳng hạn như khác biệt giữa các lĩnh vực<br /> xã hội mà một công trình nghiên cứu nào đó tạo ra, chuyên ngành hay khác biệt về mục tiêu của các<br /> chúng ta sẽ cần thời gian lâu hơn nhiều sau khi dự chương trình NCKH.<br /> án kết thúc, so với việc đánh giá tác động của công<br /> Hãy nhìn rộng ra về sự thành công: đánh giá thường<br /> trình đó đối với giới hàn lâm.<br /> nhấn mạnh việc đo lường mức độ thành công; điều<br /> Đừng chỉ dựa vào dữ liệu định lượng: Rất dễ rơi vào này có thể tạo ra xu hướng tập trung vào những kết<br /> cái bẫy đo cái gì dễ đo thay vì cố gắng đo cái gì quan quả tích cực và những tin tức tốt lành, nhưng chúng<br /> trọng. Ví dụ, rất dễ đếm số lượng công bố khoa học ta không nên bỏ qua vai trò không kém phần quan<br /> hay số nghiên cứu sinh được đào tạo –nhưng liệu trọng của việc bác bỏ một lý thuyết hay báo cáo về<br /> những con số đó có nói lên những gì mà chúng ta những phát hiện tiêu cực.<br /> cần biết? Các cơ quan tài trợ nghiên cứu ngày càng<br /> Hãy nhận thức rõ mặt trái của tấm huy chương: khi<br /> có xu hướng kết hợp giữa đánh giá định lượng (số<br /> biết rằng nhà tài trợ quan tâm đến một kết quả hay<br /> bài báo khoa học, tài sản trí tuệ, mức tài trợ nhận<br /> tác động nhất định nào đó, và việc đạt được những<br /> được, số lời mời thỉnh giảng) với những thông tin<br /> kết quả ấy sẽ ảnh hưởng đến khả năng xin được tài<br /> định tính (những câu chuyện hay diễn giải về tiến<br /> <br /> <br /> 8 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ<br /> trợ trong tương lai, người nhận tài trợ rất<br /> dễ có xu hướng nhấn mạnh vào việc trình<br /> bày kết quả theo lối mà nhà tài trợ mong<br /> <br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP,<br /> muốn. Điều này tạo ra hai hệ quả: một là,<br /> làm chệch hướng chú ý của những nhà<br /> khoa học nhận tài trợ ra khỏi những<br /> <br /> <br /> KỸ THUẬT CHÍNH<br /> nghiên cứu thoạt đầu đã được hỗ trợ; và<br /> hai là nó có thể dẫn đến việc tạo ra những<br /> công trình ít khả năng rủi ro nhưng có<br /> <br /> <br /> ĐỂ THỰC HIỆN<br /> tiềm năng lợi nhuận cao, mà những công<br /> trình kiểu này không phải bao giờ cũng<br /> nhằm vào phục vụ cho lợi ích dài hạn của<br /> <br /> <br /> ĐÁNH GIÁ<br /> cộng đồng, hay ít nhất, nó cũng làm loãng<br /> đi sự chú ý với những vấn đề có ý nghĩa<br /> quan trọng đối với chuyên ngành, đối với<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC<br /> xã hội, nhưng khả năng rủi ro thì nhiều.<br /> Hãy có cái nhìn dài hạn khi cần: đo lường<br /> kết quả hay tác động cuối cùng của một<br /> dự án hay công trình nghiên cứu là một<br /> việc thường được khởi xướng quá sớm.<br /> Tùy theo loại NCKH và những tác động mà Có nhiều phương pháp đánh giá để đo lường mức độ đạt<br /> người ta muốn đo lường, thời gian cần trải được của các công trình hay dự án nghiên cứu. Mỗi phương<br /> qua để có thể đo lường được tác động pháp đều có những điểm mạnh và hạn chế. Bởi vậy để có thể<br /> phải từ một đến hai năm, thậm chí hai đánh giá các kết quả NCKH một cách xác đáng và hữu hiệu,<br /> mươi năm. Làm điều này một cách thích cần phải xem xét phương pháp nào là thích hợp nhất trong<br /> hợp có thể là một sự đầu tư dài hạn– và ta một bối cảnh cụ thể. Nhìn chung, các phương pháp đánh giá<br /> có thể cần ghi chép tư liệu về kết quả mà khoa học có thể rơi vào hai loại sau đây: (1) rộng và nông, và<br /> nghiên cứu tạo ra trong một thời gian đủ (2) hẹp và sâu. Những cách tiếp cận rộng và nông nhằm nắm<br /> dài, tuy nhu cầu này phải cân đối với bắt những ảnh hưởng trên quy mô lớn hay chất lượng của<br /> nguồn lực hữu hạn. nghiên cứu và thường dựa trên khảo sát cỡ mẫu lớn để lấy<br /> thông tin. Đánh giá hẹp và sâu thì nhấn mạnh việc tìm hiểu<br /> Tóm lại, khi xây dựng một hệ thống đánh<br /> sâu hơn quá trình nghiên cứu, tập trung vào những câu hỏi<br /> giá khoa học, cần giữ cho nó phù hợp với<br /> đại loại như làm thế nào để cải thiện chất lượng của quyết<br /> mục đích của chúng ta – hãy cố gắng giữ<br /> định tài trợ, hay làm thế nào thúc đẩy việc đưa kết quả<br /> cho nó đơn giản và cân đối với mục tiêu.<br /> nghiên cứu thành sản phẩm, công nghệ, dịch vụ và thực tế.<br /> Chú ý đến những hệ quả không dự kiến,<br /> sự khác biệt giữa các chuyên ngành và Dựa trên Tài liệu hướng dẫn đánh giá khoa học của Quỹ Châu<br /> những giới hạn của dữ liệu. Cố gắng nghĩ Âu, có một số phương pháp đánh giá chủ yếu, được nêu<br /> một cách dài hạn, cả về tác động mà dưới đây.<br /> nghiên cứu tạo ra, lẫn tác động của bản<br /> thân việc đánh giá. “Không phải cái gì<br /> đáng phải tính đếm đều có thể đếm được Bộ công cụ đánh giá khoa học<br /> và không phải cái gì có thể đếm được thì Những kỹ thuật dùng trong việc đánh giá khoa học hay<br /> đều đáng phải tính đếm” (Albert Einstein). đánh giá nói chung là ứng dụng từ những phương pháp<br /> nghiên cứu xã hội truyền thống như khảo sát, phỏng vấn và<br /> phân tích thống kê những dữ liệu định lượng. Những kỹ<br /> <br /> <br /> <br /> www.cheer.edu.vn 9<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> thuật chủ yếu được dùng trong đánh giá khoa học gồm có:<br /> 1. Trắc lượng thư mục (bibliometrics): công cụ này cho phép ta đo lường<br /> thành quả và kết quả của nghiên cứu khoa học, rút ra thông tin về số<br /> lượng ấn phẩm và chỉ số trích dẫn bằng các phương pháp thống kê.<br /> 2. Nghiên cứu trường hợp điển hình (case studies): nói chung là dựa trên<br /> nhiều nguồn minh chứng mà tất cả đều cung cấp thông tin cho kết luận<br /> đánh giá và được dùng để kiểm nghiệm mức độ tin cậy của kết luận.<br /> Nguồn minh chứng chủ yếu là tư liệu thành văn đã qua bình duyệt đồng<br /> nghiệp (peer review) và những thứ được gọi là “tư liệu xám” tức những ấn<br /> phẩm do nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và giới hàn lâm thực hiện<br /> và phổ biến qua những kênh bên ngoài hệ thống xuất bản học thuật<br /> thông thường. Ngòai ra còn tư liệu lưu trữ, phỏng vấn bán cấu trúc, vốn có<br /> thể bổ sung bằng khảo sát, và có khi là cơ sở dữ liệu trắc lượng thư mục<br /> 3. Bình duyệt đồng nghiệp (Peer review) và hội đồng chuyên gia: là quá<br /> trình đánh giá liên quan đến những người có trình độ cao trong lĩnh vực<br /> chuyên ngành hoặc lĩnh vực liên quan nhằm phản ánh kết quả hay tác<br /> động của nghiên cứu. Bình duyệt đồng nghiệp được thực hiện cả trước và<br /> sau khi dự án được tài trợ, mục đích là nhằm duy trì các tiêu chuẩn chất<br /> lượng của hoạt động NCKH cũng như mang lại sự khả tín cho những<br /> quyết định của giới quản lý khoa học.<br /> 4. Khảo sát và tư vấn (Surveys and Consultation): dùng để thu thập thông<br /> tin định lượng và định tính trong một quần thể; có thể nhấn mạnh vào ý<br /> kiến hay thông tin thực tế tùy theo mục đích đánh giá.<br /> 5. Phân tích kinh tế (Micro Economic Analysis): là những phân tích dựa<br /> trên các chỉ báo về mặt kinh tế để đo lường sản phẩm, kết quả và tác động<br /> của nghiên cứu:<br /> a. phân tích kinh tế lượng vi mô và mô hình hóa cho phép ước lượng sản<br /> phẩm, kết quả và tác động của nghiên cứu ở cấp độ cá nhân hay bộ phận;<br /> b. phân tích kinh tế vĩ mô và mô hình hóa cho phép ước lượng tác động<br /> kinh tế xã hội rộng hơn của việc can thiệp chính sách ở cấp độ quốc gia.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 10 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Đặc điểm, thuận lợi và hạn chế của các phương pháp<br /> Bảng sau đây miêu tả đặc điểm, những thuận lợi và bất lợi của những phương pháp đánh giá khoa học chuẩn.<br /> <br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM THUẬN LỢI HẠN CHẾ<br /> <br /> PHÂN TÍCH Có thể rộng và  Đo lường định lượng về sản  Ước lượng chất lượng chỉ<br /> TRẮC LƯỢNG nông hoặc hẹp và phẩm dựa trên chỉ số trích dẫn có<br /> THƯ MỤC sâu  Có thể dùng như chỉ báo thể dẫn đến nhận định sai<br /> chất lượng sản phẩm lầm<br />  Tạo điều kiện cho việc phân  Dữ liệu cần được chuẩn hóa<br /> tích xu hướng trên toàn cầu để cóthể so sánh giữa các<br /> chuyên ngành và tập san<br /> khác nhau<br />  Không đo lường được tiềm<br /> năng tương lai<br /> <br /> NGHIÊN CỨU Hẹp và sâu  Đem lại phân tích sâu sắc về  Định kiến trong lựa chọn:<br /> TRƯỜNG HỢP quá trình khám phá của hoạt làm sao biết trường hợp<br /> ĐIỂN HÌNH động NCKH được chọn có tính chất đại<br />  Có thể chứng minh con diện cho quần thể?<br /> đường từ khoa học cơ bản  Để làm tốt cần nguồn lực lớn<br /> đến ứng dụng  Có thể khó mà khái quát hóa<br />  Áp dụng rộng rãi từ những kết quả này<br />  Được chấp nhận rộng rãi<br />  Linh hoat và thích nghi<br /> <br /> BÌNH DUYỆT Hẹp và sâu  Là một bộ phận được hiểu  Hạn chế về thời gian của các<br /> ĐỒNG NGHIỆP rất rõ trong công tác quản lý chuyên gia có thể thực hiện<br /> CÓ HỆ THỐNG khoa học bình duyệt<br />  Được chấp nhận rộng rãi  Quan ngại về tính khách quan<br /> và đáng tin cậy của kết quả<br /> <br /> Có thể hẹp và sâu Có thể xác định sản phẩm và Phụ thuộc vào những mối<br /> KHẢO SÁT VÀ TƯ VẤN<br />  <br /> hoặc rộng và kết quả của nghiên cứu liên quan hệ sẵn có<br /> nông đới như thế nào với tài trợ  Tỉ lệ câu trả lời nhận được<br />  Cho phép phân tích định thấp có thể hạn chế kết quả<br /> tính về kết quả của nghiên khảo sát<br /> <br /> TỈ LỆ HOÀN VỐN VỀ MẶT KINH Rộng và nông  Có thể áp dụng với những  Nhiều nhân tố ảnh hưởng<br /> TẾ 1 - PHÂN TÍCH KINH TẾ VI MÔ khu vực khác nhau đến nghiên cứu khó có thể<br />  Có tiềm năng so sánh, ví dụ quy thành tiền<br /> phân tích chi phí và lợi ích<br /> <br /> TỈ LỆ HOÀN VỐN VỀ MẶT KINH Rộng và nông  Định lượng  Khó có thể xác định sự đóng<br /> TẾ 2 - PHÂN TÍCH KINH TẾ VĨ MÔ  Đem lại bức tranh toàn cảnh, góp của từng phần, từng cá<br /> và bối cảnh cụ thể của nhân hay của nhà tài trợ<br /> nghiên cứu<br /> <br /> Bảng 1: Đặc điểm, thuận lợi và bất lợi của những phương pháp đánh giá khoa học chuẩn<br /> Nguồn: Ismail, Nason, Marjanovic and Grant (2009), adapted from UK Evaluation Forum (2006)<br /> <br /> www.cheer.edu.vn 11<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Chúng ta cần cân nhắc những điểm thuận lợi và bất lợi<br /> nêu trên khi lựa chọn phương pháp thích hợp để đánh giá<br /> nhằm phù hợp với mục tiêu và bối cảnh. Ví dụ, nghiên cứu<br /> điển hình có vẻ không mấy thích hợp khi thời gian và<br /> nguồn tiền cho việc đánh giá bị hạn chế, hay trắc lượng<br /> thư mục có thể không phù hợp lắm đối với những lĩnh vực<br /> có ít tập san được tính đến trong các cơ sở dữ liệu hiện nay.<br /> Vì mỗi phương pháp đều có giới hạn, chúng ta rất nên xem<br /> xét việc kết hợp các phương pháp khác nhau nếu nó khả<br /> thi, vì điều này có thể cải thiện chất lượng chung của việc<br /> đánh giá khoa học.<br /> <br /> <br /> VAI TRÒ CỦA<br /> Một số kỹ thuật đánh giá khoa học khác là:<br /> Đối sánh (Benchmarking): cho phép ta so sánh chất lượng<br /> hoạt động dựa trên một bộ tiêu chí<br /> Phân tích chi phí và lợi ích (Cost-benefit analysis) giúp thiết<br /> lập các chính sách, chương trình hay dự án có hiệu quả về ĐÁNH GIÁ<br /> KHOA HỌC<br /> mặt kinh tế bằng cách đánh giá những ảnh hưởng xã hội<br /> và kinh tế của nó.<br /> Đánh giá giá trị của nghiên cứu qua ý kiến công chúng:<br /> xem xét nhận thức của công chúng, hay các bên khác<br /> nhau, về giá trị của những kiến thức mà nghiên cứu tạo ra. Đánh giá khoa học có thể phục vụ cho việc<br /> Phân tích mạng lưới các nhóm xã hội liên quan: cơ cấu của kiểm nghiệm giá trị của một kết quả nghiên<br /> các mối quan hệ hợp tác đôi khi là một thước đo cho kết cứu nhằm quyết định việc công bố nó trên các<br /> quả một dự án nghiên cứu tạo ra và là một hiện tượng thú tập san khoa học; phục vụ cho việc đề bạt chức<br /> vị cần nắm bắt. danh khoa học và bổ nhiệm biên chế; phục vụ<br /> cho việc xét tài trợ và đánh giá kết quả tài trợ,<br /> Mô hình hóa logic: dùng để nắm bắt mối liên hệ logic giữa<br /> phục vụ cho việc xây dựng chính sách khoa<br /> những yếu tố đầu vào (nguồn lực, hạ tầng, con người) với<br /> học nói riêng ở cấp trường viện hay cấp quốc<br /> quá trình thực hiện, sản phẩm, kết quả và tác động của<br /> gia, và chính sách phát triển kinh tế xã hội nói<br /> hoạt động nghiên cứu.<br /> chung. Nó có thể cung cấp minh chứng hay dữ<br /> Để kết luận về phần phương pháp, có thể dùng một vài ý liệu cho việc cải thiện hệ thống tài trợ, chính<br /> kiến của Griffiths và King (1991, p. 3) về những nguyên tắc sách thúc đẩy nghiên cứu, cũng như phân tích<br /> tạo ra hiệu quả của đánh giá để áp dụng cho đánh giá nhu cầu, dự đoán xu hướng trong hoạt động<br /> khoa học: khoa học.<br /> 1. Việc đánh giá khoa học cần phải có mục đích rõ ràng và Có nhiều tổ chức khác nhau thực hiện việc<br /> cụ thể; bản thân việc đánh giá không phải là mục đích cuối đánh giá khoa học, với những mục đích khác<br /> cùng. Nếu không có tiềm năng hành động sau khi đánh nhau và nhấn mạnh những tiêu chí khác nhau.<br /> giá, thì chẳng cần phải đánh giá làm gì. Đã có khá nhiều tranh luận chung quanh chủ<br /> 2. Việc đánh giá không được dừng lại ở chỗ miêu tả, mà đề đánh giá khoa học đóng góp như thế nào<br /> phải xem xét được mối quan hệ giữa các nhân tố tham gia cho việc cải thiện chính sách nghiên cứu và<br /> vào hoạt động nghiên cứu, cũng như mối quan hệ giữa cuối cùng là cho năng suất và hiệu quả của<br /> công trình nghiên cứu ấy với người sử dụng, với hoạt động khoa học nói chung. Phần này sẽ<br /> trường/viện, với các bên liên quan khác, và với xã hội. bàn đến mối liên hệ giữa đánh giá khoa học và<br /> tài trợ nghiên cứu.<br /> <br /> <br /> <br /> 12 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Năm 2004, Aldo Geuna và Ben R. trong giới hàn lâm đã đáp ứng bằng cách chơi trò thủ thuật<br /> Marti đã thực hiện một nghiên cứu đối để tăng số lượng bài báo mà không cải thiện gì hoạt động<br /> sánh với 12 quốc gia ở châu Âu và châu nghiên cứu thực sự.<br /> Á- Thái Bình Dương nhằm so sánh cơ<br /> Mặt khác cấp tài trợ cho nghiên cứu ở các trường ĐH dựa<br /> chế cấp tài trợ nghiên cứu cho các<br /> trên kết quả còn làm dãn rộng thêm khoảng cách giữa<br /> trường ĐH. Các nước đó bao gồm khu<br /> nghiên cứu và giảng dạy. Nếu những khích lệ dành cho<br /> vực Tây Âu: Hà Lan, Đức, Anh, Na uy, Đan<br /> nghiên cứu lớn hơn những khích lệ dành cho giảng dạy, giới<br /> Mạch, Phần Lan; khu vực Đông Âu: Hun-<br /> hàn lâm sẽ tập trung cho nghiên cứu thay vì giảng dạy. Đã<br /> gary, Poland, Cộng hòa Séc; và khu vực<br /> thế, việc xét thành tích để cấp kinh phí nghiên cứu chủ yếu<br /> châu Á- Thái Bình Dương: New Zealand,<br /> dựa vào những gì đã đạt được trong quá khứ thay vì hiện tại,<br /> Australia và Hong Kong. Có hai xu<br /> nói gì đến tương lai. Bởi vậy nó góp phần củng cố thêm hiện<br /> hướng trái ngược nhau: (i) tài trợ cạnh<br /> trạng, hay là làm cho nước chảy chỗ trũng; những trường hay<br /> tranh dựa trên kết quả hoạt động thuần<br /> những nhóm/ cá nhân đã có thành tích tốt sẽ dễ dàng được<br /> túy, và (ii) tài trợ dựa trên quy mô của<br /> cấp kinh phí và tiếp tục có thêm thành tích, trong lúc những<br /> nhà trường. Ít có nước nào hoàn toàn<br /> nhân tố mới sẽ bị hạn chế cơ hội.<br /> theo xu hướng thứ nhất, nhưng trong<br /> số đó thì Anh là nước dẫn đầu. Trong xu Trong khi đó, cấp tài trợ dựa trên quy mô nhà trường cũng có<br /> hướng thứ hai, ngày càng nhiều tiếng những thuận lợi nhất định. Nó là một hệ thống đơn giản, dễ<br /> nói đòi hỏi tăng cường một số hình vận hành, chi phí thấp. Mô hình này có ý nghĩa như là giao<br /> thức đánh giá. Tuy thế, trong cả hai xu cho mỗi khoa hay trường một mớ hạt giống để đầu tư cho<br /> hướng, giới học thuật đều phản kháng đội ngũ giảng viên hoặc những lĩnh vực còn yếu. Nếu giảng<br /> với một số tiêu chí và ở một số nước họ viên không bị sức ép của đánh giá ngắn hạn, họ có thể dành<br /> đã giành được thắng lợi: mọi tiêu chí thời gian và nỗ lực cho những dự án nghiên cứu cơ bản, dài<br /> nhằm gắn kết quả nghiên cứu với việc hạn và nhiều rủi ro hơn. Kiểu tài trợ theo quy mô nhà trường<br /> tài trợ phải được sự đồng thuận của họ. cũng cho các trường một cơ hội đồng đều để vươn lên và<br /> tạo ra sự đa dạng cho mặt bằng nghiên cứu khoa học của cả<br /> Có nhiều lý do để ủng hộ cũng như<br /> hệ thống. Khi giảng viên không bị sức ép phải tạo ra thành<br /> phản đối cách tiếp cận tài trợ cho NCKH<br /> tích nghiên cứu, họ có thể tập trung cho việc dạy tốt, nhờ đó<br /> trên cơ sở kết quả hoạt động. Hiển<br /> thu hút thêm sinh viên, và vì số lượng sinh viên tăng thì ngân<br /> nhiên là cách tiếp cận này hỗ trợ cho tài<br /> sách nghiên cứu cũng tăng theo, cơ chế này khuyến khích<br /> năng, kích thích năng suất và cải thiện<br /> hội nhập việc giảng dạy với nghiên cứu.<br /> chất lượng. Nó tăng cường hiệu quả sử<br /> dụng nguồn lực trong ngắn hạn, giúp<br /> tập trung nguồn đầu tư cho những lĩnh<br /> vực ưu tiên trước mắt. Tuy nhiên, mặt<br /> trái của nó là, do dựa trên cơ sở cạnh<br /> tranh, nó sẽ khuyến khích những<br /> nghiên cứu có tính chất “an toàn” thay vì<br /> những nghiên cứu nhắm đến lợi ích xã<br /> hội, nó làm nản lòng những người<br /> muốn thử nghiệm cách tiếp cận mới<br /> thường có nhiều rủi ro, do đó nó làm<br /> giảm tính chất đa dạng vốn rất cần<br /> trong hoạt động khoa học. Hơn thế nữa<br /> một hệ thống coi ấn phẩm khoa học là<br /> tiêu chí chủ yếu sẽ rất dễ dẫn đến lạm<br /> phát công bố quốc tế. Nhiều người<br /> <br /> <br /> <br /> www.cheer.edu.vn 13<br /> Thông tin Nghiên cứu & Đánh giá Giáo dục Đại học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tuy vậy, cấp tài trợ theo quy mô nhà<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> trường cũng có mặt trái của nó. Kinh<br /> phí nghiên cứu được cấp dựa theo số<br /> lượng sinh viên hẳn nhiên không đem<br /> lại nhiều khích lệ để cải thiện chất Đánh giá khoa học là một lĩnh vực phức tạp nhưng rất quan<br /> lượng hoạt động nghiên cứu. Quan trọng để thúc đẩy hoạt động NCKH và đặc biệt có ý nghĩa trong<br /> trọng hơn là, nó có ít trách nhiệm giải việc xây dựng văn hóa khoa học ở các trường ĐH Việt Nam. Hoạt<br /> trình. Nó rất dễ tạo ra những nghiên động đánh giá khoa học được thực hiện nhằm mục tiêu gì, với<br /> cứu ở trên trời theo kiểu xem trường phương pháp như thế nào và dựa trên những tiêu chí ra sao, là<br /> ĐH là tháp ngà tách khỏi những đòi hỏi điều sẽ tác động trực tiếp đến động lực làm việc và cách xử sự<br /> của xã hội và củng cố định kiến về của giới hàn lâm. Không có phương pháp đánh giá nào là hoàn<br /> những nhà khoa học làm biếng. Nó gây hảo hoặc phù hợp cho mọi lĩnh vực, đối tượng và mục đích. Mỗi<br /> ra tình trạng trơ ỳ, tương tự như những phương pháp đều có điểm mạnh và chỗ hạn chế, đều có thể<br /> gì ta thấy ở Liên bang Xô viết cũ và tạo ra kết quả tích cực kèm với một số hiệu ứng tiêu cực. Điều<br /> Đông Âu. Nó cũng giao quá nhiều quan trọng là chúng ta nhận thức được những điểm đó để lựa<br /> quyền lực cho giới quản lý ĐH trong chọn hay sử dụng phương tiện nào cho mục tiêu cụ thể của<br /> việc phân bổ kinh phí nội bộ khiến chúng ta.<br /> phẩm chất thực sự của hoạt động<br /> nghiên cứu không được coi trọng. Ở những nước có truyền thống học thuật lâu đời, có một nền<br /> Trong hệ thống này, việc phân bổ kinh văn hóa khoa học vững chắc, đánh giá khoa học vẫn là một việc<br /> phí tùy thuộc rất ít vào mối quan hệ với phức tạp và khó khăn, huống chi ở Việt Nam, một nước vừa ra<br /> chính sách. Ví dụ, vì nhiều lý do, sinh khỏi thời kỳ đóng cửa và vẫn đang từng bước hội nhập vào sân<br /> viên ngành truyền thông bỗng nhiên chơi khoa học toàn cầu, thì công việc này càng nhiều thách<br /> tăng vọt. Nhưng nó không có nghĩa là thức gấp bội. Thách thức đặt ra cho giới làm khoa học và giới<br /> nhu cầu nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý khoa học ở Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh<br /> truyền thông cũng tăng. Nhưng hệ chung của xã hội. Một điểm nổi bật về mặt quản trị ở khu vực<br /> thống cấp kinh phí theo quy mô sinh công là tư duy nhiệm kỳ và gắn với nó là bệnh thành tích; còn ở<br /> viên sẽ tự động tăng kinh phí nghiên khu vực tư là tầm nhìn ngắn hạn và gắn với nó cũng là bệnh<br /> cứu cho ngành này, trong lúc có những thành tích. Nó dẫn đến kết quả là mọi thước đo đều có thể bị<br /> ngành, tuy số người theo học ít, nhưng bóp méo và đều có thể bị làm giả. Chẳng hạn, thúc đẩy công bố<br /> nhu cầu nghiên cứu thì rất cao và ý quốc tế là điều tốt vì nó khuyến khích giảng viên tạo ra tri thức<br /> nghĩa đói với xã hội thì hết sức quan mới và kiểm nghiệm tri thức ấy qua bình duyệt đồng nghiệp<br /> trọng, chẳng hạn triết học, xã hội học, quốc tế. Nhưng nó chỉ tốt khi được thực hiện trên cái nền văn<br /> sử học, v.v. lại không được cấp kinh phí hóa học thuật đã trưởng thành, tức là không khoan thứ sự gian<br /> nghiên cứu đầy đủ. lận dưới mọi hình thức. Ngược lại, trên một cái nền văn hóa học<br /> thuật yếu kém và năng lực nghiên cứu còn hạn chế, thì việc thúc<br /> Cuối cùng, hệ thống này sẽ chia đều đẩy công bố quốc tế quá mức sẽ có thể tạo ra vô số trò ma<br /> kinh phí theo số lượng sinh viên, khiến mãnh, từ mua bài báo đến giả tạo dữ liệu và sản sinh vô vàn tập<br /> cho đầu tư NCKH trở nên dàn trải và san dỏm. Kết quả như chúng ta đã thấy, là tình trạng lạm phát<br /> quá mỏng. Hậu quả là đối với tất cả các bài báo khoa học, đến mức có người nhận định 95% bài báo<br /> nước chỉ trừ những nước giàu nhất, sẽ khoa học trên các tập san là vô bổ so với một bài báo hàng ngày<br /> không một trường nào đủ sức cạnh có phân tích thông tin.<br /> tranh nổi với những trường ĐH hàng<br /> đầu trên thế giới. Khuyến nghị của chúng tôi là sử dụng đánh giá khoa học như<br /> một công cụ nhằm xây dựng văn hóa nghiên cứu và khích lệ<br /> chất lượng, hướng đến hiệu quả trước mắt nhưng cũng không<br /> coi nhẹ những nghiên cứu tạo ra lợi ích căn bản và dài hạn cho<br /> <br /> <br /> <br /> 14 Số 2-2014<br /> Trung tâm Nghiên cứu & Đánh giá GDĐH, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, TP. HCM, Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> xã hội. Từ chỗ đánh giá hoạt động khoa học của một cá<br /> nhân hay đơn vị, một đề tài hay công trình, dự án một<br /> cách cảm tính, chúng ta bước sang cực ngược lại là phụ<br /> thuộc máy móc vào các tiêu chí định lượng, ví dụ cách<br /> tính điểm để xét học hàm. Cái gốc của hiện tượng này<br /> là sự thiếu hụt niềm tin vào các giá trị của con người.<br /> Hậu quả của nó là các tiêu chí thay vì là công cụ để<br /> đánh giá đã biến thành mục đích tự thân của giới hàn<br /> lâm, tệ hơn nữa, là một mục đích cần đạt đến với bất cứ<br /> giá nào. Hậu quả rộng hơn là nó tạo ra một thị trường<br /> bát nháo thật giả tốt xấu hay dở lẫn lộn khó phân, một<br /> tình trạng có thể nói ngắn gọn là “loạn chuẩn mực”.<br /> Tình trạng đó khiến động lực cải thiện chất lượng thực<br /> sự bị triệt tiêu, vì những điều đúng và tốt, những giá trị<br /> thật sẽ chìm lấp trong những thứ giả và dỏm. Đánh giá<br /> khoa học, vì vậy là một con dao hai lưỡi mà chúng ta<br /> không thể không dùng, dù nó có thể phục vụ cho cuộc<br /> sống của chúng ta mà cũng có thể làm đứt tay nếu ta<br /> cầm không đúng hướng.<br /> <br /> <br /> Ghi chú: Phần Lý do, Quy trình, Phương pháp Đánh giá Khoa học dựa vào tài liệu Hướng dẫn của European<br /> Foundation Centre: “Research Evaluation Forum Guidelines”. Phần Vai trò của Đánh giá Khoa học dựa vào<br /> công trình của A.Geuna và Ben Martin. Phần kết luận là bình luận của người viết. Bài tổng thuật này tổng<br /> hợp từ các nguồn tư liệu khác nhau như đã nêu trên và không phải là một bài nghiên cứu. Bài này chỉ nhằm<br /> mục đích giới thiệu vắn tắt những tri thức cơ bản về đánh giá khoa học cho người đọc. Chúng tôi cũng giới<br /> thiệu văn bản gốc dưới đây và các tài liệu liên quan để người đọc tiện tham khảo.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TƯ LIỆU THAM KHẢO<br /> Tư liệu sử dụng trực tiếp cho phần tổng thuật:<br /> 1. 1. . Nguồn:<br /> http://www.efc.be/programmes_services/resources/Documents/Research_Evaluation_Guidelines_3<br /> _How_to_Evaluate.pdf<br /> 2. Steven I. Miller and Marcel Fredericks (2006). Mixed-Methods and Evaluation Research:Trends and<br /> Issues. QUALITATIVE HEALTH RESEARCH, Vol. 16 No. 4, April 2006 567-579; DOI:<br /> 10.1177/1049732305285691<br /> 3.Ronald R. Powell (2006). Evaluation Research: An Overview. LIBRARY TRENDS, Vol. 55, No. 1, Summer<br /> 2006 (“Research Methods,” edited by Lynda M. Baker), pp. 102–120; © 2006 The Board of Trustees,<br /> University of Illinois<br /> S4. Aldo Geuna and Ben R. Martin (2003). University Research Evaluation and Funding: An<br /> International Comparison. Springer, Minerva, Vol. 41, No. 4 (2003), pp. 277-304. Accessed: 16/02/2014<br /> 18:18<br /> <br /> <br /> <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2