Thu nhập trên đầu tư: một công cụ để ra quyết định

Định nghĩa và bình luận: 1.

Dự trù vốn 2.

Phương pháp hoàn trả 3.

Tỷ lệ thu nhập kế toán 4.

Giá trị hiện tại ròng 5.

Tỷ suất nội hoàn 6.

1. Định nghĩa và bình luận:

Thu nhập trên đầu tư, ROI, được tính bằng cách chia thu nhập ròng hoặc lợi

nhuận cho giá trị tổng tài sản của công ty và nhân kết quả đó với 100 để thể hiện

dưới dạng tỷ lệ %. ROI là chỉ tiêu thông thường về mức độ lợi nhuận, mà mức độ đó

lại được dùng để đánh giá hiệu quả của khả năng sử dụng các nguồn lực đã được

giao phó cho công ty. Việc kiểm soát ROI giúp cho bộ phận quản lý đánh giá tính

hiệu quả của công tác hoạch định và các hoạt động sản xuất.

Những người có liên quan quyền lợi đến công ty của bạn (Stakeholder) cũng rất

quan tâm đến ROI. Những người này bao gồm công nhân, cổ đông, khách hàng và

những người cho vay. Đối với những người có liên quan về quyền lợi trong công ty

nhưng không tham gia vào việc điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, ROI có

ích ở chỗ tỷ số này có thể được sử dụng để so sánh hoạt động của các công ty ở các

ngành khác nhau.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ROI trở nên rất quan trọng trong việc phân

bổ vốn mới. Khi nguồn cung vốn còn hạn hẹp và các doanh nghiệp phải cạnh tranh

để được phân bổ vốn mới thì những doanh nghiệp có ROI cao hơn có thể có lợi thế

hơn. Nhà nước có thể quyết định tốt hơn để nhận ra những công ty sử dụng hiệu quả

nhất những nguồn lực do họ quản lý.

Có những phương pháp khác để đánh giá khả năng sinh lợi và hoạt động của

doanh nghiệp nhưng tất cả đều không đầy đủ bằng ROI. Ví dụ, một chỉ tiêu có thể

thể hiện một cách đơn giản xu hướng về số lượng thực của thu nhập ròng hay lợi

nhuận. Nhưng chỉ tiêu đó lại không tính đến khoản đầu tư vào tài sản cần có để tạo

ra những khoản lãi đó. Lợi nhuận cận biên tịnh, lợi nhuận tịnh được tính như % của

tổng doanh thu, là một phương thức để tính lợi nhuận và đánh giá hoạt động của

công ty nhưng tỷ lệ này cũng có hạn chế tương tự như lợi nhuận thực tế.

Một phương thức thông thường khác để đánh giá mức độ sinh lời là tỷ lệ thu

nhập trên vốn chủ sở hữu - ROE - tỷ số của thu nhập ròng chia cho đầu tư của chủ

sở hữu cộng với thu nhập tích luỹ. Đối với những công ty có những cổ đông bên

ngoài, thì đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng bởi vì nó liên quan đến thu nhập đối với

khoản đầu tư của họ. ROE loại bỏ ảnh hưởng của các khoản nợ. Bằng cách chỉ tính

vốn của chủ sở hữu và lãi để lại, ROE chỉ tính lợi nhuận so với phần đầu tư cố định

bằng vốn chủ sở hữu và lợi nhuận tích luỹ.

Mối liên hệ giữa lợi nhuận và đầu tư rất cơ bản và cũng rất hay bị hiểu nhầm.

Ví dụ, trên báo chí thường có những bài viết về những công ty hay những doanh

nghiệp nhà nước thu được những khoản lãi rất lớn mà không đề cập đến quy mô tài

sản của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp khi đánh giá mức độ tổng vốn đầu tư

cần thiết để tạo ra lợi nhuận lớn như vậy, nói một cách khác khi tính ROI thì ta sẽ

thấy lợi nhuận đó không lớn đến mức như vậy.

Lợi nhuận ròng tính cả vào đầu kỳ lẫn cuối kỳ. Lợi nhuận ròng thể hiện kết quả

cuối cùng của các hoạt động kinh doanh trong năm nhưng nó là sự bắt đầu của các

khoản thanh toán và đầu tư mang lại lợi ích dài hạn. Lợi nhuận ròng là cơ sở của các

khoản tiền thưởng cho các công nhân, trả cổ tức hay các khoản trả cho vốn góp của

nhà nước hay các cổ đông khác và lãi ròng tích luỹ là những nguồn chính của vốn để

thay thế các tài sản cần thiết cho sự phát triển của công ty.

Chúng ta sử dụng từ "thu nhập" để chỉ khoản lợi nhuận sau khi trừ đi tất cả các

chi phí và thuế. Rất cần phải lưu ý rằng thu nhập có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau.

Thu nhập có thể có nghĩa là thu nhập từ hoạt động, thu nhập trước thuế và chi phí lãi

suất trả cho nợ dài hạn hay thu nhập cũng có thể có nghĩa là dòng tiền như đã được

định nghĩa và thảo luận ở phần báo cáo dòng tiền. Khi sử dụng những tỷ số này thì

phải làm rõ những khái niệm trên.

Sơ đồ công thức dưới đây được sử dụng trong hệ thống quản lý tài chính

DuPont. Sơ đồ này tách ROI thành các yếu tố cấu thành và là cách hữu ích để xem

xét các quyết định quản lý sẽ tác động đến ROI như thế nào từ một góc độ kinh

doanh.

Những thành phần được miêu tả ở phía trên bên tay phải của ROI là các yếu tố

cấu thành của tỷ lệ lợi nhuận; các yếu tố được nêu ra ở phần dưới là các yếu tố cấu

thành vòng quay vốn. Mỗi bước mô tả cách tính các thành phần trong các bước

trước. Ví dụ, số vòng quay vốn đầu tư được tính bằng cách chia doanh thu cho tổng

vốn đầu tư. Tổng vốn đầu tư bằng số vốn lưu động cộng các khoản đầu tư dài hạn

hay tài sản cố định. Vốn lưu động là tổng của tồn kho, các khoản phải thu và tiền

mặt.

Sơ đồ này có thể được sử dụng để phân tích hoặc lập kế hoạch những thay đổi

trong ROI. Ví dụ, một công ty có thể thừa đất so với nhu cầu sản xuất. Bán tài sản

cố định thừa này sẽ giảm giá trị đầu tư dài hạn và do đó cải thiện số vòng quay vốn

đầu tư và ROI. Điều này dựa trên giả định rằng tiền mặt có được từ việc bán tài sản

đó được sử dụng để giảm nợ hoặc để mua những thiết bị mới để có thể tăng sản

lượng. ROI sẽ không được cải thiện nếu tiền mặt có được từ việc bán tài sản cố định

chỉ để trong tài khoản ngân hàng. Trong trường hợp đó, các tài sản có thời hạn sử

dụng lâu dài sẽ giảm nhưng vốn lưu động sẽ tăng do đó không tác động đến ROI.

Tương tự như vậy, nếu có thể giảm các chi phí quản lý mà không giảm doanh

thu, thu nhập sẽ tăng lên, tỷ lệ % lãi so với doanh thu sẽ tăng và ROI cũng vậy.

Trong rất nhiều trường hợp, các công ty không có khả năng điều chỉnh giá cả, điều

đó có nghĩa là họ phải áp dụng mức giá mà các đối thủ cạnh tranh đặt ra. Trong

trường hợp đó sơ đồ này rất hữu dụng bởi vì nó chỉ ra những yếu tố cấu thành khác

ngoài giá bán hàng hoá cần phải được thay đổi để tăng lợi nhuận.

2. Dự trù vốn

Một ứng dụng thông thường của khái niệm thu nhập trên vốn đầu tư có thể

thấy trong việc dự trù vốn. Dự trù vốn là quá trình đánh giá và so sánh các hạng

mục đầu tư khác nhau vào các tài sản cố định như máy móc và các nhà máy mới.

Bốn phương pháp khác nhau dưới đây được sử dụng để dự trù vốn.

3. Phương pháp hoàn trả

Nguyên lý của nó là thời gian cần thiết để hoàn lại vốn đầu tư càng ngắn thì rủi

ro càng thấp. Như vậy có nghĩa là dòng tiền mặt trong thời hạn càng dài thì càng khó

phán đoán hơn trong thời hạn ngắn. Công thức như sau:

Thời gian hoàn trả = (Đầu tư ban đầu) / (Dòng tiền trong một năm)

Việc tính dòng tiền dựa vào thu nhập ròng được tạo ra nhờ khoản đầu tư mới

cộng với khấu hao hàng năm được tính là kết quả của khoản đầu tư mới. Việc phân

tích này chỉ xét đến ảnh hưởng của các hoạt động đầu tư mới chứ không phải tổng

của toàn bộ hoạt động của công ty.

Phương pháp hoàn trả nhấn mạnh đến khả năng thanh khoản và đặc biệt chiếm

ưu thế trong môi trường không ổn định. Nhược điểm của phương pháp này là sau khi

hoàn trả người ta sẽ không chú ý đến dòng tiền nữa và phương pháp này không thấy

được giá trị thời gian của tiền.

4. Tỷ lệ thu nhập kế toán

Phương pháp tính thời gian hoàn trả chú trọng đến dòng tiền; phương pháp

tính tỷ lệ thu nhập kế toán chú trọng vào tính sinh lời khi sử dụng con số lợi nhuận

dự tính dựa vào các báo cáo tài chính trên cơ sở dồn tích. Công thức chung là:

Tỷ lệ thu nhập kế toán = (Lợi nhuận trung bình hàng năm dự tính) / (Đầu tư trung bình)

Thu nhập trung bình dự tính hàng năm thể hiện chênh lệch giữa doanh thu và

các chi phí của dự án. Đầu tư trung bình được tính bằng đầu tư ban đầu cộng với đầu

tư vào thời điểm cuối của dự án chia cho 2.

Phương pháp tính tỷ lệ thu nhập kế toán có lợi thế vì kết quả gắn liền với mục

tiêu tăng tổng thu nhập trên vốn đầu tư. Nó có nhược điểm là không xét đến dòng

tiền và giá trị thời gian của tiền.

5. Giá trị hiện tại ròng

Trong phương pháp này dòng tiền vào và ra dự tính thu được từ các khoản đầu

tư vào các tài sản cố định mới được chiết khấu về thời điểm hiện tại với một tỷ lệ

chiết khấu chọn trước. Chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra là giá trị hiện

tại ròng. Chỉ những dự án có giá trị hiện tại ròng dương mới được chấp nhận vì thu

nhập từ những dự án này cao hơn tỷ lệ chiết khấu.

Giá trị hiện tại dựa trên quan niệm cho rằng tiền mà người ta nhận được hôm

nay có giá trị hơn đồng tiền sẽ nhận được trong tương lai. Chiết khấu là quá trình

tính giá trị của khoản tiền sẽ thu trong tương lai vào thời điểm hiện nay. Tỷ lệ dùng

để chiết khấu khoản tiền trả trong tương lai có thể là phí tổn vốn của một công ty,

hoặc là tỷ lệ chỉ tiêu về thu nhập trên vốn đầu tư, hoặc là một tỷ lệ cụ thể như tỷ lệ

trái khoán chính phủ chẳng hạn.

6. Tỷ suất nội hoàn

Phương pháp này cũng đòi hỏi chiết khấu dòng tiền vào hoặc ra dự kiến về thời

điểm hiện tại như trong trường hợp dùng giá trị hiện tại ròng, tuy nhiên trong

phương pháp này, người ta chọn tỷ lệ chiết khấu sao cho giá trị hiện tại ròng bằng

không. Nếu tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ yêu cầu, tức là cao hơn tỷ lệ thu nhập trên vốn

đầu tư mục tiêu của công ty, thì dự án được chấp nhận.

Việc tính giá trị hiện tại ròng và tỷ suất nội hoàn có thể rất phức tạp. Trong Phụ

lục 5.2 chúng tôi đã đưa ra một ví dụ về việc đánh giá kế hoạch mở rộng nhà máy và

thuyết trình về cách tính tỷ suất nội hoàn, giá trị hiện tại ròng và so sánh những

phương pháp này với phương pháp tính thời gian hoàn trả và phương pháp tính tỷ lệ

hoàn trả kế toán.