intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

THUẬT NGỮ TÀI CHÍNH TIỀN (tiếp)

Chia sẻ: Little Duck | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

222
lượt xem
89
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'thuật ngữ tài chính tiền (tiếp)', tài chính - ngân hàng, kế toán - kiểm toán phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: THUẬT NGỮ TÀI CHÍNH TIỀN (tiếp)

  1. Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm) Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ. Đặc điểm của TSCĐ : tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng. Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận t ài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng... -Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả... -Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động. - Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu t ư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v... - Tài sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
  2. Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện cũng được xếp vào TSCĐ. Tài sản(Asset) 1. Một tài nguyên có giá trị kinh tế được một cá nhân, một tổ chức hay một quốc gia sở hữu hoặc quản lý với hy vọng thu được lợi nhuận từ chúng. 2. Một khoản trong bản cân đối đại diện cho những gì công ty sở hữu. Theo Investopedia: 1. Tài sản được mua để tăng giá trị một công ty hoặc để tạo thuận lợi cho hoạt động của công ty. Có thể nghĩ về tài sản như một thứ có thể sản sinh ra lưu lượng tiền mặt, cho dù nó là trang thiết bị sản xuất của một công ty hay căn hộ cho thuê của một cá nhân. 2. Trong kế toán, tài sản có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tài sản cố định. Ngắn hạn nghĩa là tài sản sẽ được tiêu thụ trong vòng 1 năm. Thông thường, chúng bao gồm: tiền mặt, các khoản phải thu, hàng trong kho. Tài sản cố định là những tài sản sẽ đem lại lợi ích trong vòng lâu hơn 1 năm, như trang thiết bị, nhà cửa, bất động sản,... Tài sản vô hình (Intangible asset) Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sá ng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola. Hàng hóa vật tư sản xuất (Commodities) Cuộc sống ngày nay phụ thuộc vào vật liệu thô - các sản phẩm duy trì hoạt động của con người và hoạt động kinh doanh. Việc dự đoán các sản phẩm này đáng giá bao nhiêu sẽ là nhân tố kích hoạt thị trường futures. Hàng hoá trên thị trường thường là nguyên nhiên vật liệu thô làm vật tư cho sản xuất: lúa mì làm bánh mì, vàng bạc làm đồ trang sức, dầu để chế biến xăng, nhớt và hàng nghìn các sản phẩm khác. Phần lớn các nhà sản xuất và người sử dụng mua, bán các hàng hoá này trên thị trường tiền mặt, thường được biết đến dưới cái tên thị trường thanh toán ngay (cash market) do hàng hoá có giá tiền mặt sẽ phải được thanh toán ngay.
  3. Hàng tồn kho (Inventory) Hàng tồn kho bao gồm: * Nguyên liệu đầu vào * Hàng hoá đang trong quá trình sản xuất * Hàng hoá thành phẩm Tất cả những thứ này được co i là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ được đem ra bán. Nếu để tồn hàng tồn kho quá lâu thì sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới quá trình kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sẽ phải tốn chi phí dự trữ, chi phí thanh lý hay cải tiến hàng bị lỗi thời, và thanh lý hàng hư hỏng. Tuy nhiên, việc không dự trữ đủ hàng tồn kho cũng là một rủi ro bởi vì doanh nghiệp có khả năng đánh mất những khoản doanh thu bán hàng tiền năng hoặc thị phần nếu sau này giá lên cao mà doanh nghiệp không còn hàng để bán. Trong kế toán để tính toán giá trị của hàng tồn kho người ta hay sử dụng hai phương pháp là LIFO (last in, first out)-vào sau tính trước; và FIFO (first in, first out)-vào trước tính trước. Kinh tế học vi mô (Microeconomics) Kinh tế học vi mô là một nhánh (hay phần nội dung) đặc biệt quan trọ ng của kinh tế học, tập trung nghiên cứu hành vi và sự tác động qua lại của các thành phần bên trong nền kinh tế, bao gồm hai bộ phận trọng yếu là các hộ tiêu dùng (đại diện bởi các cá nhân) và các công ty. Nhánh kinh tế học vi mô làm rõ phương thức và xu hướng các cá nhân và công ty ra quyết định tiêu dùng, cạnh tranh, ra quyết định sản xuất, liên kết-hợp tác, đổi mới công nghệ. Đồng thời nó cũng nghiên cứu sự tác động qua lại giữa nhóm các cá nhân và các công ty với nhau. Như vậy, kinh tế học vi mô tập trung nghiên cứu các trạng thái và hành vi của các bộ phận đặc trưng của một nền kinh tế, cũng như xu hướng các bộ phận này tác động lẫn nhau, hình thành kết cục là trạng thái của chỉnh thể kinh tế. Báo cáo tài chính (Financial statement) Báo cáo tài chính là các bản ghi chính thức về tình hình các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính cung cấp một cái nhìn tổng thể về điều kiện tài chính của doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có 4 loại báo cáo tài chính cơ bản. 1. Bảng cân đối kế toán: Báo cáo về tài sản và nợ của công ty trong một thời điểm xác định. 2. Báo cáo thu nhập: còn gọi là Báo cáo lợi nhuận và lỗ, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì. 3. Báo cáo lợi nhuận giữ lại: Giải thích các thay đổi trong lợi nhuận giữ lại trong một thời kì. 4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo về các hoạt động dòng tiền của một công ty, đặc biệt là các hoạt dộng đầu tư, cấp vốn... Đối với các công ty lớn, những báo cáo này thường phức tạp và có thể gồm cả Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) và các thảo luận và phân tích của đội ngũ quản lí. Thuyết minh thường mô tả các khoản mục thên Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ một cách chi tiết hơn. Thuyết minh báo cáo tài chính được coi là một phần không thể thiếu của các báo cáo t ài chính. Phương pháp kế toán phát sinh (Accrual Accounting) Phương pháp kế toán phát sinh là phương pháp kế toán ghi nhận hoạt động và vị thế của công ty thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Kế toán ghi nhận tại thời điểm
  4. phát sinh nghiệp vụ dù nghiệp vụ ấy có giao dịch bằng tiền mặt hay không. Tính hợp lý của phương pháp này được giải thích qua nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí tại thời điểm giao dịch xảy ra hơn là tại thời điểm xảy ra sự thanh toán tiền giữa doanh nghiệp và người bán, người mua. Phương pháp này cũng cho phép các dòng tiền vào/ ra hiện tại có thể kết hợp với các dòng tiền vào/ ra trong tương lai nhằm đưa ra một bức tranh chính xác hơn về tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Phương pháp kế toán phát sinh được xem là phương pháp thực hành kế toán tiêu chuẩn đối với hầu hết các doanh nghiệp. Phương pháp này cho thấy một bức tranh chính xác hơn về vị thế hiện tại của doanh nghiệp, khác với phương pháp kế toán tiền mặt chỉ ghi nhận giao dịch khi có giao dịch tiền mặt xảy ra. Càng ngày phương pháp này càng được ưa chuộng và thể hiện tính ưu việt hơn khi số lượng giao dịch của doanh nghiệp càng nhiều và càng phức tạp hơn. Nhu cầu sử dụng một phương pháp kế toán có thể phản ánh chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Việc bán hàng chịu cho khách hàng cũng như với các dự án mà các dòng doanh thu sẽ trải dài qua một thời gian chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính công ty t ại thời điểm giao dịch. Do đó, những hoạt động như vậy nên được phản ánh trên các báo cáo tài chính trong cùng thời gian báo cáo mà những giao dịch này xảy ra. Ví dụ, khi doanh nghiệp bán Tivi cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phương pháp kế toán tiền mặt và kế toán phát sinh sẽ ghi nhận sự kiện này khác nhau. Doanh thu bán Tivi sẽ chỉ được ghi nhận chừng nào doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả. Do vậy, nếu Tivi được mua dựa trên thẻ tín dụng, doanh thu này có thể sẽ không được ghi nhận mãi cho đến tháng sau hoặc năm sau. Tuy nhiên với góc nhìn của phương pháp kế toán phát sinh thì ghi nhận như phương pháp kế toán tiền mặt sẽ không chính xác bởi vì tuy doanh nghiệp chưa nhận được tiền mặt nhưng nghiệp vụ bán hàng đã xảy ra và đã hoàn tất. Do vậy, phương pháp kế toán phát sinh sẽ ghi nhận doanh thu ngay tại thời điểm quyển sở hữu cái Tivi được chuyển sang cho khách hàng. Thậm chí ngay cả khi tiền mặt chưa chuyển vào tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp thì kế toán vẫn ghi nhận doanh thu trên tài khoản theo dõi “ các khoản phải thu”, và do đó vẫn phản ánh chính xác doanh thu hoạt động của doanh nghiệp Kế toán (Accounting) Kế toán là một chức năng của doanh nghiệp, thường nằm trong bộ phận chức năng là Phòng hay Ban Kế toán. Các cơ quan hành chính và chính phủ cũng có, nhưng trong phạm vi tra cứu này, chúng ta chỉ đề cập tới chức năng kế toán ở doanh nghiệp. Kế toán được chia thành hai mảng quan trọng nhất là Kế toán Tài chính và Kế toán Quản trị (trước kia còn gọi là Kế toán Giá thành, mặc dù khái niệm này hẹp). Mặc dù cùng có tên là Kế toán nhưng chúng đóng vai trò hoàn toàn khác nhau. Thông thường nhận thức chung của xã hội về kế toán là ám chỉ Kế toán Tài chính. Nhiệm vụ chính của Kế toán t ài chính là lưu giữ chứng từ, kiểm tra đối chiếu, ghi chép khoản mục và các bút toán đối với giao dịch liên quan tới tài chính doanh nghiệp, thực hiện các chức năng báo cáo. Các hành vi của kế toán tài chính thường được quản chế rất chặt chẽ bởi cả doanh nghiệp lẫn cơ quan hành pháp liên đới, ở Việt Nam là Bộ Tài chính. Đối với các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam, các hành vi nghiệp vụ kế toán còn được Ủy ban chứng khoán và Trung tâm Giao dịch chứng khoán giám sát chặt chẽ. Các báo cáo kế toán quan trọng nhất bao gồm: 1. Bảng cân đối kế toán; 2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; 3. Báo cáo lưu chuyển tiền mặt Ngoài ra tùy theo Qui chế quản lý tài chính riêng biệt của từng công ty, Kế toán tài chính có thể còn cần chuẩn bị các loại báo cáo riêng: Báo cáo tình hình góp vốn cổ
  5. đông và thay đổi cổ đông; Báo cáo sử dụng tiền mặt; Báo cáo sử dụng nguồn quỹ; Báo cáo về tình hình đầu tư tài sản ngắn hạn và dài hạn; Báo cáo về tình hình sử dụng tài sản cố định; Báo cáo về tiến độ đầu tư các hạng mục xây dựng cơ bản lớn, v.v.. Người phụ trách Kế toán Tài chính thường giữ chức danh Kế toán trưởng. Kế toán Quản trị thực hiện một chức năng khác: Phân tích thông tin tài chính, sử dụng ý kiến chuyên gia để phục vụ Ban lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định quản lý cao nhất. Một ví dụ là quyết định có nên tiếp tục sản xuất một mặt hàng chủ lực sau thời gian tập hợp các thông số thị trường và đo được hiệu quả của mặt hàng đó. Kế toán Quản trị cũng thường có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông số và ý kiến đối với đầu tư chiến lược. Người phụ trách Kế toán Quản trị cao nhất thường giữ chức danh Giám đốc tài chính. Kế toán nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy quản lý doanh nghiệp vì các báo cáo dù là kế toán tài chính hay quản trị đều đưa ra các thông tin quan trọng, phản ánh bức tranh hoạt động kinh doanh, và rất nhạy cảm đối với lãnh đạo, nhân viên và cổ đông. Các báo cáo được lập theo chuẩn mực chung rất dễ quan sát và tìm hiểu thông tin. Các số liệu có thể so sánh các doanh nghiệp với nhau, với thị trường và với quốc tế, chỉ cần điều chỉnh một số điểm nhất định. Chính vì thế, kế toán còn được xem là "ngôn ngữ của kinh doanh". Kế toán còn là một môn học trong chương trình giảng dạy kinh tế và kinh doanh của các trường đại học-cao đẳng. Trong các trường học, bộ môn kế toán thường được chia thành nguyên lý kế toán và nghiệp vụ sâu về kế toán. Học sinh thường phàn nàn đây là môn học khô khan, tuy nhiên thực tế đây lại là môn học rất hữu ích và thú vị. Cảm giác khô khan chủ yếu là do cách dạy và cách học. Chi phí quản lí (Administrative expense) Chi phí quản lí là chi phí xảy ra trong quá trình quản lí chung của doanh nghiệp. Ví dụ bao gồm lương quản lí, tiền thuê văn phòng và trang thiết bị cho đội ngũ quản lí, chi phí bảo hiểm, các dịch vụ được sử dụng cho đội ngũ quản lí, trang thiết bị mất giá. Ví dụ, trang thiết bị mất giá 1000 đôla, trong đó 60% liên quan đến bán hàng và 40% liên quan đến quản lí tính theo mét vuông hoặc tính theo lượng nhân viên, thì báo cáo thu nhập sẽ phát biểu rằng 600 đô la là chi phí bán hàng và 400 đôla là chi phí quản lí. Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) Thuyết minh báo cáo tài chính là những thông tin bổ sung được đưa trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuyết minh báo cáo t ài chính đưa ra các chi tiết và thông tin thêm đã bị bỏ qua trong các báo cáo (4 loại báo cáo tài chính chính), như Bảng cân đối kế toán và Báo cáo thu nhập. Việc này được thực hiện với mục đích làm rõ báo cáo tài chính, thông thường do các thuyết minh này khá dài, vì vậy nếu chúng được đưa vào các báo cáo tài chính, chúng sẽ làm rối các báo cáo. Việc đọc thuyết minh là rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Những thuyết minh này bao gồm các thông tin quan trọng như phương pháp kế toán được sử dụng để ghi chép và báo cáo các giao dịch, chi tiết kế hoạch trợ cấp, quyền chọn cổ phiếu, thông tin bồi thường thưởng phạt. Tất cả các thông tin này sẽ ảnh hưởng tới phần lợi nhuận hay cổ tức mà cổ đông được nhận khi đầu tư vào một công ty.
  6. Dòng tiền chiết khấu Dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow - DCF ).DCF là một cách thức để đánh giá mức độ hấp dẫn của một cơ hội đầu tư. Các nhà phân tích thường dùng phương thức này để quy dòng tiền tương lai của một dự án cụ thể về giá trị hiện tại từ đó đánh giá được mức độ khả thi của một dự án đầu tư. Nếu như dòng tiền tương lai sau khi qua chiết khấu có giá trị lớn hơn chi phí đầu tư hiện tại của dự án thì đây có thể sẽ là một cơ hội đầu tư tốt. Có rất nhiều biến số ẩn chứa trong việc phân tích d òng tiền và dòng tiền chiết khấu. Tuy việc tính toán DCF là rất phức tạp song mục đích của việc phân tích DCF chỉ nhằm đánh giá lượng tiền mà nhà đầu tư có thể thu được từ một hoạt động đầu t ư và từ đó điều chỉnh giá trị của tiền tệ theo thời gian. Việc ứng dụng DCF mang lại nhiều tiện ích, tuy nhiên nó cũng có những sai sót nhất định. DCF chỉ đơn thuần là một công cụ tính toán, vì vậy không thể tránh được những sai lệch. Một sự thay đổi nhỏ trong yếu tố đầu vào có thể dẫn tới thay đổi lớn về trị giá của một công ty. Người ta thường cố gắng điều chỉnh dòng tiền đạt được một hạn mức nhất định. Mọi người thường không hiểu được vì sao các nhà phân tích chứng khoán lại có thể định giá một công ty tương đối giống nhau hay tại sao mà mức giá họ dự đoán lại khác nhau nhiều đến thế. Câu trả lời đơn giản nằm ở chỗ họ sử dụng phương thức DCF như thế nào? Tuy nhiên nếu bạn là nhà đầu tư bạn không nhất thiết phải dựa trên nhận định của các chuyên gia phân tích. Bằng việc so sánh đối chiếu, sử dụng đúng công cụ, chính bạn cũng có thể định giá một công ty bằng phương pháp DCF. Nói một cách đơn giản thì phương pháp DCF nhằm t ìm ra giá trị hiện tại của công ty dựa trên việc phân tích lượng tiền mà công ty đó có khả năng tạo ra trong tương lai. Ví dụ nếu ai đó yêu cầu bạn lựa chọn giữa việc nhận 100USD vào ngày hôm nay và nhận đúng số tiền đó sau 1năm. Chắc bạn sẽ chọn cách thứ nhất vì bạn biết rằng bạn có thể đầu t ư và kiếm được hơn 100 USD sau 1 năm. Điều đó có nghĩa là số tiền mà bạn sẽ có trong tương lai sẽ trị giá bằng 100 USD ngày hôm nay - hay nói cách khác giá trị chiết khấu dòng tiền là 100 USD. Tính toán cho toàn bộ số tiền mà bạn kì vọng công ty sẽ tạo ra trong t ương lai, bạn sẽ biết được giá trị hiện tại của công ty là bao nhiêu. Với tư cách là một nhà đầu tư, bạn sẽ rất có lợi nếu sử dụng thành thạo phân tích DCF. Đối với những nhà đầu tư mới gia nhập sân chơi đây là công cụ để kiểm tra lại mức giá trên các bản báo cáo của người môi giới chứng khoán. Các phân tích DCF yêu cầu phải tính đến các nhân tố ảnh hưởng đến công ty như tốc độ tăng doanh thu trong tương lai, lợi nhuận biên...Ngoài ra cũng cần tính toán tỉ lệ chiết khấu, nhân tố phụ thuộc nhiều vào tỉ lệ lãi suất phi rủi ro, chi phí huy động vốn, và các rủi ro đối với cổ phiếu của công ty.Tất cả các nhân tố này sẽ cho bạn những nhận định đúng đắn về các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu, và điều đó có nghĩa là bạn có thể tin tưởng răng mình đã trả đúng giá cho mỗi cổ phiếu mua về Giao dịch Giao dịch tài chính là hoạt động làm thay đổi tình trạng tài chính của hai hay nhiều thực thể tài chính.
  7. Mua bán: Hình thức thường gặp nhất của giao dịch t ài chính. Một món hàng được trao đổi với một món hàng khác hoặc được quy thành tiền. Giao dịch này làm cho lượng tiền của người mua giảm đi và người bán tăng lên. Vay nợ: Giao dịch phức tạp hơn một chút là giao dịch trong đó bên cho vay cung ứng một lượng tiền duy nhất có giá trị nào đó cho bên đi vay để đổi lấy nhiều lần trả nợ nhỏ từ phía bên đi vay cho bên vay theo thời gian, thường là theo lịch trình cố định. Tổng số các khoản ho àn trả nhỏ theo chu kỳ này thường là lớn hơn giá trị của khoản cho vay ban đầu. Số chênh lệch trong các khoản thanh toán đó là tiền lãi. Cầm cố: Cầm cố hay còn gọi là thế chấp, là sự kết hợp của mua bán và cho vay. Bên cho vay cung cấp một lượng tiền lớn cho bên đi vay để chi vào một mục đích cụ thể của việc mua bán một mặt hàng rất đắt tiền (thường là nhà đất). Như là một phần của giao dịch, bên đi vay thông thường là đồng ý giao lại mặt hàng đó (hay mặt hàng nào khác có giá trị cao) cho bên cho vay nếu khoản đã vay không được hoàn trả đúng kỳ hạn. Bảo đảm hoàn trả này được biết đến dưới tên gọi đồ ký quỹ. Đối chiếu tài khoản Đối chiếu tài khoản là quá trình xem lại và điều chỉnh số dư trong sổ ghi sec cá nhân để khớp với báo cáo của ngân hàng. Số dư trong số ghi séc cá nhân của bạn, cộng séc chưa thanh toán, trừ đi phí ngân hàng, cộng với lãi suất (nếu có) cần khớp với số dư trong báo cáo của ngân hàng. Dòng tiền Dòng tiền là một thuật ngữ kế toán dùng để chỉ số tiền mà một công ty nhận được hoặc phải chi ra trong một khoảng thời gian xác định, hoặc trong một dự án nhất định. Việc tính toán dòng tiền có thể được sử dụng vào các mục đích: Đánh giá tình trạng kinh doanh của một doanh nghiệp hay một dự án  Đánh giá vấn đề với khả năng thanh khoản, bởi vì có lãi không có nghĩa là có khả năng  thanh khoản tốt. Một công ty làm ăn có lãi nhưng thiếu tiền mặt thì hoàn toàn có thể phá sản. Để tính toán tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROR). Các dòng doanh thu và chi phí được  sử dụng như đầu vào cho các mô hình phân tích tài chính như IRR hay NPV. Để kiểm tra thu nhập hay tăng trưởng của một doanh nghiệp khi ng ười ta cho rằng số liệu  kế toán không phản ánh chính xác thực tế kinh doanh của doanh nghiệp. Dòng tiền có thể được phân ra làm 3 loại chính:
  8. Dòng tiền hoạt động, tính toán trên kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu của một doanh  nghiệp. Đây cũng là dòng tiền được các nhà đầu tư quan tâm nhất. Dòng tiền đầu tư, tính trên các hoạt động sử dụng vốn, như đầu tư hay mua lại doanh  nghiệp khác Dòng tiền tài chính, tính trên các hoạt động tài chính như vay/trả nợ, phát hành hay mua  lại cổ phiếu, thanh toán cổ tức... Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thống kê các dòng tiền của doanh nghiệp, (cash flow statement là một trong 3 báo cáo tài chính quan trọng nhất của doanh nghiệp. Báo cáo này được sử dụng để xác định mức độ bền vững trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu lượng tiền mặt tăng (dòng tiền hoạt động dương) thì nó sẽ làm tăng tính thanh khoản cho công ty, sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về tiền mặt. Thông tin này chỉ có trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ mà không hề xuất hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh (Income statement) và bảng cân đối kế toán (balance sheet). Nhiều nhà đầu tư không mấy tin tưởng vào các con số công bố trong báo cáo kết quả kinh doanh, thích sử dụng biện pháp phân tích dòng tiền để thay thế, vì các con số thì có thể được nhào nặn ra chứ dòng tiền thì không. Thuật ngữ tài chính kế toán Điểm hòa vốn Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó Tổng doanh thu bằng Tổng chi phí. Hay nói cách khác thì tại điểm hòa vốn, doanh nghiệp bắt đầu thu được lợi nhuận. Xác định điểm hòa vốn nhằm: Thiết lập một mức giá hợp lý  Đạt mục tiêu hiệu quả nhất trong khi kết hợp giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi.  Để xác định thu hút và phân bổ tài chính trong các chiến lược khác nhau trong doanh  nghiệp. Được sử dụng trong phân tích tính hiệu quả của dự án kinh doanh.  Công thức tính: Q = FC / (Po - Vc) Trong đó: Q: Là sản lượng hòa vốn  Fc: Chi phí cố định  Vc: Chi phí biến đổi trên mỗ i đơn vị sản phẩm.  Po: Giá sản phẩm. 
  9. Ví dụ: Doanh nghiệp A sản xuất bóng đèn, chi phí cố định là 10 000$. Chi phí biến đổ i trên mỗ i sản phẩm là 10$. Giá bán mỗ i sản phẩm trên thị trường là 30$. Vậy doanh nghiệp đạt điểm hòa vốn tại mức sản lượng là: Q = 10 000 / ( 30 - 10) = 5 000 ( bóng đèn) Nhà quản lý phải quan tâm đến thời gian hoàn vốn: Sẽ mất bao lâu để một cuộc đầu tư cụ thể thu hồi lại số vốn đã bỏ ra. Chúng ta biết rằng cái máy ép nhựa được dự kiến tiết kiệm cho Công ty Amalgamated 18.000 USD mỗi năm. Để xác định thời gian hoàn vốn, hãy lấy tổng số tiền đầu tư chia cho khoản tiền tiết kiệm dự kiến hàng năm. Trong trường hợp này, ta lấy 100.000 USD chia cho 18.000 USD bằng 5,56. Như vậy, cái máy ép nhựa sẽ mất 5,56 năm để hoàn vốn. Bảng 6-1 dưới đây minh họa theo từng năm các khoản tiền tiết kiệm hàng năm lũy được. t ích Chú ý rằng Công ty Amalgamated sẽ chưa thu được lợi ích của vụ đầu tư này trong hơn 5 năm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ước tính về vòng đời sản phẩm bị sai, và cái máy ép nhựa này chỉ dùng được bốn năm là hỏng? Cuộc đầu tư giờ đây có vẻ chẳng còn gì hấp dẫn, và chắc chắn là ít hấp dẫn hơn một vụ đầu tư có ROI tương tự nhưng thời gian hoàn vốn chỉ là 3 năm. Là một công cụ phân tích, thời gian ho àn vốn chỉ cho bạn biết một điều: mất bao lâu để thu hồi lại số vốn đầu tư của bạn. Mặc dù công cụ này không hữu ích khi so sánh các phương án thực tế, nhưng một số nhà điều hành vẫn còn sử dụng nó. Phân tích hòa vốn Phân tích hòa vốn cho bạn biết bạn cần bán ra bao nhiêu đơn vị hàng hóa để lấy lại vốn đầu tư cố định. Nói cách khác, tại điểm nào bạn sẽ có sự cân đối dòng tiền do sản phẩm, dịch vụ mới mang lại. Với những thông tin có được, bạn có thể xem xét nhu cầu thị trường và thị phần của đối thủ cạnh tranh để xác định liệu mong muốn bán nhiều như vậy có thực tế không. Phân tích hòa vốn còn giúp bạn tính đến tác động của sự thay đổi giá và số lượng hàng hóa. Đặc biệt hơn, tính toán hòa vốn giúp bạn quyết định mức sản lượng mà tại đó tổng khoản tiền thu được sau thuế từ một sản phẩm hay một khoản đầu t ư trang trải được tổng chi phí cố định của nó. Nhưng trước khi thực hiện tính toán này, bạn cần hiểu một số khái niệm sau: + Định phí: Chi phí bỏ ra hầu như luôn cố định cho dù bạn có bán được bao nhiêu sản phẩm hay dịch vụ đi chăng nữa. Đó là những chi phí như bảo hiểm, lương nhân viên quản lý, các khoản thuê… Ví dụ, tiền thuê cơ sở sản xuất và chi phí bảo hiểm là như nhau cho dù công ty làm ra 10.000 hay 20.000 đơn vị hàng hóa. + Biến phí: Những chi phí này sẽ thay đổi tùy thuộc vào số lượng hàng hóa được sản xuất và bán ra, ví dụ như phí thiết bị, nhân công và nguyên liệu sản xuất. Bạn sản xuất ra càng nhiều bạn càng tốn nhiều chi phí. hàng hóa thì + Lãi biên tế: Là số tiền mà mỗi đơn vị hàng hóa bán được góp phần trang trải cho định phí. Nó được xác định bằng cách lấy doanh thu thuần của một đơn vị trừ đi biến phí (hay chi phí trực tiếp) trên mỗi đơn vị. Với những khái niệm được định nghĩa trên đây, chúng ta có thể làm một phép tính để t ìm ra đáp án cho biểu thức sau:
  10. Lượng hòa vốn = Định phí/Lãi biên tế của đơn vị hàng hóa Sau đây là cách làm. Trước tiên, hãy tính lãi biên t ế của đơn vị bằng cách lấy doanh thu thuần của mỗi đ ơn vị trừ đi các biến phí của mỗi đơn vị. Sau đó lấy tổng chi phí cố định (hay số tiền đầu tư) chia cho lãi biên tế của mỗi đơn vị. Kết quả phép chia này chính là lượng hòa vốn, tức là số lượng đơn vị phải bán để trang trải toàn bộ chi phí cố định. hàng hóa Để thấy được sự phân tích hòa vốn trong thực tế, chúng ta hãy xem ví dụ máy ép nhựa được dùng để sản xuất giá treo cho Công ty Amalgamated. Chi phí máy ép nhựa này là 100.000 USD. Giả sử mỗi giá treo được sản xuất ra từ máy ép này được bán với giá 75 USD, và biến phí cho mỗi đơn vị sản phẩm sẽ là 22 USD. Như vậy: 75 USD (Đơn giá) - 22 USD (Biến phí cho mỗi đơn vị) = 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị) Do đó: 100.000 USD (Tổng đầu tư cần thiết) / 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị) = 1.887 giá treo Phép tính trên cho ta thấy rằng Công ty Amalgamated phải bán 1.887 cái giá treo để hòa vốn đầu tư 100.000 USD. Lúc này, công ty phải quyết định xem liệu có thể đạt được lượng hòa vốn này không. Liệu có thực tế khi trông đợi bán được 1.887 cái giá treo đó, và nếu được thì mất thời gian bao lâu? Tính phức tạp của phân tích hòa vốn Phân tích hòa vốn trong trường hợp giá treo trên đây là một tình huống đơn giản. Chúng ta đã giả sử rằng chi phí đó cố định hoặc biến động một cách rõ ràng, rằng chi phí và số dư trên mỗi đơn vị không thay đổi theo số lượng (nghĩa là giá bán của món hàng không thay đổi theo các mức sản lượng khác nhau). Tuy nhiên giả thiết này có thể không phù hợp trong thực tế. Chi phí thuê cơ sở cho một mức sản xuất nào đó có thể không đổi, nhưng nó sẽ tăng thêm 50% nếu bạn thuê cơ sở thứ hai để mở rộng sản xuất. Chi phí nhân công trên thực tế có thể gộp cả định phí và biến phí. Và khi bạn tung càng nhiều sản phẩm ra thị trường thì bạn cần có mức giá chiết khấu, đồng nghĩa với việc giảm lãi cho từng đơn vị hàng hóa. Bạn cần phải điều chỉnh tính toán hòa vốn cho phù hợp với thực tế phức tạp này. Đòn bẩy hoạt động Mục tiêu của mọi nhà quản lý không phải là hòa vốn mà là phát sinh lợi nhuận. Một khi bạn đã trang trải mọi chi phí cố định bằng lãi thu về từ nhiều thương vụ, mỗi thương vụ tiếp theo đều trực tiếp mang đến lợi nhuận. Như chúng ta đã quan sát ở trên: Doanh thu thuần đơn vị sản phẩm - Biến phí đơn vị sản phẩm = Lãi thu về trên đơn vị sản phẩm
  11. Nhìn qua bạn cũng có thể thấy rằng biến phí của đơn vị sản phẩm càng thấp thì lãi thu về lại càng cao. Chẳng hạn, trong một công ty dược, chi phí xuất ra và đóng gói một chai thuốc mới có thể dưới 1 USD. Tuy nhiên, nếu công ty có thể bán được mỗi chai lấy 100 USD, thì số tiền khổng lồ 99 USD góp vào lợi nhuận công ty nếu doanh thu đạt được ngoài điểm hòa vốn! Rắc rối là công ty dược có thể đã đầu tư trước 400 triệu USD chi phí cố định để phát triển sản phẩm nhằm tung chai đầu tiên ra thị trường. Công ty sẽ phải bán nhiều chai thuốc mới này để hòa vốn. Nhưng sau khi đã hòa vốn thì lợi nhuận có thể rất cao. Mối quan hệ giữa định phí và biến phí thường được mô tả bằng thuật ngữ đòn bẩy hoạt động. Các công ty có định phí cao hơn biến phí là công ty có đòn bẩy hoạt động cao. Ví dụ như công ty dược trên đây nói chung là có đòn bẩy hoạt động cao. Bây giờ hãy xem mặt ngược lại: đòn bẩy hoạt động thấp. Trong trường hợp này định phí thấp hơn so với tổng chi phí tạo ra mỗi đơn vị sản phẩm. Hãng luật là một ví dụ điển hình về doanh nghiệp có đòn bẩy hoạt động thấp. Hãng này có chi phí cố định và mức đầu tư vào trang thiết bị tối thiểu. Phần lớn chi phí là những khoản phí trả cho luật sư, tùy thuộc vào số giờ thực tế mà hãng phải thu từ khách hàng. Đòn bẩy hoạt động là điều quan trọng khi công ty đi qua điểm hòa vốn, nhưng nó có thể gây tổn thất đáng kể nếu không bao giờ đạt được điểm hòa vốn. Nói cách khác, đòn bẩy hoạt động có tính rủi ro. Đó là lý do tại sao các nhà quản lý suy nghĩ nhiều về việc tìm cách cân bằng hợp lý giữa định phí và biến phí. Tín dụng Tín dụng gồm có "Tín dụng chứng từ" và "Thư tín dụng dự phòng" là bất cứ một thoả thuận nào, dù có được gọi hoặc mô tả như thế nào, mà theo đó một Ngân hàng hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng: a. Phải tiến hành trả tiền cho người thứ ba, hoặc phải chấp nhận trả tiền hối phiếu do người hưởng lợi kí phát. b. Ủy quyền cho một ngân hàng khác trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thay cho mình. c. Ủy quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu, khi các chứng từ quy định được xuất trình đúng thời gian và hợp lệ. Chu kỳ kinh doanh Chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế) là sự biến động của GDP thực tế. Trước đây sự biến động này diễn ra theo trình tự bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp lan tràn, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,v.v... không xảy ra nữa. Vì thế toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Chi phí tài chính
  12. Là những khoản phí mà người đi vay phải trả khi họ vay tiền từ ngân hàng hay một tổ chức tín dụng. Chi phí tài chính không chỉ bao gồm lãi suất khoản vay, mà còn bao gồm các khoản phí khác như phí giao dịch, phí hoa hồng, phí thanh toán chậm, phí hàng năm như phí thẻ tín dụng hàng năm, và phí tín dụng bảo hiểm hàng năm trong trường hợp người cho vay yêu cầu có bảo hiểm trước khi quyết định cho vay. Các khoản phải thu (Receivables) Là một loại tài sản của công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng chưa thanh toán cho công ty. Phải thu được kế toán của công ty ghi lại và phản ánh trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ công ty chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. Các khoản phải thu được ghi nhận như là tài sản của công ty vì chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai. Các khoản phải thu dài hạn (chỉ đáo hạn sau một khoản thời gian tương đối dài) sẽ được ghi nhận là tài sản dài hạn trên bảng cân đối kế toán. Hầu hết các khoản phải thu ngắn hạn được coi như là một phần của tài sản vãng lai của công ty. Trong kế toán, nếu các khoản nợ này được trả trong thời hạn dưới 1 năm (hoặc trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh) thì được xếp vào loại tài sản vãng lai. Nếu hơn 1 năm hoặc hơn 1 chu kỳ kinh doanh thì không phải là tài sản vãng lai. Phải thu còn được phân chia cụ thể hơn trong bảng cân đối kế toán thành phải thu thương mại (trade) và phi thương mại (nontrade). Phải thu thương mại xuất phát từ việc cung cấp hàng hoá-dịch vụ của công ty cho khách hàng trong kỳ kinh doanh bình thường. Phải thu thương mại có thể là tài khoản phải thu (accounts receivables) hoặc phải thu tiền mặt (notes receivables). Phải thu phi thương mại xuất phát từ các loại giao dịch khác các loại kể trên và cũng có thể là phiếu nhận nợ của bên mua. Ví dụ như các khoản tạm ứng cho nhân viên; các khoản hoàn lại như hoàn thuế, tiền bồi thường bảo hiểm, tiền đặt cọc; và các khoản phải thu tài chính như tiền lãi, cổ tức, v.v. Báo cáo số dư (Account Statement) Báo cáo số dư là bản tóm tắt tất cả các hoạt động giao dịch diễn ra trong một giai đoạn kế toán, thường là hàng tháng, nhưng đôi khi là hàng quý, hay hàng năm. 1. Trong lĩnh vực ngân hàng: Bản liệt kê số tiền gửi, số tiền rút, tiền trả bằng séc, lãi thu được và phí dịch vụ của một tài khoản được gọi là bản báo cáo của ngân hàng. Nó được ra hàng tháng theo quy định của cục Dự trữ Liên bang, nhằm giúp khách hàng xem lại các bản ghi tài chính của mình và sửa lỗi (nếu có). Báo cáo số dư cho khách hàng có thể được chuyển qua thư, hoặc email (nếu khách hàng yêu cầu). 2. Trong chứng khoán: bản tổng hợp tất cả những giao dịch và vị thế giao dịch (mua và bán) giữa nhà môi giới và một khách hàng. Báo cáo của các nhà môi giới có thể ra hàng tháng hay hàng quý, tùy thuộc vào mức độ hoạt động của tài khoả
  13. Bảng cân đối kế toán (Balance sheet) Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản và nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo t ài chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Trong đó Bảng cân đối kế toán hay còn gọi là báo cáo tình hình hay báo cáo vị thế tài chính, cho biết tình trạng tài sản của công ty, nợ và vốn cổ đông vào một thời điểm ấn định, thường là lúc cuối tháng. Đây là một cách để xem xét một công ty kinh doanh dưới dạng một khối vốn (tài sản) được bố trí dựa trên nguồn của vốn đó (nợ và vốn cổ đông). Tài sản tương đương với nợ và vốn cổ đông nên bản cân đối tài khoản là bản liệt kê các hạng mục sao cho hai bên đều bằng nhau. Không giống với bản báo cáo kết quả kinh do anh là bản cho biết kết quả của các hoạt động trong một khoảng thời gian, bản cân đối kế toán cho biết tình trạng các sự kiện kinh doanh tại một thời điểm nhất định. Nó là một ảnh chụp (tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải được phân tích dựa trên sự so sánh với các bản cân đối kế toán trước đây và các báo cáo hoạt động khác. Bảng cân đối kế toán có vai trò hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, không những phản ánh vừa khái quát vừa chi tiết t ình trạng tài sản và vốn của doanh nghiệp mà còn là minh chứng thuyết phục cho một dự án vay vốn khi doanh nghiệp trình lên ngân hàng, và đồng thời cũng là căn cứ đáng tin cậy để các đối tác xem xét khi muốn hợp tác với doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm chủ yếu sau đây : - Các chỉ tiêu được biểu hiện dưới hình thái giá trị (tiền) nên có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đang tồn tại dưới các hình thái (cả vật chất và tiền tệ, cả vô hình lẫn hữu hình) . - BCĐKT được chia thành 2 phần theo 2 cách phản ánh tài sản là cấu thành tài sản và nguồn hình thành nên tài sản. Do vậy, số tổng cộng của 2 phần luôn bằng nhau. - BCĐKT phản ánh vốn và nguồn vốn tại một thời điểm nhất định. Thời điểm đó thường là ngày cuối cùng của kỳ hạch toán. Chúng ta có thể xem kết cấu khái quát của bảng cân đối kế toán theo mẫu dưới đây:
  14. Phần tài sản Nội dung Loại A Số dư nợ tài khoản loại 1 và loại 3 Loại B Số dư nợ tài khoản loại 2 ( nếu dư có ghi âm ) Tổng cộng tài sản Cộng loại A và B Phần nguồn vốn Loại A Số dư có tài khoản loại 3 và loại 1 Loại B Số dư tài khoản loại 4 ( nếu dư nợ ghi âm ) Tổng cộng nguồn vốn Cộng loại A và B Chỉ tiêu ngoài bảng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2