Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
1
Lời nói đầu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển,
đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh
nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường
được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể
không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí
và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất
nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNVVN đã và
đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra
động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển
DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới.
Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN. Đảng
và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, biện pháp, định hướng
chiến lược nhằm hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, phát triển tốt DNVVN không
những sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định về
chính trị-xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động, giảm đói, nghèo và tăng phúc lợi xã hội... Hơn nữa, các DNVVN có
lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ dàng thích ứng với sự biến động của
thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh
nghiệp nước ta hiện nay. Do vậy, ở một nước mà phần lớn lao động làm
nông nghiệp như nước ta thì chính DNVVN là tác nhân và là động lực thúc
đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để phát triển khá thuận
lợi và đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa
tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN. Thực tế đó đòi hỏi những
2
chiến lược thông minh nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
nam.
Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ
phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp
phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp đại học của mình.
Cũng xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu rộng
của đề tài, và với sự giới hạn của khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp đại
học nên mục tiêu của tôi khi viết về đề tài này là qua đây tạo ra một cái nhìn
chung, một đánh giá chung về thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt nam. Do đó tôi chỉ tiếp cận đến những vấn đề chung nhất, bức xúc
nhất và mang tính thời sự nhất và qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
cơ bản khắc phục những tồn tại của loại hình doanh nghiệp này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương
với những nội dung sau:
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt nam
Môi trường kinh tế luôn luôn biến động. Do đó, trong một thời
gian nghiên cứu ngắn và với những hạn chế chủ quan khác như thời
gian nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi và bước đầu làm quen
với công tác nghiên cứu, nên khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế. Tôi cũng mong nhận được sự đóng góp để bài khoá luận
thêm hoàn chỉnh.
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
3
A. Khái niệm và tiêu chí xác định 1.Khái niệm ở một số nước trên thế giới.
Khái niệm DNVVN tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia thế nào là một DNVVN, điều này thể hiện sự khác nhau giữa các điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN giữa các quốc gia.
Việc xác định thế nào là một DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng để xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu xác định rộng thì các chính sách ưu đãi lại không đủ sức bao quát, tác dụng hỗ trợ theo đó giảm đi rất nhiều. Ngược lại, nếu xác định hẹp khái niệm DNVVN thì tác dụng của sự hỗ trợ lại ít có tác dụng đến nền kinh tế.
Dưới đây là cách xác định DNVVN ỏ một số quốc gia và khu vực:
a.Khu vực EU
Đây là khu vực phát triển rất mạnh các DNVVN ( 80% số doanh nghiệp EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNVVN ở EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường xuyên, doanh số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất
Bảng 1: Phân loại DNVVN của khu vực EU
Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động tối đa 50 250
Doanh thu/ năm tối đa 7 triệu EURO 40 triệu EURO
Tồng kết tài sản/ năm tối đa 5 triệu EURO 27 triệu EURO
Nguồn: SMEs definition, www.modcontractsuk.com
Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các doanh nghiệp giữa các ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các ngành nhiều khi quyết định qui mô doanh nghiệp.
b.Khu vựcASEAN
4
Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNVVN còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và vốn đầu tư. Ví dụ: với Singapore, quan niệm DNVVN là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Với Malaixia, DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu đô la Malaixia. Còn với Inđônêxia, Thái lan và Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp cực nhỏ trong đó doanh nghiệp cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong phạm vi gia đình.
Như vậy quan niệm thế nào là một DNVVN ở một số nước ASEAN còn có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động của nó. Do đó cách xác định DNVVN cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại một số nước trong khu vực EU, Tức là chưa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành. c.Nhật Bản
Khái niệm DNVVN tại Nhật bản được xác định trong “Luật cơ bản về DNVVN” ban hành năm 1963, được sửa đổi năm 1973 và 1999. Trong Luật này các tiêu chuẩn xác định DNVVN đã phần nào khắc phục được những nhược điểm trên. Cụ thể là, việc phân định DNVVN ở nước này đã có sự khác biệt giữa các ngành. Tùy theo từng ngành nghề mà DNVVN và doanh nghiệp loại nhỏ được phân loại khác nhau xét theo vốn pháp định và số lượng lao động như sau:
Bảng 2 : Phân loại DNVVN của Nhật Bản
Doanh nghiệp vừa Ngành Doanh
5
nghiệp nhỏ Năm 1963 Năm 1973 Năm 1999
Lao động Lao động Lao động Lao động
Vốn (triệu Yên) Vốn (triệu Yên) Vốn (triệu Yên)
≤50 ≤300 ≤300 ≤100 ≤300 ≤300 ≤20
Công nghiệp, khai khoáng
Bán buôn ≤100 ≤30 ≤100 ≤100
≤10 ≤30 ≤5 Bán lẻ ≤50 ≤50 ≤50 ≤10 Dịch vụ ≤10 ≤50
Nguồn: Tổng cục DNVVN Nhật Bản, www.chusho.miti.go.jp
d.Mỹ
Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh tế hùng mạnh thì vai trò của các DNVVN cũng được rất đề cao ở đây. Việc phân loại các DNVVN cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những tiêu chuẩn về mặt định lượng như : Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm dưới 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại; hay các tiêu chuẩn về lao động để phân loại quy mô DNVVN tùy thuộc vào từng ngành riêng biệt như sau:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở
xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động được coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn.
Luật DNVVN của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính như: DNVVN là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNVVN không phải là công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn . Điều này khác hẳn với các DNVVN ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền của các DNVVN.
6
e.Hàn quốc:
Khái niệm DNVVN của Hàn quốc được quy định tại “Đạo luật cơ bản về DNVVN của Hàn Quốc” ban hành năm 1966 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung. Theo đó, việc phân loại DNVVN được thực hiện theo hai nhóm ngành:
-Trong ngành chế tạo, khai thác và xây dựng: các doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 200-300 người là doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ.
-Trong thương mại: DNVVN là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/ năm. Doanh nghiệp có từ 6 tới 20 lao động là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ,. Nhận xét chung:
Khái niệm DNVVN chỉ nên được hiểu một cách tương đối, bởi sự quan niệm về các DNVVN ở các quốc gia và các khu vực trên thế giới là không đồng nhất hoàn toàn do ảnh hưởng của các nhân tố vốn không hề giống nhau giữa các khu vực và quốc gia, đó là trình độ phát triển kinh tế xã hội, tính chất nghề nghiệp, cơ cấu vùng lãnh thổ, tính lịch sử, mục đích phân loại…
Qua những khái niệm DNVVN đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thực tế ở nhiều nước, có thể thấy rằng nhóm tiêu chí phân loại “lao động” và “vốn” đầu tư được sử dụng khá phổ biến. Và tuỳ theo điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của mỗi nước mà các thước đo này cao hoặc thấp, và có thể đi kèm thêm các tiêu chí phân loại khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, Việt Nam có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm tổ chức và quản lý DNVVN của các nước trên thế giới và trong khu vực. 2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam.
7
ở Việt Nam, những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nhận thức và quan tâm đến tầm quan trọng của DNVVN. Ngày 29/11/2000. Tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “ Việt nam 2010 tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt nam thì trụ cột đầu tiên là : “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN”.
Tuy nhiên, cho đến trước năm 1998 khái niệm về DNVVN chưa được một văn bản pháp lý nào của Nhà nước công nhận cụ thể. Quan niệm về DNVVN ở Việt nam vì vậy mà rất khác nhau. Cụ thể là:
+Ngân hàng công thương Việt Nam đưa ra qui định DNVVN là doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, số lao động thường xuyên dưới 500 người và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/năm .
+Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội và Bộ Tài chính quy định tiêu chí xác định DNVVN tại Thông tư số 21/LĐTT ngày 17/6/1993, theo đó, DNVVN là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên duới 100 người, doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ, vốn pháp định dưới 10 tỷ.
+Thành phố Hồ Chí Minh xác định doanh nghiệp qui mô vừa là doanh nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động có trên 100 người, doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng. Doanh nghiệp qui mô nhỏ có các tiêu thức dưới mức trên
+ Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người, vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD.Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 30 người đến 200 người và vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD
+Qũy hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình Việt Nam-EU coi DNVVN là những DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 USD đến 300.000 USD tức từ khoảng 650 triệu đồng đến 3,9 tỷ đồng Việt Nam. …và còn nhiều cách quan niệm khác nữa.
Như vậy, mỗi tổ chức, mỗi dự án đều có một cách xác định riêng cho mình về DNVVN. Điều này tạo ra sự thiếu nhất quán và khó khăn cho
8
Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách ưu đãi một cách công bằng và hiệu quả và cũng tạo ra khó khăn cho chính các DNVVN khi thực hiện chính sách hỗ trợ.
Đến ngày 20/6/1998. Thủ tướng Chính phủ đã có qui định tại Công văn số 681/CP-KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời qui định trong giai đoạn hiện nay là : “DNVVN là những doanh nghiệp có vốn điều lệ trung bình dưới 5 tỷ VND và có số lao động trung bình dưới 200 người” . Tuy mới chỉ là tiêu chí quy ước tạm thời mang tính hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN nhưng có thể coi đây chính là bước đi đầu tiên của chính phủ trong việc xây dựng 1 cơ sỏ pháp lý chính thức là cơ sở hoạch định và triển khai các chính sách và biện pháp phát triển DNVVN tại Việt nam. Cũng theo qui định này, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ VND. Doanh nghiệp vừa là các doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ VND đến 5 tỷ VND. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ VND trở xuống, các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ thì số lao động dưới 30 người.
Đến ngày 23/11/2001. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực. Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP-NĐ về việc trợ giúp và phát triển DNVVN. Theo đó, DNVVN được hiểu là: “cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký < 10 tỷ VND hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương trình trợ giúp, có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu đó.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn 2 tiêu thức trên đều được coi là DNVVN. Theo cách phân loại này, Tại Việt nam hiện nay, số DNVVN hiện vào khoảng 60.300 doanh nghiệp,chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp. Bên
9
cạnh đó là hơn 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, 16.000 hợp tác xã, hàng trăm nghìn trang trại tư nhân. B. Đặc điểm của DNVVN 1.Tính tất yếu cuả việc tồn tại các DNVVN
Sự tồn tại và phát triển DNVVN là một tất yếu trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, điều đó được phản ánh thông qua những lí do chủ yếu sau:
- Nền kinh tế của một quốc gia là tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN- điển hình nhất là con đường thành công của Đài Loan. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên, lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế.
-Trong nền kinh tế mỗi nước luôn luôn, tồn tại sự phát triển của phân công lao động xã hội không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng. Sự phát triển không đồng đều này biểu hiện ra bên ngoài bằng những hình thức tổ chức sản xuất với những qui mô khác nhau. Sự tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp với các qui mô khác nhau vì vậy là tất yếu.
-Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm kể cả các doanh nghiệp có qui mô lớn. Các doanh nghiệp lớn không thể tồn tại một mình mà có thể bao quát hết cả những nhu cầu đa dạng và phong phú trên thị trường một cách có hiệu quả. Yêu cầu hiệu qủa kinh tế tạo điều kiện cho sự xuất hiện và tồn tại đồng thời trong mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau
10
giữa doanh nghiệp lớn và DNVVN như những lực lượng bổ sung, hỗ trợ cùng nhau phát triển có hiệu quả hơn.
-Do những lợi ích mà các DNVVN mang lại, đặc biệt là trong việc giải quyết những mục tiêu xã hội quan trọng như việc làm, thu nhập và sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Các DNVVN được sử dụng như một giải pháp phát triển nhằm thực hiện những nhiệm vụ đó.
Như vậy, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không thể không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả năng tích tụ và tập trung của các DNVVN, tạo điều kiện cho chúng có thể nhanh chóng vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNVVN là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phát triển mạnh các DNVVN với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của qúa trình phát triển kinh tế Việt nam, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. 2. Đặc điểm chung của các DNVVN
-Nhạy cảm, linh hoạt, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường: Thông thường, các DNVVN năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh qua hệ thống tổ chức sản xuất, quản lí gọn nhẹ, công việc điều hành mang tính trực tiếp, đồng thời DNVVN có khả năng đổi mới nhanh trang thiết bị kỹ thuật, thích ứng nhanh với thị trường biến động.
-Vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều: Do là loại hình doanh nghiệp có quy mô sản xuất không lớn về mặt bằng sản xuất, số lao động, doanh số...nên vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều, có thể bằng vốn tự có hay vay mượn nhỏ. Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo
11
điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hoá, giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, số lượng DNVVN tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
-Hoạt động nhanh chóng và thu hồi vốn nhanh: Các DNVVN chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến thực phẩm, thương mại dịch vụ...vốn là những ngành thu hồi vốn nhanh. Theo thống kê, ở các nước phát triển các DNVVN hàng năm có thể khấu hao đến 50-60% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2 năm. ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tuỳ thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước. -Sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình và mang tính trung gian, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Các DNVVN gắn liền với các công nghệ trung gian vốn là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Và lợi thế đặc biệt của công nghệ trung gian là sử dụng nhiều lao động, từ đó tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân. Điều này không những cần thiết đối với các nước đang phát triển như Việt nam mà còn cần thiết đối với các nước phát triển.
-Quan hệ chủ thợ tốt đẹp: Quan hệ giữa người lao động và người quản lí trong các DNVVN khá chặt chẽ, gần gũi thân thiết so với các doanh nghiệp lớn. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Khả năng hợp tác với các doanh nghiệp lớn là rất tốt: Các DNVVN dễ dàng nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, sản phẩm, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, thích hợp với sự biến động đa dạng của thị trường, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Từ đó tạo ra cơ hội hợp tác, cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn là rất cao.
-ít chịu ảnh hưởng của khủng hoẳng kinh tế và ngược lại cũng ít ảnh hưởng đến nền kinh tế khi rơi vào khủng hoẳng: DNVVN ít chịu ảnh
12
hưởng, tác động của các cuộc khủng hoẳng kinh tế dây chuyền. Sự đình trệ, thua lỗ, thậm chí phá sản của các DNVVN có ảnh hưởng không đáng kể đến đời sống kinh tế xã hội.
- DNVVN cần diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế nó có thể được đặt ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới các vùng nông thôn, miền núi và hải đảo... Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất của DNVVN để có thể giảm bớt sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng trong một nước, giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các thành phố, để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Bên cạnh đó, DNVVN cũng có một số yếu điểm như:
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc phát triển mở rộng sản xuất, kinh doanh. DNVVN khó có khẳ năng tiếp cận đến các nguồn vốn của ngân hàng vì bản thân doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp, khó xây dựng phương án kinh doanh, chưa tạo được sự tin cậy tín dụng (creditworthiness) cần thiết xuất phát từ quy mô kinh doanh nhỏ của mình.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ kỹ thuật công nghệ còn yếu kém, lạc hậu, khó có khả năng đầu tư công nghệ mới do vốn lớn, qua đó ảnh hưởng đến năng suất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
-Trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức năng còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, đặc biệt là những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu. DNVVN thường thiếu những nhà quản lý có trình độ, thiếu đội ngũ lao động lành nghề, thiếu chuyên gia cố vấn cho doanh nghiệp.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp cận thị trường của các DNVVN bị hạn chế rất nhiều. DNVVN khó cập nhật được các thông tin trong kinh doanh và dễ bị các công ty lớn thôn tính.
- Hoạt động của các DNVVN phân tán, rải rác nên khó quản lý và hỗ
trợ.
13
- Các DNVVN có năng suất lao động và sức cạnh tranh về kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. DNVVN thiếu khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài.
Tại Việt nam, ngoài những đặc điểm của các DNVVN nói chung như đã đề cập ở trên, các DNVVN Việt nam còn có một số đặc điểm riêng cần nhấn mạnh, nổi bật là:
- Các DNVVN ở Việt nam rất đa dạng về loại hình tổ chức kinh doanh, về lĩnh vực kinh doanh, về hình thức sở hữu, về địa bàn hoạt động. Trước kia trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp, các DNVVN tồn tại chủ yếu dưới hai loại là DNNN và HTX thì hiện nay chúng tồn tại, phát triển ở mọi thành phần kinh tế như DNNN, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần…
-Tuy tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau nhưng khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành, phát triển các thành phần kinh tế của nước ta, đại bộ phận các DNVVN đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh mà điển hình nhất là kinh tế tư nhân. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh-trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân-mang tính đại diện cho các DNVVN Việt nam. Các con số thống kê về DNVVN tại Việt nam không có riêng biệt mà chủ yếu tổng kết cho khu vực ngoài quốc doanh- mà đại diện là khu vực kinh tế tư nhân.
-Các DNVVN Việt nam hiện nay gắn liền với công nghệ lạc hậu,
trình độ nhân lực không cao, khả năng tiếp cận thông tin chưa tốt.
-Môi trường pháp lý cho sự phát triển của các DNVVN Việt nam đang trong quá trình hoàn thiện nền còn nhiều sự chồng chéo- chẳng hạn như quan niệm về thế nào là DNVVN trước năm 1998 của rất nhiều cơ quan, tổ chức, dự án.
Thêm vào đó, giới hạn dưới của DNVVN không được quy định rõ và lúc đó rất có thể coi các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh ở Việt nam-một số lượng rất nhiều- là các DNVVN, lúc đó thì sẽ khó khăn trong việc thực
14
hiện chính sách hỗ trợ do sự dàn trải do số lượng quá đông. Do vậy nên chăng cần có quy định giới hạn tối thiểu cho DNVVN.
C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân.
Nếu như trước kia trong giai đoạn trỗi dậy của các tập đoàn kinh tế khổng lồ ở các cường quốc như Anh, Mỹ, Nhật như Dupont, General Motor, Ford, IBM… thì một suy nghĩ hình thành là hiệu quả đồng nghĩa với qui mô lớn, một doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chỉ được xem như một doanh nghiệp kém hiệu quả, tiền công thấp và cơ sở sản xuât lạc hậu.
Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, sự đi lên của thời đại trí thức, trong môi trường cạnh tranh gay gắt và không ngừng biến đổi như hiện nay, Khái niệm “lớn là hiệu quả “ đã được thay bằng khái niệm “nhỏ là đẹp”( small is beautiful). “Nền kinh tế thế giới càng lớn và rộng mở thì các công ty nhỏ và trung bình sẽ càng thống trị nhiều hơn”(Theo Nghịch lý toàn cầu-John Naisbitt, tr 27-28). Điều đó được hiểu qua việc các DNVVN cung cấp nhiều việc làm cho xã hội, chúng hoạt động với một cơ cấu tổ chức linh hoạt, chúng đem lại một sự hiệu quả trong quan hệ hợp tác- cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn và DNVVN cũng có thể xem như những mầm mống của khả năng đổi mới, là hạt giống hình thành các ngành công nghiệp tương lai.
Với số lượng doanh nghiệp đông đảo bao gồm mọi thành phần kinh tế, DNVVN đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào sự phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội. ý nghĩa kinh tế-xã hội to lớn này không chỉ các nước phát triển mà cả nước đang phát triển cũng đều thấy rõ. Từ thực tế khách quan bên ngoài, có thể thấy rằng vị trí quan trọng của DNVVN đối với quá trình phát triển của hầu như tất cả các nền kinh tế trên thế giới đã và đang được khẳng định, đặc biệt trong điều kiện sản xuất nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu như ở Việt Nam hiện nay.
15
1. Các DNVVN chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp ở các nước, cung cấp một khối lượng đáng lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm, đóng góp một phần đáng kể và thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế
Chiếm đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế, với khả năng thích nghi cao và nhiều lợi thế quy mô khác, DNVVN phân bố trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và có mặt trên mọi khu vực lãnh thổ. Ta có thể thấy tình hình DNVVN ở một số nước như sau:
Bảng 4:Tỷ lệ DNVVN trong tổng số doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới
Nước
Tỷ lệ DNVVN / Tổng số DN 98,6 Tỷ lệ Lao động (%) 78,0 Tỷ lệ tổng giá tri sản lượng (%) 50 Đài Loan
98,1 70,0 50 Canada
99,1 79,2 51,8 Nhât Bản
98,2 73,5 52 Pháp
98 60 57 Hồng kông
95,4 73,5 52 Phi-lip-pin
98,6 75 45,5 Đức
98 77,8 50,2 Hàn Quốc
98 78,5 50 Hoa Kỳ
90 80,2 50 ấn Độ
80 80 52 Thái Lan
Nguồn: PTS Lê Thanh Hà-Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển DNVVN ở VN-Tạp chí phát triển kinh tế số 12 - Tháng 10/96, Trang 36.
Qua đó, có thể thấy rằng các DNVVN chiếm tỷ trọng đa số tuyệt đối trong tổng số doanh nghiệp, tạo ra một tỷ lệ việc làm đáng kể và chiếm > 50% GDP, đóng góp lớn lao cho sự phát triển kinh tế.
Tại Việt nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí Kinh tế Trung ương (CIEM) thì hiện nay khu vực DNVVN vào khoản 60.300 doanh nghiệp, chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp, 95% lao động, chiếm 16
53% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. 78% mức bán lẻ xã hội, 64% tổng khối lượng hàng hoá lưu chuyển.70% giá trị xuất khẩu.
2.Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định xã hội. Tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với việc giải quyết những khó khăn, bức xúc trong xã hội mà trong số đó không thể không kể đến khó khăn về thất nghiệp trong nền kinh tế- một trong những khó khăn lớn nhất. Từ thực tế phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, có thể thấy rằng số lượng các lao động trong các DNVVN chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng các lao động trong các doanh nghiệp như xét thấy từ bảng trên. Tại hầu hết các quốc gia, mặc dù quy mô nhỏ nhưng theo quy luật số lớn, DNVVN tạo ra khoảng 70% việc làm trong xã hội. So với các doanh nghiệp lớn thì các DNVVN có tốc độ thu hút lao động cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Điều này được hiểu phần nào qua việc các DNVVN có thể thu hút nhiều lao động thuộc nhiều thành phần, nhiều trình độ chuyên môn, tay nghề khác nhau, trong khi các doanh nghiệp lớn nhìn chung thường thu hút các lao động lành nghề thì một bộ phần không nhỏ( nếu như không muốn nói là phần lớn) các lao động chưa lành nghề khác lại có cơ hội phát huy khả năng nghề nghiệp ở các DNVVN. Một cách tương tự, khi mà các doanh nghiệp lớn thu hút các lao động thường trong một số lĩnh vực phổ biến, với những đòi hỏi khắc nghiệt về khả năng thì các DNVVN lại không quá phải có( chứ không phải không cần thiết) những lao động như vậy. Các DNVVN có thể thu hút nhiều loại lao động ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghệ hiện đại đến thủ công truyền thống, những lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo, những lao động có nhiều khả năng hay thậm chí cả các lao động có khả năng còn hạn chế.
Thêm vào đó khi sự sa thải nhân công ở các doanh nghiệp lớn xảy ra do kết quả của khủng hoẳng kinh tế hay những nguyên nhân tương tự như vậy thì lúc này các DNVVN lại chính là nơi thu hút lực lượng lao động dư thừa đó để tạo thế cân bằng trong nền kinh tế và tạo sự ổn định trong nền kinh tế xã hội.
17
Sự tăng trưởng lâu dài và ổn định về số lượng việc làm do các DNVVN tạo ra góp phần làm cho mức thu nhập của người dân nói chung được giữ vững hoặc nâng cao, sức mua xã hội được duy trì và cải thiện, tăng cường tính linh hoạt và thích ứng với nền kinh tế, làm dịu bớt những khó khăn, tạo điều kiện cho một sự phát triển ổn định và bền vững trong nền kinh tế. Tại Việt nam, cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí kinh tế Trung ương thì chi phí để tạo ra một việc làm trong các DNVVN(740.000) nhỏ hơn nhiều so với chi phí tạo ra một việc làm ở các doanh nghiệp lớn( khoảng 5-10 triệu VND). Hiện tại số lao động của các DNVVN trong lĩnh vực phi nông nghiệp là vào khoảng 7,8 triệu người chiếm 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp, còn tống số lao động trong các DNVVN thì chiếm tới 90% số lao động của cả nước. Trong tình trạng tỷ lệ thất nghiệp của Việt nam tương đối cao và không ổn định như hiện nay thì khu vực DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động đó- nhất là ở khu vực nông thôn và khu vực doanh nghiệp nhà nước dôi ra khi tiến hành cổ phần hoá, cho thuê, phá sản…
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp huy động vốn và tận dụng các nguồn lực xã hội khác.
Vốn là nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng.Vốn là yếu tố tiền đề để từ đó có thể kết hợp với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ quản lí. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như nâng cao tay nghề cho người lao động và mở rộng quy mô sản xuất. Tuy vậy, thực tế lại cho thấy rằng ở một số nền kinh tế trong đó có Việt nam là các doanh nghiệp hiện đang thiếu rất nhiều vốn trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi tiềm ẩn chưa được huy động trong nền kinh tế vẫn còn khá nhiều. Việc khởi sự một DNVVN với lợi thế vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ là cơ hội để huy động được các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh.
18
Chẳng hạn hình thức doanh nghiệp tư nhân, các hộ gia đình, hợp tác xã vừa huy động nguồn vốn tự có của cá nhân vùa tận dụng được các nguồn đầu tư đa dạng trong nền kinh tế. Từ đó dần dần tạo ra tập quán dùng tiền vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh thay vì chỉ để tiền nhàn rỗi. Hơn nữa, với quy mô nhỏ gọn của mình, các DNVVN thường sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương để làm xuất phát điểm tiến hành sản xuất kinh doanh, điều này rất thiết thực đối với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, DNVVN vì thế có thể góp phần huy động các nguồn lực xã hội. 4.DNVVN có vai trò quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân đối, từng bước chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế luôn đi kèm với những mặt trái của nó trong đó nổi lên là sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, sự mất cân bằng cơ cấu trong nền kinh tế. Chênh lệch cơ cấu thể hiện ở sự mất cân đối giữa các vùng, giữa các ngành và giữa các thành phần kinh tế trong một quốc gia. Từ đó gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế. Lúc này chính các DNVVN là lực lượng doanh nghiệp có vai trò tích cực trong việc hạn chế và từng bước xoá đi sự mất cân đối đó. Hơn nữa, việc phát triển các DNVVN lại có ý nghĩa to lớn đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế của DNVVN thể hiện ở
-Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế được tăng cường, doanh nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, kinh doanh có hiệu quả hơn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng.
-Cơ cấu ngành thay đổi: DNVVN phân bố trong hầu hết các ngành trong nền kinh tế, cả ngành nghề hiện đại và ngành nghề truyền thống theo phương thức lấy hiệu quả làm thước đo, làm thay đổi cơ cấu ngành theo hướng tích cực.
-Cơ cấu lãnh thổ thay đổi: DNVVN phân bố ở hầu hết mọi khu vực lãnh thổ trong đất nước, đặc biệt tại các vùng, các địa bàn mà các doanh
19
nghiệp lớn bỏ qua hay các vùng kém lợi thế. DNVVN góp phần đáng kể vào quá trình đô thị hoá phi tập trung thông qua việc phát triển DNVVN ở nông thôn cho phép giảm dần lực lượng lao động trong nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà không có hiện tượng di dân lên khu vực đô thị. Song song đó là xu hướng hình thành những khu vực tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay tại khu vực nông thôn, tiến tới hình thành các đô thị ngay trong lòng nông thôn, đó chính là hiệu quả đô thị hoá phi tập trung mà việc phát triển các DNVVN mang lại. Tuy nhiên, DNVVN ở Việt nam chưa phát huy lợi thế này mà vẫn còn tập trung quá nhiều ở một lĩnh vực, ở một địa bàn hoạt động- chủ yếu tập trung ở các khu đô thị. 5. Các DNVVN góp phần làm năng động, linh hoạt và tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế
Phát triển DNVVN-với lợi thế là một loại hình doanh nghiệp năng động, linh hoạt và sáng tạo trong kinh doanh-làm cho số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời chúng có khả năng làm tăng số lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng vì giá cả hợp lý, nhất là các nhu cầu nhỏ lẻ phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng của từng địa phương. Ngoài ra, các DNVVN có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNVVN trong nền kinh tế một mặt có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn thông qua các hợp đồng phụ làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, mặt khác, với số lượng đông đảo trong nền kinh tế, sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế, giảm bớt khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, DNVVN với mạng lưới rộng khắp sẽ góp phần làm cho phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn, giảm bớt sức ép về dân số của thành phố lớn. 6.Các DNVVN là nơi gieo mầm cho các tài năng kinh doanh
20
DNVVN chính là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và chính ngưới lao động. Kinh doanh với quy mô nhỏ sẽ chính là trường đào tạo tốt nhất cho các nhà doanh nghiệp để từng bước tiếp cận đến kinh doanh với quy mô tầm cỡ hơn. Khởi sự từ hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua quá trình điều hành quản lí kinh doanh với quy mô nhỏ, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên những nhà doanh nghiệp tài ba, biết cách làm thế nào để doanh nghiệp của mình đi lên và phát triển. Các tài năng được hình thành từ trong các DNVVN. Đây là vấn đề có tính thực tiễn khá cao không chỉ đối với nhiều nước trên thế giới mà ngay cả đối với Việt nam, vốn trong nhiều năm chìm trong cơ chế quan liêu bao cấp với đội ngũ cán bộ quản lí với cơ chế nặng nề và các nhà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm với cơ chế thị trường. Sự phát triển của các DNVVN có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế những người có khả năng thực sự để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế cho cả quốc gia cũng như cho mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp. 7. Các DNVVN góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống
Hiện tại, theo thống kê, Việt nam hiện có trên 1400 làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay, đó không chỉ là một phần bản sắc văn hoá dân tộc mà có là cơ sở để có thể phát huy hiệu quả kinh tế vùng và của cả đất nước. Xuất phát từ thực tế là các ngành nghề truyền thống thường không tập trung ở một vùng nhất định nào mà nó hình thành và phát triển ở nhiều địa phương khác nhau. Sự đa dạng và tính linh hoạt trong hoạt động của các DNVVN có thể đáp ứng tốt nhất điều kiện này
Sản phẩm truyền thống chủ yếu lại không được sản xuất hàng loạt mà chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ. Nhiều sản phẩm truyền thống chỉ có thể được tạo ra bằng những đôi bàn tay khéo léo với sự sáng tạo của các nghệ nhân mang tính chất cha truyền con nối. Hơn nữa, vốn đầu tư vào hoạt động phát triển thường là không nhiều nên phù hợp với quy mô sản xuất và vốn cũng như các tổ chức quản lí của DNVVN.
21
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại việt nam
A.Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN tại Việt nam
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII. Điểm đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân
22
buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật
23
bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt . Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng
24
thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước ngoặt thứ nhất có thể xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các doanh nghiệp tư nhân, số lượng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư phát triển mức độ đóng góp vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo bảng dưới đây. Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư nhân có thể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
25
Bảng 5: Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
évt
1996
1997
1998
1999
2000
1. Số lượng đơn vị
21.032
20.578
22.767
29.519
1.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN
20.272
DN
5.832
6.073
5.927
6.049
6.979
- Cụng nghiệp
DN
12.695
13.010
12.494
14.234
17.506
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
1.745
1.949
2.157
2.484
5.034
- Cỏc ngành khỏc
hộ
2.016.259 1.949.836
1.981.306
2.054.178
2.137.713
1.2. Hộ cỏ thể
hộ
616.855
608.250
583.352
608.314
645.801
- Cụng nghiệp
hộ
- Thương nghiệp dịch vụ
1.102.619 1.022.385
1.058.542
1.088.606
1.109.293
- Cỏc ngành khỏc
hộ
296.785
319.201
339.412
357.258
382.619
2. Lao động
- Tổng số
người 3.865.163 3.666.825
3.816.942
4.097.455
4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xó
%
11,2
10,3
10,3
10,9
12
hội
2.1.Doanh nghiệp của tư nhân DN
354.328
395.705
435.907
539.533
841.787
DN
- Cụng nghiệp
233.078
252.657
273.819
322.496
498.847
DN
- Thương nghiệp dịch vụ
60.936
63.050
62.470
96.720
151.433
DN
- Cỏc ngành khỏc
60.314
79.998
99.618
120.317
191.507
2.2 Hộ cỏ thể
DN 3.510.835 3.271.120
3.381.035
3.557.922
3.802.057
- Cụng nghiệp
DN 1.524.708 1.403.205
1.350.152
1.464.013
1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ
DN 1.531.638 1.388.701
1.455.351
1.501.636
1.584.391
- Cỏc ngành khỏc
DN
454.489
479.214
575.532
592.273
595.285
3. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
tỉ
- Tổng số toàn quốc
272.036
313.623
361.017
399.943
444.140
đồng
Trong đó doanh nghiệp của tư
tỉ
77.481
87.475
98.625
106.029
119.337
26
nhân và cá thể
đồng
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc %
28,48
27,89
27,32
26,51
26,87
tỉ
3.1 Doanh nghiệp
19.602
21.920
25.304
27.975
31.733
đồng
tỉ
- Cụng nghiệp
4.609
5.278
6.367
7.179
8.626
đồng
tỉ
- Thương nghiệp dịch vụ
7.565
8.564
10.238
11.203
12.397
đồng
tỉ
- Cỏc ngành khỏc
7.428
8.078
8.699
9.593
10.710
đồng
- Tỷ lệ trong tổng GDP
7,21
6,44
7,01
6,99
7,14
%
tỉ
3.2 Cỏ thể
57.879
65.555
73.321
78.054
87.604
đồng
tỉ
- Cụng nghiệp
9.261
10.658
11.804
12.662
15.491
đồng
tỉ
- Thương nghiệp dịch vụ
17.381
19.728
22.878
24.865
27.393
đồng
tỉ
- Cỏc ngành khỏc
31.237
35.169
38.639
40.527
44.720
đồng
- Tỷ lệ trong tổng GDP
21,28
20,90
20,31
19,52
19,72
%
4. Vốn đầu tư phát triển
tỉ
- Tổng số toàn xó hội
131.171
147.633
đồng
Trong đó: Doanh nghiệp của tư
tỉ
31.542
35.894
nhân và cá thể
đồng
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó hội %
24,05
24,31
tỉ
4.1 Doanh nghiệp của tư nhân
5.628
6.627
đồng
% Trong tổng số toàn xó hội
4.29
4.49
%
tỉ
4.2. Cỏ thể
25.914
29.267
27
đồng
Tỷ lệ trong tổng số toàn xó hội %
19,76
19,82
Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tương đương với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau:
Bảng 6: Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến năm 2001
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Loại DN 31/12/98 31/12/99
Đang hoạt động Báo nghỉ KD Đang hoạt động Báo nghỉ KD Tổng số đăng ký Tổng số đăng ký
Cty TNHH 9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804
Cty cổ phần 582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN 18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466
Tổng số
28.708
37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743
2.328
Nguồn: Bộ Tài chính Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế,
28
trong đó phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.
1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng DNVVN cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6% tổng số các DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại
ở 4 nhóm ngành chính sau là
+Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời gian qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún, quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó khăn đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trường ngách.
+Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản, hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực trạng cần được đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lược cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
29
+Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa chất, thiết bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm ngành này còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý của nước ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài của quá trình hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công nhân< 100 người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động. Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nước cũng như ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nướ ngoài) tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lượng công nghiệp.
30
Bảng 7: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998
Tổng số (Tỷ đồng) Ước tính phần của DNVVN trong từng loại doanh nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7 Doanh nghiệp trong công nghiệp Doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp
33.148,2 60% 19.888,9 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
47.948,0 5% 2.397,4 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn Đình Hương chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước (tốc độ tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau:
Bảng 8: Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản lượng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thực hiện (Tỷ đồng)
Thỏng
8 tháng đầu
8/2002 so
năm 2002 so
Cộng dồn 8
7 tháng đầu
ước tính
với thỏng
với cùng kỳ
tháng đầu
năm 2002
tháng 8/2002
8/2001
2001 (%)
năm 2002
149219
23636
172855
114.2
114.0
Tổng số
Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế
Khu vực doanh nghiệp
59798
9379
69177
111.1
111.7
Nhà nước
Trung ương
39634
6212
45846
111.7
112.6
Địa Phương
20164
3617
23331
109.7
110.2
31
Khu vực ngoài quốc
35846
5792
41638
119.6
119.2
doanh
Khu vực có vốn đầu tư
53575
8465
62040
114.2
113.1
nước ngoài
Dầu mỏ và khí đốt
15402
2100
17502
87.7
96.1
Cỏc ngành khỏc
38173
6365
44538
126.8
121.6
Nguồn http://www.SMEnet.com.vn/
Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn lan như hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt nam và các nước không ngừng được tăng cường và củng cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nước về phát triển lĩnh vực DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày 22/5/2000, tại Hà nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp-kinh nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ với Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên
32
minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000 EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần thiết về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU. 2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của ngành thương mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng 407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù
33
doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty đi sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số các công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh doanh tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản lí chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả kinh doanh thấp. Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh. 3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là trong chiến lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng, 90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh
nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp tư nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với các DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn đề xã hội-NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội,1998 thì :Với doanh nghiệp hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp tư nhân thì là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở các DNVVN khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân
làm hai loại là thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn.
34
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn, nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày 16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn 100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề nông thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, thông tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống, đầu tư thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế, trao đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát triển DNVVN ở các địa phương, tạo nhịp cầu giao thương phát triển. B.Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các DNVVN Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và phát triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của các DNVVN. Dưới đây là những nét chính khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát triển của DNVVN Việt nam. 1.Tác động của chính sách thương mại
Trước hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các DNVVN cũng đã được “cởi trói” qua quy định mới về việc tiến hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị
35
trường, việc giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách thương mại theo hướng “mở cửa”, không ngừng đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài với chiến lược vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong những nhân tố quyết định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình hình đổi mới kinh tế ở Việt nam trong những năm gần đây.
Chính sách thương mại của Việt nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thương mại có hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hướng dẫn thi hành Luật Thương mại ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận thương mại quốc tế của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới như ASEAN(1995), APEC(1998)…và đặc biệt là ký được Hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đường cho việc gia nhập WTO đã được cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ thương mại theo hướng tự do hơn, hội nhập hơn cũng là những thuận lợi và cũng là chứa đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng.
a.Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN được cải thiện theo cơ chế thông thoáng hơn.
Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự được mở ra cho tất cả các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định 57/CP đã cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy phép xuất nhập khẩu. Có thể xem đây là một bước tiến tích cực của Việt nam trong quá trình tự do hoá thương mại.
36
Trước đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tướng chính phủ về quản lí nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày 19/4/1994, các DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép mà muốn có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện như:Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.Thứ hai, mức vốn lưu động không được dưới 200.000 USD vào thời điểm đăng ký kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những vùng kinh tế khó khăn khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu được khuyến khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những trường hợp đó, số vốn lưu động phải tương đương 100.000 USD.Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương.
Thêm vào đó, trước khi Nghị định 57/CP được ban hành thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân muốn được thành lập như tổ chức xuất nhập khẩu thì phải có giấy phép của Thủ tướng Chính phủ theo Điều 11 của Luật công ty.
Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng được các điều kiện kể trên và chỉ có thể xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất nhập khẩu trung gian này một khoản phí thông thường là từ 0,5% đến 1% giá trị hợp đông xuất nhập khẩu, Các DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi tiết lộ thông tin quan trọng và bí mật về các hợp đồng ngoại thương và họ thậm chí còn bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu đó chiếm mất đối tác nước ngoài.
Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.Với một số lượng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào thương mại quốc tế thì những chi phí và khó khăn trong giao dịch sẽ được giảm đáng kể. Đến ngày 2/8/2001 thì tất cả mọi pháp nhân ( doanh nghiệp và cá nhân) đã được xuất khẩu hầu hết mọi hàng hoá mà không phải xin
37
phép qua việc Chính phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện Luật thương mại theo Nghị định 44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001.
Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cường hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày 10/9/2001 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương của các DNVVN. Nhưng nó cũng có những thiếu sót, những tồn tại mà chưa thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP thông tư hướng dẫn quy định các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có mã số hải quan, muốn có mã số hải quan thì phải nộp đơn đăng ký cho Bộ Tài chính, từ đó phát sinh thêm nhiều thủ tục khó khăn.
b.Cơ chế tự do hoá thương mại qua việc nới lỏng kiểm soát phi thuế quan. Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thể hiện trong điều kiện tham gia, Nhà nước cũng quản lí xuất nhập khẩu bằng cách ban hành các danh mục hàng hoá thương mại bị cấm, hoặc hạn chế nhập khẩu theo hạn ngạch, hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm ngừng xuất nhập khẩu, quy định mới nhất về các loại hàng hoá xuất nhập khẩu được nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP ngày 20/8/2002 của Chính phủ về danh mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu phfu hợp với tinh thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn ngạch, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt( danh mục sẽ được điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng hoá nêu trên là các hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Như vậy, nguyên tắc ở đây là nguyên tắc không cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì được tự do xuất nhập khẩu) chứ không như trước kia, chỉ ban hành các mặt hàng được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
38
các DNVVN trong việc tìm hiểu nguồn hàng, mặt hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu thành công. Qua đó càng thấy rằng Nghị định 57/CP thực sự là một bước tiến quan trọng của chính phủ trong việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong việc tiếp cận thị trường quốc tế.
Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chính phủ đã công bố kế hoạch quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu trong từng năm như các năm trước đó, điều này tạo điều kiện ổn định và thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của các DNVVN. Quy định mới nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày 4/4/2001 của Chính phủ về kế hoạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001- 2005.
Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp tự kê khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải phóng hàng đã được rút ngắn, đã thực hiện hệ thống “hành lang xanh” với các nước ASEAN qua việc Tổng cục Hải quan hướng dẫn áp dụng tại Thông báo số 1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996 và 1599/TCHQ-KTTT ngày 13/8/1996).
Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê chuẩn lộ trình tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó hầu hết các dòng thuế sẽ được giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống còn 5% vào 2006.
Ngày 4/9/2002, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 1062/2002/QĐ-BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp C/O hàng hoá ASEAN của Việt nam–Form D để hưởng các ưu đãi của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung( CEPT). Đây thực sự là một bước tiến đáng kể vì như vậy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam trong đó phần lớn là các DNVVN sẽ được hưởng thêm những ưu đãi để tăng tính cạnh tranh trên thương trường khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang tiến hành xây dựng lại Biểu thuế xuất nhập khẩu để áp dụng cho tất cả
39
hàng hoá xuất nhập khẩu vào Việt nam, chuẩn bị áp dụng “Danh mục thế quan áp dụng trong ASEAN”-AHTA (ASEAN Hamornised Tariff Nomenclature).
Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập khẩu đã được Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào năm 2001. Trước đó, việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu được thực hiện qua các doanh nghiệp nhà nước được uỷ quyền. Đến năm 1998, Bộ Thương mại đã cho phép các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tham gia xuất nhập khẩu phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thương mại đã công khai việc lựa chọn các doanh nghiệp để có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu gạo qua Quyết định 273/1999/Qđ-TTg ngày 24/12/1999 cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Và mới nhất là quyết định bãi bỏ phân bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón theo Quyết định 46/2001/QD-TTg ngày4/4/2001. Việc tự do hoá là một cơ hội rất lớn cho các DNVVN, Xét về gạo, Việt nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và gạo được xem như mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Còn về phân bón, có ý nghĩa rất quan trọng với một nước với 75% dân số làm nông nghiệp như Việt nam.
Bên cạnh những động thái tích cực như vậy vẫn có một số vấn đề phát sinh như:Thứ nhất, hiện nay Việt nam vẫn áp dụng mức tính giá tối thiểu với 20 nhóm mặt hàng, chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định hợp tác Hải quan ASEAN và phương pháp xác định giá trị tính thuế nhập khẩu theo nguyên tắc của GATT.Thứ hai, việc Chính phủ ban hành danh mục các mặt hàng bị cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu tạm thời quá bất ngờ mà không báo trước hoặc nêu lí do một cách thoả đáng gây nên những cơn sốt về cầu ( như xe máy), đồng thời làm các DNVVN bị động trong công tác xuất nhập khẩu, mất uy tín trên thị trường thế giới. Thứ ba, việc quy định ngữ nghĩa của một số mặt hàng chưa được rõ ràng, gây khó hiểu, hiểu lầm thậm chí hiểu sai. Chẳng hạn như “đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và nhân cách”, “ hàng tiêu dùng đã qua sử dụng” gây ra sự bất đồng vì một số nhân viên hải quan coi một số hàng hoá đã qua tân trang là mới mặc dù
40
chúng đã qua sử dụng. Đó là những vấn đề mà có thể nói sẽ không bao giờ hết, Nhưng nhìn chung thì mặt tích cực của Nghị định 57/CP vẫn là nổi bật, hỗ trợ đáng kể cho các DNVVN trong việc tiếp cận thị trường quốc tế. c. Việc kiểm soát ngoại hối theo hướng nới lỏng dần.
Việc nới lỏng kiểm soát ngoại hối trong những năm gần đây phần nào đã tác động tích cực tới khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các DNVVN Việt nam. Cụ thể là theo quy định thi ngoại tệ vào Việt nam được chuyển đổi thành VND, hoặc giữ trong một tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Quyết định 173 yêu cầu các DNVVN bán 80% ngoại tệ cho ngân hàng, sau đó nếu yêu cầu cần ngoại tệ thì phải mua lại và thông thường với giá cao hơn đáng kể. Đến năm 1999, Tỷ lệ kết hối ngoại tệ đã được giảm xuống 50% thu nhập ngoại tệ theo Quyết định số 180/1999/QD-NHNN1 ngày 30/3/1999, tiếp đó là giảm xuống 40% thu nhập ngoại tệ vào năm 2001 theo Quyết định 61/2001/QD-TTg ngày 25-4-2001, đó thể hiện những nỗ lực của Chính theo hướng tự do hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN trong ngoại hối, nhưng điều đó vẫn còn phải được cải thiện hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhỏ là để có ngoại tệ nhập khẩu, các DNVVN phải giải trình việc mình tham gia vào việc sản xuất các loại sản phẩm nằm trong danh sách các mặt hàng thay thế nhập khẩu hoặc cho các dự án cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp có liên quan thì được phép còn những doanh nghiệp khác thì đương nhiên không đưọc phép mua ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu. 2.Tác động của chính sách tài chính tiền tệ: a.Chính sách đầu tư:
Về đầu tư trong nước: Luật khuyến khích đầu tư trong nước( ban hành ngày 22/6/1994, sửa đổi ngày 20/5/1998) và Nghị định hướng dẫn Luật đã đề ra nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nói chung và các DNVVN nói riêng, là một đối trọng quan trọng đối với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam.
Luật đã có những quy định, những điều khoản khuyến khích đầu tư trong nước, tạo điều kiện cho các DNVVN tiến hành đầu tư như qua việc
41
mở rộng chủ thể đầu tư sang cả người Việt nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu tại Việt nam (Trước đó, theo Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty 1990 giới hạn chủ thể chỉ là công dân Việt nam, tổ chức kinh tế xã hội; Luật hợp tác xã giới hạn chỉ là công dân Việt nam và hộ gia đình) hay là qua việc cho phép người nước ngoài, tổ chức kinh tế nước ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt nam( không qúa 30% vốn điều lệ). Bên cạnh đó là việc thành lập các quỹ hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi ( hiện đã hoạt động trên 4 năm), Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ.
Luật đã qui định rõ những lĩnh vực đầu tư, các vùng được ưu đãi kèm theo các chính sách ưu đãi như hỗ trợ mặt bằng kinh doanh, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, đào tạo. Bước đầu các DNVVN đã tiếp cận được một số nguồn hỗ trợ để phát triển sản xuất. Năm 2000, khu vực này đã được cấp khoảng 1.600 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, trên 1.100 dự án được vay tín dụng từ quĩ hỗ trợ phát triển, 400 dự án được giao đất, cho thuê đất, hơn 200 dự án được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất hoặc giảm tiền thuê đất.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như việc so với thực tế cần hỗ trợ của DNVVN thì còn nhỏ bé và dàn trải. Vẫn còn thiếu cơ chế pháp lý để khuyến khích đầu tư trong nước đối với thành phần kinh tế trang trại là các DNVVN ở nông thôn. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước chưa tạo cơ hội cho doanh nghiệp ít vốn, khả năng tài chính chưa cao mà chỉ quan tâm đến các chủ thể kinh doanh những ngành nghề mà nhàn nước khuyến khích, một số quy định tồn tại mà chỉ có DNNN và một số doanh nghiệp có điều kiện mới thực hiện được. Còn các DNVVN nói chung thì rất khó tiếp cận.
Về đầu tư nước ngoài: Trong điều kiện phát triển kinh tế Việt nam hiện nay, việc khai thác và tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn viện trợ phát triển của các tổ chức tài chính quốc tế... có vai trò rất quan trọng. Và Chính phủ cũng có những chính sách, những quan điểm khẳng định tầm quan trọng của nguồn vốn bên ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại Việt nam vào năm
42
1989, được sửa đổi vào các năm 1992, 1994, 1996 và bên cạnh đó là rất nhiều văn bản, thông tư hướng dẫn mà mới nhất là Nghị định số 24/2000/ND-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi thành Luật đầu tư nước ngoài. Tất cả cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ tối đa để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
thành trang quả đến thể có kể là
Bên cạnh đó không thể không nhắc tới nỗ lực của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc hợp tác với Tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên (MIGA) để tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho cả đầu tư trong và ngoài web nước, www.khoahoc.vnn.vn/mpi_website vào 1/2002 nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, đầy đủ, cập nhật phục vụ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, địa chỉ này còn cung cấp phương tiện xin phép đầu tư qua mạng.
Nhưng thực tế cần xét tới ở đây là bên góp vốn liên doanh với các công ty liên doanh nước ngoài chủ yếu vẫn là nhà nước và rất ít các DNVVN góp vốn liên doanh. Thành phần kinh tế tư nhân-phần lớn là các DNVVN-chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong vốn liên doanh với bên ngoài và vẫn chưa có chính sách tích cực khuyến khích khu vực các DNVVN tham gia nhiều hơn vào các dự án liên doanh nước ngoài.
b.Chính sách tín dụng
Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNVVN được quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, đây chính là một bước tiến quan trọng trong việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNVVN của nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển( được Chính phủ thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999) dưới ba hình thức đầu tư hỗ trợ DNVVN là :
Cho vay đầu tư : Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự
43
án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn ODA.Thời hạn vay tối đa là 10 năm
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Bảo lãnh tín dụng đầu tư : Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Tiếp cận của DNVVN với tín dụng cũng ược cải thiện hơn thông qua việc tự do hoá lãi suất trong năm 2001. Vao tháng 6/2001, trần lãi suất cho vay đã được xoá bỏ và được phép vay trên mức lãi suất cơ bản áp dụng đã cải thiện việc tiếp cận tín dụng của các DNVVN.
Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNVVN đã tận dụng có hiệu quả và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Tuy nhiên một thực tế là dẫu rằng các DNVVN được quyền vay vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình nhưng trên thực tế thì các DNVVN ngoài quốc doanh có rất ít cơ hội để tiếp cận với những nguồn vốn tín dụng cho giai đoạn đầu mới thành lập vì theo các điều kiện, các thể lệ tín dụng thì họ phải có những tài sản cầm cố hoặc thế chấp cho những khoản vay này. Các DNVVN vẫn gặp những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục định giá tài sản cầm cố, thế chấp. Trong khi đó những doanh nghiệp quốc doanh không hề phải ký quỹ cho những khoản vay tín dụng tương tự. Những thể lệ tín dụng này tạo sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Hơn nữa, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng của ngân hàng còn hạn chế, hoạt động tín dụng của họ rất khó mở rộng trong khi các khoản nợ xấu đang ngày càng tăng lên.
44
DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài trong khi mà thị trường chứng khoán ở Việt nam còn chưa hoạt động. Các nguồn vốn hỗ trợ như khoản hỗ trợ từ Dự án hỗ trợ tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật bản(JBIC), Dự án hỗ trợ DNVVN do phía Italy, Dự án UNDP rõ ràng là có hiệu quả nhưng chưa có nhiều. Khả năng huy động vốn trong nước còn hạn chế, các khoản tín dụng trung và dài hạn dường như nằm ngoài tầm với của các DNVVN ngoài quốc doanh, các nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cũng không hoàn toàn thuận lợi. Chính vì lí do đó mà nguồn vốn của các DNVVN chủ yếu lại đến từ các nguồn tín dụng không chính thức. c.Chính sách thuế.
Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5% chịu mức thuế suất 20%, tính bình quân trung bình thì mức thuế trung bình như vậy là khá hợp lý. Tại 2 kỳ họp của Quốc hội( kỳ họp 10-1998 và kỳ họp 4-1999), đã ra đời những nghị quyết xử lí kịp thời, tháo gỡ khó khăn cho các DNVVN là giảm 50% mức thuế suất cho ngành du lịch, khách sạn, ăn uống và 7 nhóm hàng hoá cơ bản khác và một số mặt hàng cơ khí phục vụ nông nghiệp.
Việc áp dụng thuế VAT là cần thiết nhưng thời điểm bắt đầu áp dụng lại là lúc nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoẳng tài chính khu vực 1997-1998, các doanh nghiệp nói chung lúc đó đang gặp khó khăn. Như vậy chưa hợp lý lắm và chưa tận dụng hiệu qủa triệt để của thuế VAT. Hơn nữa, sự chuẩn bị cho quy trình áp dụng thuế VAT chưa kỹ lưỡng ở cả 3 cấp độ là cơ quan ban hành, cơ quan hành thu và đối tượng chịu thuế. Mặc dù đã ban hành hơn 200 văn bản giải trình hướng dẫn nhưng cơ quan hành thu vẫn thực hiện khá vất vả, khó khăn vẫn chưa được giải quyết tận gốc. Đối tượng nộp thuế chủ yếu là các DNVVN, trình độ quản lí của hệ thống thuế và cả người tiêu dùng cũng thấp, nhưng thuế lại đưa ra yêu cầu quá cao,
45
quản lí thu đối với toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh, đa mục tiêu như thu ngân sách, thúc đẩy xuất khẩu, ưu tiên cho một số ngành và một số ưu tiên cho tiêu dùng mang tính xã hội... Sự phức tạp này khiến VAT chưa thực sự phù hợp với các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng.
Hơn nữa, trong một số trường hợp thì thuế VAT còn cao hơn thuế doanh thu đối với các DNVVN do việc khấu trừ VAT đầu vào chưa đầy đủ. Vì vậy có khá nhiều DNVVN phải thu hẹp hoạt động sủa xuất kinh doanh do thiếu vốn vì phải nộp thuế VAT trước nhưng khâu hoàn thuế lại tiến hành quá chậm. DNVVN bị thiệt hại đáng kể do số vốn bị chiếm dụng này trong khi họ vẫn phải nộp lãi suất ngân hàng ( vốn vay ngân hàng chiếm tới 70%- 80% tổng vốn của các DNVVN). Cụ thể như trường hợp quy định hàng nhập khẩu phải chịu thuế VAT ngay khi mới nhập về đã khiến cho giá thành sản xuất bị đội lên ở những mặt hàng có nguyên liệu nhập khẩu.
Những nỗ lực về hỗ trợ thuế cho DNVVN còn phải nói đến các ưu đãi về thuế được quy định tại Nghị định số 51/1999/ND-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước( đã sửa đổi). Tại đó, các mức thuế ưu đãi được thể hiện ở các danh mục A, B, C về dự án đầu tư. Tại đó cũng chi tiết những quy định về thời hạn miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điển hình là các trường hợp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, đối với các dự án BOT, BTO, đối với sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân, miễn giảm thuế sử dụng đất. 3.Tác động của chính sách đất đai
Luật đất đai được ban hành và trực tiếp điều chỉnh vấn đề đất đai với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ năm 1993.
Một vấn đề nổi lên hàng đầu hiện nay là nếu mỗi doanh nghiệp có một giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất thì sẽ giảm bớt được tính mập mờ về tính hợp pháp của đất và cho phép được sự dụng đất để thế chấp vay.Tuy vậy, hiện nay chỉ có một số ít các DNVVN có giấy chứng nhận
46
quyền sử dụng đất. Trong các khu vực đô thị phát triển thì quyền sử dụng đất dài hạn lại chủ yếu được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Các DNVVN hiện nay chủ yếu vẫn phải đi thuê đất.
Về quy định thời hạn cho thuê đất còn chưa rõ ràng, cơ quan nhà nước thì cho rằng thời điểm cho thuê đất tính từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cho thuê đất, còn doanh nghiệp thì lại cho rằng thời điểm xác định hạn thuê đất tính từ thời điểm thực tế doanh nghiệp nhận được đất thuê. Thực tế thì nền quy định tính từ thời điểm nhận được đất thuê là hợp lý trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các văn bản pháp quy liên quan đến quyền sử dụng đất, thế chấp đất còn nhiều bất cập, phức tạp và không rõ ràng, có sự phân biệt đối xử giữa những doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyền sử dụng phần lớn đất đai chưa được xác định vì phải cung cấp một số lượng rất lớn các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, việc có được những giấy tờ đó hoàn toàn không dễ dàng. Hiện vẫn chưa có hệ thống công khai về các quyền hạn cho thuê và thế chấp. Giá trị của quyền sử dụng đất do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố xác định chứ không phải theo giá thị trường và được mỗi tỉnh áp dụng theo các cách khác nhau.
Về vấn đề thời hạn cho thuê đất hiện hành áp dụng cho các DNVVN ngoài quốc doanh là 30 năm tạo một thiệt thòi cho các DNVVN trong nước và đẩy giá thành sản phẩm của các DNVVN này lên cao hơn so với giá sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn FDI- loại hình có thể thuê đất đến 50 năm.
Bên cạnh đó, việc quy định giá trả tiền thuê hàng năm vào khoảng 0,5-0,7% giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay rõ ràng là tác động hỗ trợ của Chính phủ trong việc giảm mức đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp, Tuy nhiên lại tồn tại một nghịch lý là nhiều doanh nghiệp chỉ muốn nộp tiền thuê đất luôn một lần cho xong để yên tâm đầu tư( cho dù có phải đi vay) vì e ngại chính sách giá cho thuê đất hiện nay không ổn định. Cho ví dụ các doanh nghiệp sẽ phải trả một khoản tiền là A để được thuê đất trong 30 năm
47
và mỗi năm nộp 0,5%A, nhưng rất có thể do biến động mà các doanh nghiệp có thể phải nộp thêm một khoản B > A, lúc đó giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phải tính thế nào cho hợp lý? Do đó, cần quy định một giá thuê đất ổn định hoặc dao động trong một phạm vi cho phép trong suốt thời gian thuê. Đồng thời cũng cần hạ giá cho thuê đất tại các KCN, KCX để lấp đầy các khu này vì theo con số thống kê hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ mới chiếm 19% tổng diện tích.
Nhìn chung, Những vấn đề về đất đai cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với các DNVVN. Thách thức thể hiện ở việc rất khó có được đất dùng cho mục đích đầu tư, trong khi đó hệ thống xét duyệt của chính phủ đối với việc thực thi các quyền sử dụng đất là rất phức tạp và rắc rối. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển khi mà cá quyền sử dụng đất đối với các mục đích thương mại và công nghiệp không được quy định rõ ràng và các thủ tục dụng đất để thế chấp không được nới lỏng. 4.Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo.
Về công nghệ: Việc tiếp cận đến công nghệ hiện đại có vai trò rất quan trọng trong việc các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Tuy vậy, phần lớn các DNVVN Việt nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Máy móc trang thiết bị lạc hậu và thêm vào đó là trình độ quản lí, kỹ năng nghiệp vụ của lao động trong nước chưa đủ khả năng thành thạo với công nghệ hiện đại. Khó khăn trong tiếp cận công nghệ của các DNVVN Việt nam thể hiện ở:Thứ nhất, mặc dù vài năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể nhưng phải thừa nhận là kinh phí cho giáo dục đào tạo hướng nghiệp của Việt nam luôn thấp hơn các nước khác trong khu vực, thiếu nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo để cho phép các sinh viên và công nhân Việt nam tiếp thu công nghệ mới.Thứ hai, các DNVVN khó tiếp cận đến các khoản tín dụng trung và dài hạn nhằm giúp họ đầu tư mua thiết bị mới, công nghệ mới, đào tạo người lao động.
Ngoài ra, khung pháp lý với công nghệ còn nhiều bất cập: Thứ nhất, các quy định hạn chế nghiêm ngặt được quy định trong Luật Dân sự ở các
48
hợp đồng chuyển giao công nghệ phần nào ngăn cản việc chuyển giao công nghệ cao mà nước ta đang cần.Thứ hai, mỗi hợp đồng chuyền giao công nghệ được Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường phê duyệt phải mất12 tháng, thời gian này cũng đủ để công nghệ chuyển giao sắp lạc hậu. Thứ ba, Hệ thống cấp giấy phép công ty và đầu tư làm giảm sức cạnh tranh- vốn là một động cơ thúc đẩy đổi mới công nghệ- và làm nảy sinh tình trạng kinh doanh không ổn định-một khó khăn lớn đối với việc đổi mới công nghệ.
Các quy định pháp lý hiện nay tạo ra nhiều khó khăn và tốn kém trong việc nhập khẩu vác thiết bị và máy móc đã qua sử dụng vào Việt nam. Theo quy định của Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường buộc các doanh nghiệp phải được sự chấp thuận từ cơ quan nhà nước có liên quan và chứng chỉ của một cơ quan giám định hợp pháp ( thường là VINACONTROL của Việt nam và SGS của Thuỵ sỹ) là thiết bị còn mới 80% giá trị, không phải phế liệu hoặc chát đốt tiêu thụ không được quá cao hơn 10% so với máy mới và các máy móc thiết bị đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và môi trường. Các DNVVN, nếu không thể mua máy móc thiết bị mới, thì cũng chật vật trong việc nâng cấp lên thiết bị đã qua sử dụng. Đành rằng là cần tránh tình trạng biến Việt nam thành bãi rác công nghệ những nếu quy định qúa khắc nghiệt thì cũng rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới.
Trong tình trạng như vậy thì hoạt động cho thuê tài chính (leasing)- một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao, linh hoạt trong kinh doanh-có thể được xem như cứu cánh cho vấn đề công nghệ của các DNVVN, tuy vậy việc xúc tiến hoạt động này chưa phát triển lắm. Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 đã được Chính phủ ban hành về Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nhằm mở đường cho các công ty cho thuê tài chính tiến hành hoạt động, tạo một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho các DNVVN, nhưng kết qủa vẫn chưa thu được bao nhiêu. Cho thuê tài chính ở Việt nam vẫn còn là một cái gì đó xa lạ.
49
Về giáo dục đào tạo, Những năm gần đây, Chính phủ cũng đã có rất nhiều cố gắng nỗ lực để tạo cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng một đội ngũ nhân lực có tay nghề và trình độ. Ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khoá, trường lớp với nhiều hình thức, phương thức đào tạo khác nhau. Mặc dù đó mới chỉ ban đầu hình thành do nhu cầu bức thiết của các DNVVN nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong khu vực DNVVN tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được tổ chức ở khắp nơi trên cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như vậy còn chưa được thực hiện đúng mức, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho loại đối tượng này.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số trung tâm xúc tiến, hỗ trợ DNVVN được thành lập và thực hiện các hoạt động đào tạo và các hoạt động khác do các nguồn quỹ quốc tế tài trợ. Có thể kể đến trong số đó là Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) hình thành trên khuôn khổ dự án hợp tác giữa Liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), trung tâm liên tục tổ chức các lớp học trong đó bao gồm cả những lớp học đào tạo giảng viên. Ngoài ra còn có các lớp học liên tục được tổ chức tại Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI-SME PC với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các lớp học của Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng( SMEDEC). Tuy nhiên các trung tâm này không đủ để đáp ứng việc đào tạo hướng nghiệp và các dịch vụ tư vấn ở quy mô các DNVVN yêu cầu. Vấn đề là có một cơ quan Chính phủ ủng hộ hoạt động của các trung tâm này cũng như sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, như vậy các trung tâm đó mới thực sự phát huy vai trò hỗ trợ các DNVVN. 5.Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các DNVVN.
Việt nam đang trong tiến trình hộp nhập kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu, thành công của tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của khu vực doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNVVN. Khu vực này chỉ
50
thực sự phát triển được nếu có sự hỗ trợ kịp thời, có những điều kiện ưu đãi thích hợp, không chỉ từ phía đối nội mà còn cần nhiều những hỗ trợ quý báu từ bên ngoài về nguồn vốn viện trợ phát triển, về các kinh nghiệm trong việc phát triển các DNVVN. Quan hệ hợp tác của Việt nam với nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều định chế tài chính vì vậy mà không ngừng được tăng cường và phát triển, dưói đây là một vài thành quả điển hình.
Cùng chung một mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thông qua những dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho các DNVVN. Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam(VCCI) và Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức(GTZ-German Technican Corporation) cùng hợp tác và xây dựng và phát triển những dịch vụ thông tin cập nhật với chất lượng cao. Văn bản hợp tác giữa VCCI và GTZ kí vào 10/2001, kế đó việc phát triển hướng đi của SMEnet( Small and Medium Enterprises) được ghi nhận và thông qua vào 11/2001 và kinh phí được hỗ trợ vào 12/2001. Sau đó SMEnet được thử nghiệm vào 3/2002 và chính thức hoạt động từ 4/2002. SMEnet-thành quả đầu tiên là trang Web http://www.SMEnet.com.vn vào tháng 4/2002, đây thực sự là một bước tiến lớn lao khi mà các DNVVN có thể tiếp cận được rất nhiều nguồn thông tin quý báu về hoạt động kinh doanh của mình, khi mà các thông tin về DNVVN được công bố công khai. Tại đó, các DNVVN có thể có những thông tin cập nhật về thị trường, sản phẩm, bạn hàng, đối tác, các thông tin về tư vấn pháp luật, khởi sự doanh nghiệp, và nhiều thông tin hữu ích khác qua đó các DNVVN Việt nam có thể tăng sức cạnh tranh của mình.Tuy mới hoạt động nhưng trang Web này thực sự đã là công cụ hiệu qủa cho phát triển DNVVN.
Cũng theo kế hoạch hợp tác giữa VCCI và GTZ, Dự án thúc đẩy phát triển DNVVN sẽ dần dần chuyển giao SMEnet cho Trung tâm thông tin VCCI quản lí, trong quá trình chuyển giao đó, hai bên sẽ cùng hợp tác phát triển SMEnet như một cổng thông tin về kinh tế cho các DNVVN.
Phía Việt nam cũng đã có sự hợp tác với Italia về phát triển các DNVVN, hai bên đã ký “Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác về các DNVVN Việt nam- Italia” giữa Bộ công nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp
51
nước Cộng hoà Italia và Bộ công nghiệp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam vào 5/10/1999. Italia cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều chương trình hợp tác hỗ trợ, cụ thể là “Hội thảo DNVVN trong công nghiệp- kinh nghiệm của Italy và Việt nam” do bộ công nghiệp Việt nam, Đại sứ quán Italy tổ chức ngày 22/5/2002. Hay là dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN việt nam trong công nghiệp đá ốp lát, và nhiều hoạt động khác.
Việt nam cũng luôn tham gia và thậm chí trực tiếp tổ chức các hội nghị quốc tế về phát triển các DNVVN. Điều này thể hiện quyết tâm thực sự của Chính phủ trong phát triển các DNVVN. Tại Bắc Kinh, việt nam tham gia Hội nghị cấp bộ trưởng APEC về các DNVVN ngày1/9/2001 với sự tham gia của 21 quốc gia APEC, hội nghị đã thông qua tuyên bố chung về phát triển các DNVVN. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8/10/2002 đã diễn ra “Hội nghị lần 7 các thành phố đối tác khu vực châu á-Thái Bình Dương về chính sách hỗ trợ DNVVN”. Hội nghị cũng thông qua chương trình hành động TP Hồ Chí Minh về phát triển DNVVN. C.Thực trạng và những tồn tại của các DNVVN tại Việt nam. 1.Vốn của các DNVVN.
Hiện nay các DNVVN gặp phải tình trạng khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Thị trường cung ứng vốn cho các DNVVN chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của thân nhân, bạn bè, và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNVVN, nhất là các DNVVN ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức của ngân hàng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân như: Hệ thống ngân hàng, chủ yếu dành các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước; các DNVVN không đáp ứng được các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án khả thi, thủ tục thế chấp và mức lãi suất. Hiện nay, các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn rất phức tạp, dẫn đến chí phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các DNVVN. Thủ tục
52
phức tạp và chi phí giao dịch cao lại cũng làm cho các ngân hàng không muốn cho các DNVVN vay. Bởi vì dưới góc độ của các ngân hàng, thủ tục cho vay các khoản vốn nhỏ cũng không kém phần phức tạp so với các khoản vốn lớn mà lợi nhuận lại ít và các quy định quá khắt khe về tài sản thế chấp và dự án khả thi cũng đội các chi phí lên cao. Chính vì thế ngân hàng thì nhận được ít lợi nhuận đi còn các DNVVN thì lại không đáp ứng được các điều kiện vay vốn, cho nên các ngân hàng không muốn cho họ vay. Trong khi đó, các DNNN thì lại vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Đây là một trong những phân biệt đối xử lớn hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như các phương pháp định giá tài sản thế chấp còn không rõ ràng, thường đánh giá rất thấp giá trị của các tài sản thế chấp so với giá trị thực của nó, và các quy định của các ngân hàng về vấn đề này còn rất tuỳ tiện. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không muốn vay ngân hàng vì như vậy khó trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Các khoản hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài của các quốc gia, các tổ chức, các dự án là rất hiệu quả nhưng chưa thấm tháp vào đâu với nhu cầu của các DNVVN. Các chính sách tài chính tín dụng chưa được tiến hành đồng bộ và thực thi hiệu quả nên tác động chưa thật tốt đến nhu cầu bức xúc về vốn của các DNVVN hiện nay. 2.Tình hình thiết bị công nghệ
Trình độ thiết bị, công nghệ trong các DNVVN rất lạc hậu. Chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp ( chỉ bằng 3%) mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị thấp. Nếu lấy thành phố Hồ Chí Minh- trung tâm công nghệ cao nhất cả nước làm ví dụ thì tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10% một năm tính theo vốn đầu tư. Trong khi đó, nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn thông, hóa thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như trên thì không tránh khỏi tụt hậu; do đó mà năng suất thấp, giá
53
thành cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể thấy tình hình tại thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Bảng 9 : Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại các DNVVN ở TP Hồ Chí Minh so với trình độ chung của thế giới
Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị (%) Loại doanh nghiệp Hiện đại Trung bình Quá lạc hậu, lạc hậu
1. Quốc doanh 11,4 53,1 35,5
2. Ngoài quốc doanh 6,7 27 66,3
-Cổ phần, TNHH 19,4 54,8 25,8
-DNTN 30,0 30,3 50,0
-HTX 16,7 33,3 50,0
-Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6
10 38 52
Tính chung Nguồn: Báo cáo định hướng chiến lược và khuyến nghị chính sách phát triển DNVVN đến năm 2010 ở Việt Nam, Trang 22.
Thực trạng trên cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các DNVVN đươc định nghĩa với tiêu chí vốn tương đối thấp và gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Đặc biệt các doanh DNVVN còn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc và thiết bị do thiếu thông tin về thị trường này. Những tồn tại căn bản trong tình hình công nghệ lạc hậu hiện nay ở khu vực DNVVN là :
- Thiếu vắng chiến lược công nghệ cho DNVVN, do đó đổi mới công nghệ diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp lớn.
- Thiếu thông tin hướng dẫn và điều kiện tiếp cận công nghệ, năng lực tài chính hạn hẹp. Việc đổi mới công nghệ vẫn chỉ là việc làm tự thân của DNVVN.
- Tiến trình thay đổi công nghệ diễn ra chậm chạp, chưa tương xứng với tốc độ gia tăng của thị trường. Việc đổi mới công nghệ chỉ tập trung vào một số ngành và chủ yếu ở các thành phố lớn, các ngành này đã đạt được
54
những tiến bộ nhất định về công nghệ và từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường (ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ, hóa mỹ phẩm, chất tẩy rửa, sản xuất đồ nhựa, sản xuất công cụ chế biến lương thực, đồ gia dụng...).
- Thiếu những giải pháp đồng bộ trong việc tiếp thu công nghệ ngoại nhập, thiếu thông tin tư vấn, trình độ và tổ chức đánh giá thẩm định cho nên khoảng 70% máy móc thiết bị mua về ở mức trung bình, trong đó một bộ phận đáng kể ở dạng second-hand. Việc quản lý công nghệ nhập còn nhiều sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ gây tổn thất lớn về kinh tế.
- Vai trò hướng dẫn quản lý của các ngành kinh tế- kỹ thuật, của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn về công nghệ còn thiếu và lúng túng. Cơ chế chính sách, cơ chế chuyển giao công nghệ không đồng bộ; quy trình, quy phạm, thiếu sự hỗ trợ trong chính sách tài chính tín dụng do đó DNVVN không đủ sức đổi mới công nghệ hoặc tiếp thu công nghệ mới kém hiệu quả, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ.
- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu triển khai với các DNVVN, tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung tâm, các trường đại học chưa được khai thác phục vụ cho các chương trình đổi mới công nghệ, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ giữa các doanh nghiệp lớn với DNVVN.
- Thiếu đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, những
nhà hoạch định chính sách và tổ chức ứng dụng công nghệ mới.
- Thiếu những điều kiện chuẩn bị cho quá trình thay đổi công nghệ một cách cơ bản, đồng bộ để thích ứng với sự biến đổi của thị trường khi hội nhập đầy đủ với các nước ASEAN vào năm 2006.
Kế đó, còn có một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt
động chuyển giao công nghệ cuả các DNVVN như:
-Các doanh nghiệp chưa được phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị
do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
-Việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn với các thủ tục, quy định hiện hành gây khó khăn, phiền hà và mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Và cũng các chính quy
55
định hiện hành làm cho các DNVVN không đủ điều tài chính mua máy móc thiết bị mới cũng không thể nâng cao công nghệ của mình bằng cách nhập máy móc thiết bị cũ nhưng phù hợp với năng lực sản xuất của họ.
-Các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và Internet còn quá cao. Đây là một trong những cản trở đầu tiên để tiếp cận với thông tin thị trường công nghệ quốc tế.
-Các thủ tục cồng kềnh, tốn kém trong việc cấp thị thực nhập cảnh cho các chuyên gia nước ngoài, những người chuyển tải công nghệ vào Việt Nam, và thuế thu nhập cao mà các chuyên gia này phải chịu so với các nước Đông Nam á đã không khuyến khích họ đến Việt Nam.
-Nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện nay của các DNVVN đang phải chịu các mức thuế suất cao. Trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn thuế nhập khẩu.
3.Trình độ nhân lực, lao động và quản lý.
Nhìn chung lao động trong các DNVVN ít được đào tạo cơ bản qua các trường lớp chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn hóa thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là: Tỷ lệ giữa đào tạo đại học- trung học- công nhân kỹ thuật là 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ là 1- 4 -10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, tổng số công nhân kỹ thuật lại càng ít hơn so với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, chất lượng dạy nghề lại yếu, nguyên nhân là do trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình, giáo án đều rất thiếu thốn và lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu.
Về chủ doanh nghiệp : Thực trạng trình độ của chủ DNVVN ở nước
ta được biểu hiện trên một số mặt sau đây:
-Về cơ cấu trình độ của chủ DNVVN: Theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân, viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản
56
xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản lý kinh tế. Động cơ hoạt động sản xuất- kinh doanh là để tự tạo việc làm, có thu nhập cho cuộc sống. Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân, có truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá lớn, có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất- kinh doanh, tài chính, kế toán... còn thiếu. Khoảng 10% là học sinh, sinh viên các trường phổ thông, các trường trung học, đại học tìm được việc làm, có vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh.
- Về trình độ văn hóa: 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35% trình độ lớp 10 (hệ cũ) và 25% có trình độ lớp 12 (hệ mới). Trình độ này còn được chứng minh qua số liệu điều tra 300 doanh nghiệp nhỏ ở 3 thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh của Viện khoa học lao động Nhật Bản kết hợp với Viện khoa học lao động của Bộ lao động- thương binh và xã hội Việt nam; hơn 70% có trình độ cấp II ( hệ cũ) và khoảng 25% có trình độ cấp III trở lên.
- Về trình độ chuyên môn: Trong số các chủ doanh nghiệp được điều tra, cứ 100 người thì có một người có trình độ trên đại học, 3 người có trình độ đại học, 14 người có trình độ trung học hoặc tương đương. Hơn nữa, trong số trình độ trung học và đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ tay nghề đào tạo phù hợp với nghề hoạt động sản xuất- kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách đổi mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở riêng hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Số chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hóa, sửa chữa cơ khí, điện tử. Một số các chủ doanh nghiệp có tay nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế, hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng khi lập nghiệp, kiến thức cũ không đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức nghề nghiệp qua các lớp bồi dưỡng ngắn. Một số ít trong các chủ doanh nghiệp đã qua quá
57
trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề trong thực tế, sau đó trưởng thành, có vốn và tự đứng ra tạo lập doanh nghiệp.
Qua phần thực trạng trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nêu trên, có thể kết luận rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này, trước hết là do sự chuyển biến về cơ chế quản lý, các DNVVN đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành, phát triển, việc đào tạo bồi dưỡng chưa được chú ý đúng mức hoặc đã được chú ý nhưng chưa triệt để.
Từ năm 1991 trở lại đây, ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khóa, trường lớp với nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau. Có thể kể đến trong số đó là các lớp đào tạo liên tục của Trung tâm hỗ trợ DNVVN, các lớp về khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp của Trung tâm xúc tiến DNVVN SME-PC/VCCI với sự trợ giúp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các khoá học đào tạo ngắn hạn của Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng(SMEDEC). Mặc dù đó mới chỉ là ban đầu hình thành do nhu cầu cấp thiết của các DNVVN, nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp khá tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được các cơ quan, các tổ chức khác nhau tổ chức cho hàng vạn các lượt chủ doanh nghiệp ở các thành phố lớn và nhiều tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như thế còn chưa được thực hiện đúng mức, còn manh mún, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho loại đối tượng này.
Về lao động phổ thông trong các DNVVN: Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, tình trạng này còn trầm trọng hơn đối với số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong khi đó chủ yếu
58
tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần,74,8% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.
7.Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DNVVN về sản phẩm, thị trường.
Hạn chế về sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Một trong những hạn chế lớn nhất của DNVVN Việt nam là trên con đường đi tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, rất nhiều DNVVN vẫn đang duy trì những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên lợi thế chi phí nhân công rẻ.
Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Các doanh nghiệp hiện nay chưa tìm được lợi thế so sánh bằng những sản phẩm “độc đáo” riêng, hầu như DNVVN mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh thì tập trung vào kinh doanh và đem ra chào bán, nếu không thì cũng là sản xuất theo kiểu làm nhái lại các sản phẩm uy tín nước ngoài. Ngay cả trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu…- những lĩnh vực ưu thế của Việt Nam, việc đa dạng chủng loại, mẫu mã vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp DNVVN chỉ làm theo catalogue, hoặc là cóp nhặt, nhái kiểu sản phẩm cạnh tranh, kết cục vừa làm mình rơi vào thế bị động, vừa ảnh hưởng xấu đến diễn biến thị trường. Sản phẩm có quá nhiều sự trùng lắp, cả về mẫu mã lẫn chủng loại mặt hàng, dịch vụ giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau, giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, nên thị phần bị thu hẹp và lợi thế cạnh tranh tương đối lại càng mờ nhạt. Đó là nguyên nhân từ hai phía: trước hết, DNVVN yếu kém cả về năng lực sản xuất lẫn công nghệ và kiến thức thương trường và thậm chí chưa thực sự quan tâm đúng mức đến cải tiến sản phẩm; sau đến, Nhà nước thiếu một cơ chế kích thích tốt, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về ngành nghề và thị trường đối với loại hình doanh nghiệp này.
Hơn nữa, trong xuất khẩu, phần lớn các doanh nghiệp đang sản xuất các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia nhập thị trường. Sản phẩm dưới dạng thô, sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong khi lao động ở các DNVVN nói chung dư thừa rất nhiều. Về lâu dài không chỉ các nguồn tài
59
nguyên bị cạn kiệt mà cả lợi ích do giá cả thấp cũng thuộc về khách hàng nước nhập khẩu. Trong mấy năm gần đây, việc đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến cũng như vào mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã có những cố gắng đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng. ở đây lại xuất hiện một nghịch lý là, nếu sản xuất và xuất khẩu hàng thô thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị thấp. Còn nếu đầu tư vào hàng chế biến thì cần vốn lớn và khó tìm thị trường, mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của các DNVVN hiện nay. Thực tế là nhiều sản phẩm xuất khẩu thô thì lãi nhưng chế biến sâu khi bán ra lại lỗ.
Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ không nói đến thị trường nước ngoài. Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam luôn đứng ở thế yếu trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch, chất lượng trung bình từ Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường nội địa bởi chất lượng, giá cả, mẫu mã. Điều đáng lo ngại đối với DNVVN Việt Nam là nhiều hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và trên thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm. Vô hình chung, doanh nghiệp Việt Nam tự rơi vào "cái bẫy của chí phí lao động thấp": bị qui luật cạnh tranh dồn ép vào những ngành có lợi nhuận cận biên thấp và bị cạnh tranh gay gắt về chi phí.
Qua điều tra trên 146 doanh nghiệp, các chuyên gia Viện chiến lược phát triển và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc đã rút ra nhận xét: "Trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, người ta chưa thấy rõ những nỗ lực hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp dường như phó mặc hoặc ít quan tâm tới việc cải thiện không ngừng hoạt động của mình, điều tất yếu để có thể đạt được chuẩn mực quốc tế. Các công ty xuất khẩu Việt Nam thường có ít hoặc không có nhãn hiệu quốc tế riêng, thường phải dựa nhiều vào khách hàng và các đối tác chính để có đầu vào thiết kế, quy trình công nghệ, tiếp thị và phân phối. Nhiều doanh nghiệp coi Chính phủ như một tác nhân quan trọng đến kết quả kinh doanh của họ và nỗ lực tìm kiếm càng nhiều ưu tiên, hạn
60
ngạch, trợ cấp và bảo hộ càng tốt"( Trích “Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999.)
Tiếp đó là về vấn đề thương hiệu sản phẩm, có thể thấy hiện đây đang là một vấn đề nhận được nhiều sự lưu tâm nhất hiện nay. Các DNVVN Việt nam hiện nay chưa tạo được một thương hiệu riêng cho mình- và cũng phải thừa nhận đó là một vấn để chẳng dễ dàng gì. Điển hình là sản phẩm gốm sứ Bát tràng, người ta biết đến Bát tràng là nơi sản xuất uy tín về gốm sứ, đến Bát tràng người ta có thể thấy nhan nhản các cửa hàng cửa hiệu với tên rất rõ ràng với địa chỉ và số điện thoại liên hệ, nhưng vấn đề là ở chỗ, không có tên, không có biểu tượng-tức là không có thương hiệu sản phẩm gốm sứ bát tràng để phân biệt với các sản phẩm gốm sứ khác trong khi gốm sứ Bát tràng hiện nay lại được xuất khẩu với số lượng rất lớn sang Nhật bản và Châu Âu. Để giải quyết vấn đề thương hiệu của mình, một trong những giải pháp đưa ra là các DNVVN có thể sử dụng thương hiệu của các doanh nghiệp lớn cho đến khi có thương hiệu riêng, nhất là trong hoạt động xuất khẩu, các DNVVN cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm sử dụng các thương hiệu của các doanh nghiệp đó. Thêm nữa, các DNVVN có thể mua lại các thương hiệu của các doanh nghiệp lớn bằng giao dịch nhượng quyền thương hiệu. Nếu DNVVN xây dựng thương hiệu của chính mình thì nên xây dựng thương hiệu ở cấp công ty thay vì xây dựng thương hiệu sản phẩm vì như vậy quá tốn kém. Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì để phát triển một thương hiệu thì chi phí đầu tư không nhỏ và cần ít nhất vài năm để xây dựng thương hiệu quốc gia, cần khoảng 10 năm để xây dựng thương hiệu quốc tế, điều này là rất khó khăn với các DNVVN Việt nam với đa phần quy mô rất nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, mục tiêu bán được hàng, có lợi nhuận, tạo công ăn việc làm là vấn đề cấp bách trước mắt.
Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nội địa: Thị trường nội địa của các DNVVN còn kém phát triển và thiếu đồng bộ. Các DNVVN chưa vượt ra được thị trường địa phương và khu vực. Thị trường đầu ra nội địa còn bị chèn ép vì độc quyền, vì hàng nhập lậu tràn lan, vì doanh nghiệp thiếu thông tin thị trường và thiếu sự hỗ trợ, tư vấn của các
61
cấp vĩ mô. Sắp tới ngoài những thách thức đó, còn có những thách thức khi thị trường Việt nam phải mở cửa hoàn toàn cho khu vực AFTA và lộ trình gia nhập WTO cũng đang hứa hẹn nhiều khó khăn đối với khu vực DNVVN.
Thực tế ở thị trường nội địa Việt Nam hiện nay, việc xác lập các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thụ chưa thực hiện hiệu quả, chủ yếu do DNVVN khu vực kinh tế tư nhân đảm nhận. Doanh nghiệp tư nhân tuy đông nhưng vốn quá nhỏ, phạm vi kinh doanh rộng nhưng lại thiếu nghiệp vụ, kinh nghiệm nên DNVVN tư nhân thường chờ thời cơ, buôn bán nhỏ qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng lộn xộn ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, hay đội giá và gây ra hiện tượng khan hiếm hoặc dư thừa hàng hóa trên thị trường. Phần lớn doanh nghiệp hoạt động còn mang tính tự phát, năng lực nghiên cứu, dự báo cung cầu thị trường còn yếu. Nhiều khi, thấy có một mặt hàng đang bán chạy, các DNVVN đổ xô vào đầu tư sản xuất. Thực tế này dẫn tới đẩy giá nguyên liệu lên cao, làm giá thành sản phẩm tăng, đồng thời lượng cung hàng hóa cũng tăng. Do đó, dẫn tới thua lỗ, phá sản trong hàng loạt doanh nghiệp. Nhà nước chưa có biện pháp hỗ trợ DNVVN trong những trường hợp kinh doanh rủi ro cho nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực mới hay tại những địa bàn kém lợi thế.
Hơn nữa, việc quản lý thị trường của Nhà nước Việt Nam còn nhiều kẽ hở, hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất của doanh nghiệp. Tất cả những thực tế này khiến các doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ có khuynh hướng tập trung các nguồn lực dự trữ và tiêu thụ hàng ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hóa trong nước. Vì vậy, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thị trường nội địa không phát triển đúng mức, càng tạo ra thêm nhiều cản trở cho sự gia nhập thị trường và vươn lên của nhiều DNVVN khác.
Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nước ngoài: Ngày càng có nhiều DNVVN tham gia đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng, ở mặt trận này doanh nghiệp cũng bộc lộ rất nhiều hạn
62
chế, từ chính bản thân và từ môi trường kinh doanh. Cơ cấu thị trường xuất khẩu không đa dạng, nhiều doanh nghiệp gặp không ít bất lợi khi các nước châu á - bạn hàng chính lâm vào khủng hoảng, cắt giảm tiêu thụ, nợ nần dây dưa. Nhìn chung, doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược thị trường của riêng mình. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mới chỉ có "chiến lược để cố gắng tồn tại trong ngắn hạn" hoặc là "chưa có chiến lược riêng phát triển doanh nghiệp" ( Trích “ Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”-NXB Chính trị quốc gia, tháng 6/1999).
“Các DNVVN thụ động trong xuất khẩu”, đó cũng là nhận định được đưa ra tại hội thảo “Tăng cường năng lực hợp tác quốc tế của DNVVN Việt nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” tổ chức vào 6/6/2001. Một khảo sáo của một nhóm nghiên cứu về DNVVN của trường đại học Kinh tế quốc dân, Đại học ngoại thương cùng với Đại học Copenhagen của Đan mạch cho thấy:36,7% số DNVVN có được đơn hàng xuất khẩu qua việc khách hàng nước ngoài trực tiếp đến thăm doanh nghiệp, 10,2% từ việc tham gia hội chợ triển lãm và 14,3% từ các đại lý bán hàng nước ngoài của doanh nghiệp và 20,4% là qua Bộ Thương mại và VCCI. Qua đó thấy rằng các DNVVN còn rất thụ động trong việc tìm thị trường, khách hàng, còn phụ thuộc nhiều vào khách hàng và hầu như hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận với thị trường và định hướng khách hàng, hiếm khi chủ động tìm kiếm khách hàng mới, nắm bắt và tham gia vào các hoạt động tiếp thị năng động trong nước hay quốc tế, hoặc thử nghiệm các mẫu sản phẩm mới. Điều này có nghĩa là nhiều doanh nghiệp tiếp tục sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, phạm vi cải tiến bó hẹp - những sản phẩm mà đến lượt nó lại phải chịu ảnh hưởng của những người bán hàng quốc tế hùng mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay theo sự phá giá tiền tệ ở một số nước đối thủ cạnh tranh.
Do thiếu thông tin và kèm theo những yếu điểm về công nghệ, trình độ quản lý, nên doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro khi xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp chỉ có thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh… một cách chắp vá, vì vậy rơi vào tình trạng hoặc chịu thua thiệt về giá hoặc khó định hướng
63
được đầu tư. Hầu hết DNVVN Việt Nam chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của doanh nghiệp khác, dễ dàng đánh mất nhiều cơ hội kinh doanh quí báu. Sức cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế rất non yếu.
Trên thực tế, các DNVVN nước ta chủ yếu gia công cho các tổ chức thương mại trong và ngoài nước, hoặc xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Do khoảng trống thông tin tồn tại giữa thị trường Việt Nam và thế giới bên ngoài, doanh nghiệp phải phụ thuộc sâu sắc vào các tổ chức trung gian, bị ép giá và phải chia sẻ một khoản đáng kể trong lợi nhuận thu được. Nhà xuất khẩu không hề biết hiệu quả của công việc như thế nào, một khi sản phẩm rời nhà máy doanh nghiệp không biết điều gì sẽ xảy ra với sản phẩm của mình.
Một khảo sát do “Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF)” tiến hành về các doanh nghiệp xuất khẩu khu vực tư nhân xét theo 'Thành công" và "Không thành công" cho thấy rằng, 'Thành công" của một doanh nghiệp phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có: tiếp cận thị trường trực tiếp thay vì sử dụng các trung gian thương mại; lựa chọn sản phẩm có giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp; xác định được mảng thị trường có nhu cầu lớn trong nước (thực phẩm, hàng tiêu dùng cơ bản) hoặc một mảng thị trường có lợi tức cao trên thị trường xuất khẩu (hạt điều, cà phê, hải sản và hàng may mặc) - thay vì không biết về thị trường tiêu thụ cuối cùng hoặc về người tiêu thụ cuối cùng; có những bạn hàng lâu dài và xây dựng chiến lược thị trường đa dạng, ổn định thay vì quá tập trung vào một số thị trường nào đó. Đáng tiếc là, hiện nay rất đông DNVVN Việt Nam có đặc điểm sản xuất kinh doanh rơi vào trường hợp "Không thành công". Trong khi kim ngạch xuất khẩu của các DNVVN chiếm tới 70% kim ngạch của cả nền kinh tế thì vấn đề đã trở nên không còn đơn giản nữa.
64
Các cơ chế để doanh nghiệp có thể hợp tác thường xuyên với nhau còn thiếu trầm trọng ở Việt Nam, một phần là do nhận thức yếu kém về lợi ích mà hợp tác mang lại và một phần khác là do Nhà nước thiếu biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện. Sản xuất của DNVVN riêng rẽ, manh mún khó có hiệu quả kinh tế theo qui mô. Chưa xác lập được vai trò thầu phụ với doanh nghiệp lớn, liên kết sản xuất phân đoạn giữa các DNVVN chưa có . Mối quan hệ “Vệ tinh- trung tâm” với các doanh nghiệp lớn chưa tồn tại ở Việt nam trong khi đây là chìa khoá cho thành công của nhiều DNVVN của nhiều nền kinh tế trên thế giới- điển hình là Nhật bản. Tình hình liên doanh đầu tư với tư nhân trong nước còn rất ít, chủ yếu là liên doanh giữa tư bản nước ngoài với Doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Giữa các DNVVN cùng ngành chưa có hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nên chưa tạo nên sức mạnh để mở rộng thị trường.
Cũng do mang nặng các tính chất của một nền sản xuất nhỏ, phân tán cho nên khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng cạnh tranh lẫn nhau trên thương trường, trong số đó, không ít là cạnh tranh không lành mạnh : " ta lại đánh ta", "doanh nghiệp này phá doanh nghiệp kia, địa phương này phá địa phương kia" 1(Trích câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp trong hai ngày 18-19/3/2000 tại TP Hồ Chí Minh). Các đối tác nước ngoài đã nhanh chóng nhận ra đặc điểm này, và kết quả là giá xuất khẩu hàng Việt Nam đã do chính các doanh nghiệp Việt Nam hạ xuống đến mức thấp không thể chấp nhận được, cả doanh nghiệp lẫn nền kinh tế quốc dân phải gánh chịu những thiệt hại lớn.
Các hiệp hội kinh doanh, các cơ quan xúc tiến của Nhà nước chưa thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Mặc dù thời gian qua quan hệ Chính phủ - doanh nghiệp đã có những bước cải thiện đáng kể thể nhưng nhìn chung quan hệ này mới thông nhưng còn chưa thoáng, Chính phủ đã tiếp thu kiến
65
1 Trích câu nói c(cid:0)a Th(cid:0) t(cid:0)(cid:0)ng Phan V(cid:0)n Kh(cid:0)i trong cu(cid:0)c g(cid:0)p g(cid:0) các doanh nghi(cid:0)p, ngày 18- 19/3/2000 t(cid:0)i Thành ph(cid:0) H(cid:0) Chí Minh
nghị của DN song mới chỉ ở những giải pháp tình thế, chưa có tính cơ bản và triệt để và mang tính lâu dài và đặc biệt chưa xoá bỏ sự phân biệt giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân-tiêu biều cho các DNVVN, làm cơ sở cho sự phát triển các DNVVN. Qua đó, các DNVVN chưa có khả năng tự thiết lập hệ thống thông tin thị trường, xây dựng các hoạt động xúc tiến thương mại, thêm vào đó cũng không gặp thuận lợi khi tiếp cận với các kênh thông tin, các hiệp hội xúc tiến xuất khẩu. DNVVN chưa được hưởng các chính sách ưu đãi công bằng như các doanh nghiệp Nhà nước qui mô lớn. Chẳng hạn việc phân bổ quota, việc sử dụng thông tin của bộ chủ quản… các DNNN mặc dù hoạt động kém hiệu quả song được hưởng nhiều ưu đãi hơn các doanh nghiệp tư nhân.
Phát triển mạnh DNVVN là một chiến lược trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam nhưng hiện tại ở Việt Nam DNVVN đang gặp rất nhiều khó khăn và tồn tại, chưa thể phát huy tiềm năng và những lợi thế kinh tế-xã hội to lớn của mình. Trong đó những hạn chế nổi bật là về vốn, công nghệ, nhân lực, thông tin, sản phẩm-thị trường. Chương III đề cập đến một số giải pháp nhằm tháo gỡ những tồn tại nói trên .
Chương III: một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
A. Định hướng phát triển các DNVVN tại Việt nam
Về môi trường pháp lý: Tạo được môi trường pháp lý bình đẳng cho sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế, ở đó các chủ thể kinh doanh đều có cơ hội như nhau cũng như những thách thức ngang nhau để khẳng định chỗ đứng của mình, không quá phân biệt DNVVN và doanh nghiệp nhà nước. Dù rằng không thể tách rời DNVVN ra để được đối xử đặc biệt nhưng loại hình này cần có một sự hỗ trợ có định hướng riêng để có thể tham gia vào thị trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác xuất phát từ quy mô nhỏ, số lượng lớn và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế.
66
Về ngành nghề, chúng ta nên tập trung phát triển theo hướng những ngành nghề nào mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể đảm nhận được thì khuyến khích họ. Các doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần nắm một số ngành then chốt như điện, nước, xi măng, sắt thép... với số lượng khống chế nhằm tránh gây ra sự độc quyền, trì trệ, giảm hiệu quả kinh tế. Các DNVVN nên được phát triển mạnh trong các lĩnh vực
- Sản xuất hàng hoá tiêu dùng, chế biến nông lâm hải sản, thực phẩm;
vận tải hàng hoá, thương mại, dịch vụ, các ngành nghề truyền thống
- Các ngành hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng
cạnh tranh cao (như hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ..)
- Các ngành tạo đầu vào cũng như các ngành phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của các doanh nghiệp lớn( mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm, chế biến…)
-Các ngành nghề truyền thống( như mây tre đan, thủ công mỹ nghệ…)
Về sở hữu, Việt Nam cần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa các DNVVN ngoài quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, tập thể vì phát triển mạnh khu vực kinh tế này (cũng có nghĩa là phát triển mạnh các DNVVN) sẽ cho phép chúng ta có được một nền kinh tế năng động, linh hoạt, hiệu quả và khai thác triệt để các nguồn lực trong xã hội.
Chú trọng phát triển DNVVN ở các vùng nông thôn. Hiện có tới hơn 70% dân số sống ở nông thôn. Các DNVVN có ưu thế trong việc phát triển phân tán ở các địa phương. Các DNVVN ở nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết tình trạng nông nhàn, giảm bớt sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn thì việc phát triển DNVVN ở các vùng nông thôn là một chiến lược đúng đắn, góp phần thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn.
Phát triển các DNVVN với công nghệ cao, đặc biệt là các DNVVN ở
thành thị nhằm mục tiêu sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
Thúc đẩy phát triển mối liên kết kinh tế giữa các DNVVN với các doanh nghiệp lớn theo mô hình "Vệ tinh - Trung tâm". Phát triển mối liên kết kinh tế giữa các DNVVN với các doanh nghiệp lớn là một tất yếu khách
67
quan do sự phân công lao động xã hội. Do sự hạn chế về vốn, lao động, công nghệ, thị trường,... nên các DNVVN thường chỉ đảm nhận một số giai đoạn của quá trình sản xuất. Kinh nghiệm của Đài Loan cũng như của các nước khác cho thấy mối liên kết này có thể thực hiện theo hai hướng chủ yếu sau:
Một là, các doanh nghiệp lớn và các DNVVN cùng nhau chế tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh, trong đó các doanh nghiệp lớn sản xuất những chi tiết, bộ phận đòi hỏi công nghệ cao, phức tạp và tiến hành lắp ráp, tiêu thụ sản phẩm. Mối quan hệ này chính là mô hình "Vệ tinh - Trung tâm" đã được Đai Loan và các nước khác áp dụng thành công. Các DNVVN là những thầu phụ, là "Vệ tinh" cho các doanh nghiệp lớn. Hai là, các doanh nghiệp lớn làm một số dịch vụ cho các DNVVN như bao tiêu sản phẩm, tư vấn đầu tư, chuyển giao công nghệ, đào tạo.
Chiến lược hỗ trợ cần phải đạt được những tiêu chí sau: Thứ nhất, chiến lược hỗ trợ các DNVVN phải nhằm vào định hướng không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ DNVVN vượt qua những trở ngại do quy mô nhỏ gây ra mà còn phát huy được những lợi thế do quy mô nhỏ mang lại. Thứ hai, chiến lược hỗ trợ cần thiết phải là một chiến lược hỗ trợ lâu dài chứ không phải là những hỗ trợ mang giải pháp tình thế, hỗ trợ không phải là chỉ là những khen thưởng khi doanh nghiệp đạt được những thành tựu nhất định mà hỗ trợ sao phải để doanh nghiệp đạt được những thành tựu đó (dẫn lời ông Đoàn Duy Thành, chủ tịch VCCI).Thứ ba, chiến lược hỗ trợ phải cụ thể theo từng khâu, từng giai đoạn phát triển, hỗ trợ không được mang tính bao cấp mà phải tạo được những phương tiện để DNVVN tự mình đi lên. B. Các giải pháp phát triển loại hình DNVVN tại Việt nam I. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN. 1.Hoàn thiện chính sách, môi trường pháp lí cho sự hoạt động của các DNVVN:
Môi trường chính sách, pháp lý tác động lên doanh nghiệp thể hiện rõ nhất ở hệ thống các văn bản luật điều chỉnh, mà trong đó Luật trực tiếp tác
68
động đến hoạt động của doanh nghiệp là Luật doanh nghiệp. Kể từ khi được Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu lực áp dụng từ 1/1/2000 , Luật doanh nghiệp đã bước đầu tạo sự bình đẳng về pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau và sau gần một năm thi hành, luật này đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ từ phía các doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp mới ra đời ngày một ra tăng- theo thống kê là số doanh nghiệp đã tăng đến 10 lần trước khi có Luật doanh nghiệp, chứng tỏ Luật này đã và đang phát huy những ưu điểm của nó. Ngày 2/8/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 17/2002/CT-TTg do Phó Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký về việc tiếp tục đẩy mạnh thi hành Luật doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi thành lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị trường, việc giám sát kiểm tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành nghề như Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, Luật doanh nghiệp tiếp tục được hoàn thiện, đồng thời nghiên cứu và nhanh chóng ban hành các luật mới như Luật chống độc quyền, Luật quảng cáo, Luật chống bán phá giá, đặc biệt là "Luật phát triển DNVVN" trong đó qui định rõ đối tượng điều chỉnh của Luật, phương hướng phát triển DNVVN, cơ quan quản lý cao nhất các DNVVN, hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, các tiêu chuẩn xác định DNVVN,v.v... a. Hình thành khung khổ pháp lý chung cho hoạt động của DNVVN.
Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Khung khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan tới DNVVN và những quy định riêng cho các doanh nghiệp này. Trên tinh thần đó, cần tập trung vào một số biện pháp sau:
69
Thứ nhất, ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, qui định hiện hành đối với các DNVVN. Đây là giải pháp nhằm để loại bỏ sự mâu thuẫn trong hệ thống các văn bản, quy phạm pháp luật gây khó khăn, cản trở cho các doanh nghiệp. Hệ thống chính sách này đối với các DNVVN định kỳ cần được xem xét, nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung những điểm không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế hiện tại và không thích hợp với môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, cần thay đổi quy trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật đối với các DNVVN . Hiện nay, các văn bản luật, pháp lệnh được ban hành trước, sau đó các cơ quan chức năng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Do vậy, trên thực tế, thời điểm thực hiện văn bản thường bị chậm so với thời hiệu được quy định tại văn bản. Bên cạnh đó, việc áp dụng văn bản cũng không thống nhất về thời gian và không gian, gây nên tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, trong quá trình xây dựng luật, phải đồng thời tiến hành việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống mà không cần phải đợi các văn bản hướng dẫn thi hành.
Các văn bản phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất- kinh doanh. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của nhà nước đối với các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Khi ban hành hoặc sửa đổi mỗi văn bản, không chỉ tính đến đòi hỏi hiện tại mà phải tính đến những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai.
-Thứ hai, sớm ban hành Luật riêng đối với DNVVN. Việc ban hành các luật riêng đối với các DNVVN nhằm :Một là, xác định rõ đối tượng điều chỉnh (doanh nghiệp cần hỗ trợ), tiêu chí phân loại DNVVN cũng như khung khổ các trị số của các tiêu chí, vị trí pháp lý của DNVVN trong mối quan hệ với cơ quan quản lý của Nhà nước.Hai là, có giải pháp khung để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho các DNVVN.Ba là, có giải pháp khung cho việc hỗ trợ các DNVVN.Bốn là, xác định trách nhiệm của các cơ
70
quan Nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này.
Các luật riêng cho DNVVN có thể là: Luật cơ bản về DNVVN, Luật
về các hiệp hội DNVVN, Luật về bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN.v.v..
Do vậy, cần sớm ban hành luật cơ bản về DNVVN nhằm để xúc tiến các hoạt động kinh doanh của DNVVN, cũng như đường hướng cơ bản cần được làm rõ sao cho các doanh nghiệp này được bảo hộ và việc nuôi dưỡng chúng được thực hiện ngay lập tức. Chúng cũng góp phần giảm thiểu những bất lợi bằng những hiệu ứng sau đây:
+ Hiệu ứng của việc tuyên bố rằng chính phủ Việt nam có ý định xúc
tiến DNVVN.
+ Hiệu ứng của việc giúp đỡ các chính quyền cơ sở và các cơ quan
liên quan thực hiện hỗ trợ cho DNVVN.
+ Hiệu ứng của việc tiếp tục thực hiện các biện pháp hỗ trợ DNVVN
quy định trong luật này.
+ Luật này là cơ sở quan trọng để phản hồi lại các chính sách của các
bộ và cơ quan khi các bộ và cơ quan này đặt DNVVN vào tình thế bất lợi.
Khuyến nghị trên được đưa ra xuất phát từ tình hình Việt nam muốn củng cố cơ sở quản lý của các DNVVN và hoàn thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân; hơn nữa, kinh nghiệm phát triển DNVVN trên thế giới cho thấy các nước đều có luật riêng về DNVVN. b.Hình thành cơ quan đầu mối quản lý thống nhất đối với DNVVN
Hiện nay, việc quản lý các DNVVN có khác nhau tùy thuộc loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ do các Bộ, các ngành, các địa phương hoặc do một số cơ quan quản lý. Trong khi đó, các DNVVN ngoài quốc doanh chưa có cơ quan quản lý Nhà nước đích thực mà chỉ thực hiện cấp giấy phép kinh doanh, đăng ký kinh doanh và thực hiện các chức năng rất hạn chế như thu thuế, kiểm tra về ô nhiễm môi trường.... Tuy nhiên, trên thực tế, các DNVVN lại có nhiều đầu mối "quản": các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
71
nghiệp. Do đó, đã đến lúc cần phải thành lập cơ quan đầu mối quản lý thống nhất đối với DNVVN.
Cần cố một cơ quan thực thi chức năng quản lý nhà nước đối với DNVVN ở trung ương làm đầu mối phối hợp với các bộ, ngành địa phương, các tổ chức hiệp hội để triển khai nghiên cứu, thực hiện chương trình kế hoạch hỗ trợ phát triển DNVVN với các nhiệm vụ như: đề xuất cơ chế chính sách phát triển DNVVN trình chính phủ ban hành, xây dựng các chương trình hỗ trợ, mạng lưới tổ chức hỗ trợ, phối hợp các cấp, các ngành, các địa phương điều phối các chương trình hỗ trợ về bộ máy quản lý.
Đến ngày 9/8/2002. Tại Hội nghị “Tăng cường mối quan hệ giữa UBND Thành phố với Hiệp hội công thương, Phòng công nghiệp và thương mại Việt nam trong công tác hỗ trợ DNVVN” do Hiệp hội công thương thành phố hồ chí minh phối hợp với Liên đoàn các DNVVN của Cộng hoà liên bang đức (ZDH) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đại diện UBND TP thì Chính phủ sẽ thành lập “Hội đồng DNVVN và Cục hỗ trợ DNVVN” làm đầu mối phối hợp các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong thời gian tới. Điều này tái khẳng định quyết tâm thành lập một “Cục phát triển DNVVN” vốn đã được quy định tại Điều 12, và bên cạnh đó là một “ Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” được quy định tại Điều 15 trong Nghị định 90/2001/CP-ND của Chính phủ ngày 23/11/2001về trợ giúp và phát triển DNVVN”. Đây là một tín hiệu tốt lành trong việc tạo ra một cơ quan đâu mối quản lí thống nhất quản lí các DNVVN tại Việt nam. 2.Nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước đối với DNVVN, hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô: a.Nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lí của nhà nước thì trước hết, như đã đề cập ở trên, cần có một cơ quan chuyên trách về quản lí DNVVN, từ cơ quan đó mà chia ra làm nhiều đầu mối quản lí khác. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ quan thực sự nào chuyên trách về quản lý nhà nước đối với các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh. Việc quản lý này do
72
nhiều Bộ, ngành chức năng cùng thực hiện, dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp, gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có một cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách thuộc Bộ kinh tế như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc hay Cục Cục Quản lý các DNVVN (SBA) trực thuộc Tổng thống ở Mỹ....làm đầu mối quản lý các DNVVN và các tổ chức này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các DNVVN.
Việt Nam đã có chủ trương và chiến lược phát triển DNVVN lâu dài, do đó việc thành lập một cơ quan để thống nhất quản lý nhà nước các DNVVN trong cả nước là hoàn toàn cần thiết. Cơ quan này có thể là "Cục phát triển DNVVN" hoặc "Hội đồng khuyến khích phát triên các DNVVN" như đã đề cập ở trên hay là một cơ quan nào khác tương tự như vậy trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Cơ quan này là đầu mối giúp Chính phủ thực hiện các chương trình phát triển DNVVN, phối hợp với các cơ quan chức năng khác để quản lý nhà nước về các DNVVN, nghiên cứu hoạch định chiến lược phát triển DNVVN, tham mưu cho Chính phủ các chương trình hỗ trợ DNVVN về tài chính, tư vấn thông tin, thị trường, công nghệ và thay mặt Chính phủ thực hiện các chính sách hỗ trợ các DNVVN cả nước
Ngày 23/9/2002. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có kế hoạch thành lập Cục phát triển DNVVN theo tinh thần đã nêu trong Điều 12/Chương III Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN. Việc thành lập Cục phát triển DNVVN nhằm tiếp bước hỗ trợ các DNVVN theo Nghị định 90. Cục này sẽ giúp Bộ Trưởng trong việc quản lí nhà nước, tổ chức các hoạt động xúc tiến phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN. Có nhiệm vụ định hướng, lập kế hoạch, đồng thời xây dựng chính sách phát triển DNVVN. Cục cũng có trách nhiệm xây dựng điều phối và triển khai các chính sách hỗ trợ DNVVN. Theo quy chế hoạt động 6 tháng một lần, cục sẽ tổng hợp tình hình và các vấn đề cần giải quyết về DNVVN. Theo đó, hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN hi vọng sẽ được cải thiện đáng kể.
73
b.Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô
Để hỗ trợ phát triển các DNVVN ở nước ta hiện nay, chúng ta cần đổi mới các và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô đối với các DNVVN. Cần phát huy những mặt tích cực và hạn chế, dỡ bỏ những mặt tiêu cực trong hệ thống chính sách đang áp dụng với khu vực doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng, có thể xét đến:
Chính sách thương mại: Cần đẩy nhanh quá trình cấp mã thuế vì hiện tại các doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thì cần phải có mã số hải quan, muốn có mã hố hải quan thì lại phải có mã số thuế do Bộ Tài chính cấp thông qua một loạt các thủ tục cần thiết tiến hành một cách riêng rẽ để đảm bảo cho Bộ tài chính xác định loại hình kinh doanh chính mà người làm đơn xin tham gia một vài trường hợp phải mất 6 tháng sau khi đệ trình để cấp mã số thuế. Cần giải quyết ngay tình trạng đó bằng các biện pháp sau: Thứ nhất, ban hành ngay các mã số Hải quan tạm thời cho mỗi doanh nghiệp khi cấp giấy phép thành lập trong khi chờ Bộ Tài chính cấp mã số thuế. Bộ tài chính sẽ ban hành ngay một mã số thuế tạm thời ngay khi nhận đơn xin đăng ký, trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể được cấp mã số hải quan. Thứ hai, quy định về thời hạn tối đa cho Bộ Tài chính và tổng cục Hải quan cấp các mã số thuế và mã số hải quan cho các doanh nghiệp tương tự như quy định
Ngoài ra cần điều chỉnh linh hoạt tỷ giá hối đoái sao cho thường xuyên duy trì một tỷ giá mà đồng nội tệ thấp hơn giá trị thực của nó, điều này sẽ khuyến khích xuất khẩu. Đó là kinh nghiệm của Nhật bản và Hàn quốc trong những năm gần đây và sự thật là trong những năm vừa qua Việt nam cũng đã cố gắng duy trì một tỷ giá VND cao hơn USD là 20%. Hơn nữa, việc điều chỉnh tỷ giá cũng cần tiến hành nhanh chóng để phù hợp với động thái,với tình hình của thị trường chứ không nên có những quyết định khi thị trường đã thay đổi.
Chính sách đầu tư : cần khuyến khích phát triển hợp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, khuyến khích dân cư có vốn, có khả năng đứng ra đầu tư sản xuất kinh doanh và có cơ chế khuyến khích đầu tư tới cả
74
những DNVVN vốn ít, các DNVVN ở nông thôn với khả năng tài chính chưa cao,. Muốn vậy, chính sách đầu tư của nhà nước cần phải thực sự bảo vệ được các nhà đầu tư dù họ là ai, lớn hay nhỏ, trong nước hay ngoài nước, ít vốn hay nhiều vốn. Đây chính là nguyên tắc cơ bản đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nói chung. Vì vậy, chúng ta phải dần từng bước hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô để khuyến khích hơn nữa đầu tư của các thành phần kinh tế, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các thành phần kinh tế phát triển, điều này cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh yếu hơn đó là DNVVN. Thêm vào đó, cần có chính sách khuyến khích các DNVVN tham gia góp vốn vào các dự án, các công ty liên doanh với nước ngoài.
Chính sách đất đai: cần tháo gỡ những khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển qua những giải pháp sau:
Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc trong việc cấp và cho các Doanh nghiệp thuê đất để phục vụ sản xuất kinh doanh; tăng thời gian sử dụng và miễn giảm thuế đối với phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng các khu vực hoang hoá đầm lầy,... phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đơn giản hoá thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp lý, khuyến khích các DNVVN sử dụng đất có hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. Cho phép các DNVVN ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất giống như đối với các doanh nghiệp Nhà nước, nghĩa là Nhà nước giao quyền sử đất, được thuê đất với giá như doanh nghiệp Nhà nước phải trả, nhanh chóng cho phép các doanh nghiệp có thể có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để có thể thế chấp vay vốn... Đồng thời, dỡ bỏ các trở ngại lớn về tài chính đang kìm hãm việc đăng ký đất và các công trình xây dựng - cụ thể là phí và thuế đang vượt quá 25% giá trị tài sản. Quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và công bằng hơn để giải quyết các vụ tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết triệt để vấn đề quyền sử dụng và quyền sở hữu.
75
Quy định một giá thuê đất ổn định hoặc dao động trong một phạm vi cho phép trong suốt thời gian thuê để tạo tâm lý yên tâm trong sản xuất kinh doanh trong các DNVVN và cũng để họ xác định rõ các khoản chi phí để hạch toán. Đồng thời cũng cần hạ giá cho thuê đất tại các KCN, KCX để lấp đầy các khu này vì theo con số thống kê hiện nay thì các doanh nghiệp chỉ mới chiếm 19% tổng diện tích.
Xây dựng các khu công nghiệp tập trung dành cho các DNVVN. Giải pháp này đã được thực hiện thành công ở Đài Loan cũng như ở một số nước khác. Nhà nước hỗ trợ các DNVVN bằng cách xây dựng các khu công nghiệp tập trung với điều kiện cơ sở hạ tâng ở mức trung bình, rồi bán lại hoặc cho các DNVVN thuê với giá rẻ theo phương thức trả góp, đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Điều này cho phép Nhà nước tiết kiệm được quỹ đất, sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng, tập trung xử lý rễ dàng vấn đề ô nhiễm môi trường do các DNVVN gây ra, tổ chức và quản lý các DNVVN một cách có hiệu quả,..ở một số các nước khác, ví dụ như Mỹ, giải pháp này được gọi là mô hình "vườn ươm" thường là để cung cấp cho những người mới khởi nghiệp mặt bằng để thực hiện sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các dịch vụ về tư vấn, quản lý, thông tin liên lạc... với giá rất rẻ, ngoài ra các doanh nghiệp trong “vườn ươm” còn được hưởng ưu đãi về thuế. Nói tóm lại, đây là “tổ” nuôi dưỡng những doanh nghiệp mới ra đời. Khi đã đủ lớn họ, buộc phải rời khỏi tổ để tự lập.
Chính sách hoàn thiện hệ thống thuế: Hiện tại chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất thông qua việc ưu đãi về thuế đã được quy định trong các luật như: Luật doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt,...Trong những luật thuế này đã có những quy định ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp hoạt động ở các ngành nghề độc hại, các doanh nghiệp được hoạt động ở các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo,....
Với nguyên tắc chính sách thuế phải đảm bảo tính thống nhất, đơn giản và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Do đó, Nhà nước nên có biện pháp loại trừ tình trạng bất bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp. Chẳng
76
hạn, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ phải nộp thuế lợi tức từ 10-25% (điều 54 Nghị định 12/CP ngày 18/2/97) trong khi đó các doanh nghiệp trong nước phải nộp thuế lợi tức từ 35-50%. Tuy nhiên đối với các DNVVN mới thành lập, Chính phủ cũng cần có chính sách ưu đãi nhất định, trước mắt có thể giống với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, chính sách thuế của Chính phủ cần đổi mới theo hướng học tập kinh nghiệm của các nước đang phát triển như: Ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp mới thành lập có thể từ 3 tới 5 năm tuỳ theo từng ngành nghề kinh doanh. Ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp ở các vùng nông thôn khuyến khích các DNVVN đầu tư mạnh vào các vùng này để giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong nông nghiệp. Cần có hình thức và mức độ ưu đãi thuế hợp lý cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô, giải quyết vấn đề dư thừa lao động hiện nay.
Chính sách thị trường: Chính phủ cần có chính sách thị trường rõ ràng, nhất quán, để đảm bảo các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau được hoạt động trên cùng một "sân chơi" với cùng một "luật chơi"như nhau, hạn chế độc quyền đặc quyền của các doanh nghiệp lớn.
Chính phủ cần thành lập các kênh thông tin nhằm giúp các DNVVN tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước các kênh thông tin này cần được quảng bá một cách rộng rãi để các DNVVN có thể sử dụng vào mục đích tìm kiếm các đối tác nước ngoài và các cơ hội kinh doanh mới. Bởi vì các DNVVN thường thiếu phương tiện, công nghệ nắm bắt thông tin nên rất khó tìm kiếm thị trường xuất khẩu, thường phải xuất khẩu qua các doanh nghiệp lớn.
Việc lập được trang Web http://www.smenet.com.vn được xem như một trong những thành quả hữu hiệu nhất trong chiến lược hỗ trợ các DNVVN. Cần triển khai thêm nhiều những bước đi như vậy nữa.
Chính phủ cần tiếp tục có các chính sách nhằm trợ giúp các DNVVN trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu để các DNVVN tiếp cận thị trường thế giới, tích luỹ ngoại tệ mở rộng hoạt động kinh doanh. Đồng thời,
77
cần loại bỏ hiện tượng phân biệt đối xử chỉ quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp lớn mà chưa quan tâm đến các DNVVN.
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới đang phát triển mạnh trong những năm gần đây, nhưng Chính phủ cũng cần có các chính sách bảo hộ hợp lý nhất định nhằm tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các DNVVN, ít nhất là trước khi hộ nhập hoàn toàn và tạo một thời gian nhất định để các DNVVN đủ mạnh để tham gia vào thị trường. Mặt khác cần xây dựng các chính sách giúp các DNVVN tham gia vào hoạt động mua sắm của Chính phủ nhằm tạo cho các DNVVN những cơ hội kinh doanh mới.
Chính sách tài chính tín dụng: Hỗ trợ qua chính sách tài chính tín dụng được xem như một trong những giải pháp chủ lực giải quyết trúng đích vấn để nan giải nhất của các DNVVN hiện nay là vấn đề khó khăn về vốn, vốn để đổi mới công nghệ, để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.. Các biện pháp ưu đãi về vốn nên được thực hiện theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh hoặc các vùng cần được khuyến khích đầu tư. Theo như kinh nghiệm của các nền kinh tế phát triển, Nhà nước chỉ nên hỗ trợ các DNVVN mới thành lập, bởi các DNVVN này ngoài nhu cầu về vốn, họ rất cần tư vấn về định hướng cụ thể để sớm hội nhập vào môi trường chung. Nếu các DNVVN đã ra đời và hoạt động từ 5-10 năm mà vẫn rơi vào tình trạng cần phải hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường... thì sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế. Lúc đó thì phải có biện pháp thích hợp như cải tổ lại loại hình doanh nghiệp, thay đổi cơ cấu cán bộ, thậm chí tiến hành giải thể doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả đó,
Theo cách đặt vấn đề đó, các chính sách tài chính tín dụng đối với các
DNVVN cần tập trung vào một số nội dung sau: -Bảo đảm cho các DNVVN trong khu vực ngoài quốc doanh thực sự bình đẳng như các doanh nghiệp Nhà nước khi vay vốn ngân hàng để tạo một "sân chơi bình đẳng"để tất cả mọi người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau. -Mở rộng phạm vi tài sản thế chấp. -Mở rộng phạm vi của hoạt động tín dụng thuê mua( cho thuê tài chính).
78
-Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư để cho các DNVVN vay vỗn trung và dài hạn. -Triển khai mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNVVN. -Xây dựng các chương trình tín dụng không hoàn lại. 2.Nhóm giải pháp hỗ trợ kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường a.Những giải pháp cơ bản để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn qua các chính sách tài chính tín dụng thích hợp. 1.Bảo đảm cho các DNVVN trong khu vực ngoài quốc doanh thực sự bình đẳng như các doanh nghiệp Nhà nước khi vay vốn ngân hàng
Nhằm tạo một "sân chơi bình đẳng"để tất cả mọi người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau cần tạo sự bình đẳng giữa các DNNN và DNVVN ngoài quốc doanh. Sự bất bình đẳng hiện nay giữa các doanh nghiệp chủ yếu thể hiện ở các điều kiện phân biệt theo thành phần kinh tế. Chẳng hạn các DNNN có nhận được sự bảo lãnh của Nhà nước đối với các khoản vay, trong khi các DNVVN khu vực tư nhân lại không thể có được sự bảo lãnh đó. Để vay tín dụng, các DNVVN phải có tài sản thế chấp cho các ngân hàng, còn các DNNN được miễn thực hiện yêu cầu này. Bên cạnh đó, là các thể lệ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng hay các tổ chức tài chính tín dụng khác quy định phức tạp và chi phí giao dịch cao và quá tốn kém đối với DNVVN.
Cần phải tạo ra một "sân chơi bình đẳng" cho các doanh nghiệp, phải đảm bảo để các khoản tín dụng được thực hiện trên cơ sở phân tích tài chính chứ không phải bởi các quyết định chính trị trong đó bao gồm cả vốn vay cho các DNVVN. Đây cũng là cách duy nhất để đảm bảo sự hợp lý và khả năng thanh toán của hệ thống tài chính vì lợi ích của toàn nền kinh tế trong thời gian dài hạn mà nhiều nước trong khu vực gần đây đã rút ra được bài học cay đắng. Do đó, vấn đề quan trọng đối với các ngân hàng phải là sự tin cậy về khả năng trả nợ của người đi vay chứ không phải là quyền sở hữu hoặc “địa vị pháp lý" của người đi vay. Điều này vừa cho phép liệu một doanh nghiệp có được vay vốn hay không vừa cho phép xác định liệu một doanh nghiệp có cần phải thế chấp tài sản hay không.
2. Cải tổ hoạt động của hệ thống ngân hàng.
79
Hệ thống ngân hàng cần chuyển kinh doanh từ thế bị động ngồi chờ khách hàng sang thế chủ động, tích cực tìm kiếm các khả năng cho vay an toàn như liên kết doanh nghiệp, tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả nhằm tích cực luân chuyển vốn. Đơn giản hoá thủ tục vay cho sát với doanh nghiệp, điều chỉnh số lượng và thời gian tiền vay cho phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của DNVVN. Ngân hàng cũng cần tích cực tham gia trong việc hỗ trợ, tư vấn, lập dự án khả thi để cho vay. Ngoài hệ thống ngân hàng, cần phát huy vai trò của các tổ chức tài chính khác, đặc biệt là tận dụng khả năng của qũy tín dụng nhân dân, các hiệp hội phụ nữ, nông dân trong quá trình tiếp cận với các doanh nghiệp, đặc biệt DNVVN ở nông thôn. Việc đưa tín dụng chính thức tới tận tay các đối tượng có nhu cầu vay vốn sẽ tạo điều kiện giảm bớt tình trạng cho "vay lại" với lãi suất cao hơn và đồng thời cũng kiểm soát tín dụng an toàn hơn. 3. Cải thiện cơ chế cầm cố, thế chấp để vay vốn.
Một trong những trở ngại lớn nhất trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN là những phức tạp liên quan đến yêu cầu cầm cố, thế chấp trong việc bảo đảm những khoản vay. Một cơ chế thuận lợi trong lĩnh vực này nhằm tạo ra sự bảo đảm tốt hơn giữa những người đi vay và khuyến khích các DNVVN vay nhiều hơn, đồng thời giảm được các chi phí giao dịch và biến các khoản tín dụng ngân hàng là có thể thực hiện được đối với các DNVVN. Muốn vậy cần phải :
-Thiết lập hệ thống đăng ký tập trung được tin học hoá ở cấp độ quốc gia trong việc cầm cố, thế chấp và các phương thức giao dịch đảm bảo khác, cho phép mọi thành viên công chúng co thể truy cập thông tin dễ dàng. Điều này được cụ thể hoá bằng việc thiết lập các cơ quan đăng ký công cộng đối với các giao dịch đảm bảo để khuyến khích hoạt động cho vay, cả người đi vay và người cho vay đều có cơ hội tìm hiểu thông tin kỹ và thiết lập các quyền ưu tiên thông qua tài sản thế chấp.
- Cần tiến hành mở rộng phạm vi tài sản thế chấp. Bằng cách quy định rõ việc cầm cố và tiến tới bất kể tài sản có của doanh nghiệp cũng có thể mang thế chấp, kể cả tài khoản Có. Ngay cả tài sản mà doanh nghiệp chắc
80
chắn có trong tương lai cũng cần được xem xét để được phép mang thế chấp khi vay vốn. Bên cạnh đó cũng cần tạo ra tính mềm dẻo và an toàn cho người cho vay và người đi vay bằng việc cho phép sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố để bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai, thậm chí có thể cho phép quay vòng các khoản tín dụng để đáp ứng yêu cầu về vốn lưu động.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của ngân hàng và người đi vay về việc bảo đảm quyền lợi trong việc phát mãi các tài sản thế chấp của ngân hàng, trách trường hợp rắc rối phát sinh khi người đi vay không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
Ngày 10/4/2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Vietcombank) đã công bố khoản vay 500 tỷ VND đối với các DNVVN nhằm giải quyết những khúc mắc khi các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, tìm ra biện pháp hoà giải tâm lí ngần ngại cho vay của ngân hàng đối với các DNVVN, tồn tại mà doanh nghiệp cần khắc phục khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Những động thái như vậy cần được tiến hành nhiều hơn nhằm hạn chế tối đa những rào cản cho DNVVN tiếp cận các khoản tín dụng ngân hàng- một trong những vấn đề quan trọng nhất trong chiến lược phát triển DNVVN tại Việt nam hiện nay.
3.Mở rộng phạm vi của hoạt động tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính). Theo quy định tại Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 về quy chế tạm thời cho tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt nam thì: “Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp động trước thời hạn. Khi kết thúc hợp đồng thuê bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp động thuê ”.
Cho thuê tài chính đã được áp dụng rất rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Hình thức tín dụng này là loại tín dụng trung và
81
dài hạn, người có nhu cầu không nhận tiền để mua sắm thiết bị, tài sản cho mình mà nhận trực tiếp tài sản phù hợp với nhu cầu sử dụng. Người thuê mua thanh toán bằng tiền theo phương thức trả dần và sau một thời gian sử dụng nhất định có thể mua lại chính tài sản đó.
Cho thuê tài chính có thể xem là một hướng đi có thể nói là thực sự hữu hiệu cho các DNVVN Việt nam trong tình trạng yếu kém về năng lực tài chính, năng lực về công nghệ và đào tạo như hiện nay.
Thứ nhất, các DNVVN có cơ hội gia tăng được năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư vì các DNVVN vẫn có thể có máy móc công nghệ hiện đại mà chỉ cần một khoản vốn ban đầu không lớn vì khoản tiền thuê được trả trong một thời gian nhất định, thông qua hợp đồng cho thuê tài chính, các DNVVN chỉ cần cam kết trả những khoản phí thuê từng phần cho công ty cho thuê trong một khoảng thời gian nhất định, DNVVN không bắt buộc phải có nguồn vốn lớn, không phải thế chấp tài sản, chưa cần phải có một tiếng tăm nhất định trên thị trường. Cho thuê tài chính vì vậy, ngoài là một hình thức đa dạng nguồn vốn cho DNVVN, còn là hình thức dễ tiếp cận hơn nhiều so với các khoản tín dụng ngân hàng. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay của các DNVVN Việt nam.
Hơn nữa cho thuê tài chính không ảnh hưởng bất lợi đến các chỉ số kinh doanh của doanh nghiệp vì hầu hết các quốc gia quy định phần trả tiền thuê cho người cho thuê được đưa vào phần giải trình của Bảng tổng kết tài sản, tài sản thuê được ngoại bảng và được coi như một khoản nợ phát sinh trong năm tài chính và do vậy không ảnh hưởng đến các hệ số phân tích tài chính của doanh nghiệp.Thứ hai, cho thuê tài chính giúp cho DNVVN không bị đọng vốn trong tài sản cố định thông qua nghiệp vụ bán và tái thuê, các DNVVN có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn còn tiếp tục được sử dụng. Do đó, cho thuê tài chính tạo điều kiện để các DNVVN linh hoạt và tăng hiệu quả trong sử dụng vốn.
82
Ngoài ra cho thuê tài chính còn giúp các DNVVN hiện đại hoá sản xuất, theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới, điều này sẽ được nói rõ trong phần nói về tác dụng của cho thuê tài chính trong phát triển công nghệ của DNVVN trong phần kế tiếp.
4.Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư để cho các DNVVN vay vỗn trung và dài hạn.
Nhà nước cần đứng ra thành lập quỹ này cùng với các tổ chức tài chính, các cá nhân khác. Trong quỹ này có thể phân định rõ các quỹ nhỏ như quỹ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, quỹ đầu tư đổi mới công nghệ, quỹ đào tạo... Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả, cần có một cơ chế điều hành quỹ thật rõ ràng, minh bạch, xác định đúng đối tượng hỗ trợ với những điều kiện cụ thể thống nhất kèm theo. Quỹ này có thể hoạt động theo nguyên tắc của quỹ hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp được quy định tại Điều 7 Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Hiện nay, đã có một số quỹ đi vào hoạt động trong khuôn khổ các dự án hỗ trợ các DNVVN. Chẳng hạn, "Quỹ phát triển các DNVVN" do EU và Bộ lao động thương binh & xã hội phối hợp tiến hành trong khuôn khổ dự án hợp tác kinh tế nhằm trợ giúp các DNVVN của Việt Nam và EU đã chính thức đi vào hoạt động ngày 13/7/1998. Với tổng nguồn vốn 25 triệu USD đã được chuyển cho Ngân hàng thương mại á Châu (ACB) ở thành phố Hồ Chí Minh để tiến hành cho các DNVVN trên cả nước vay với lãi suất ưu đãi và thời gian vay từ 3-5 năm (tất cả các doanh nghiệp có vốn đăng kí từ 50.000USD-300.000USD và sử dụng từ 10-500 lao động đều nằm trong đối tượng được vay vốn từ quỹ này). Đây là một mô hình tốt mà chúng ta cần xúc tiến rộng rãi để trợ giúp về vốn cho các DNVVN. 4.Triển khai mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNVVN.
Tại Việt nam, Nguồn vốn quỹ quốc gia có hiệu qủa thấp do phải phân bổ cho nhiều chương trình khác nhau( Quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ trợ cấp việc làm, quỹ phòng chống tệ nạn xã hội…). Nguồn vốn quốc tế hỗ trợ cho các DNVVN cũng còn rất hạn chế. Việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNVVN thực sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với các
83
nguồn vốn từ ngân hàng khi mà hiện nay theo đánh giá của hầu hết các ngân hàng thì mức độ tin cậy tín dụng (creditworthiness) của các DNVVN tại Việt nam. Điều này đã được cụ thể hoá bằng Điều 7, Nghị định 90/2001/CP- ND ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNVVN: “Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN để bảo lãnh cho các DNVVN khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng. Bộ Tài chính chủ trì, phố hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đề án và Quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”.
Hình thức Qũy bảo lãnh tín dụng này trước đó cũng được áp dụng thí điểm thành công tại Bắc Giang do Viện Friedrich Ebert (Đức) khởi xướng và được hình thành trên cơ sở góp vốn của Ngân hàng Đức và Ngân hàng công thương Việt nam nhằm cải thiện điều kiện tín dụng cho những việt kiều hồi hương từ Đức về và các thành phần khác muốn bắt đầu khởi sự kinh doanh với nguồn vốn do phía Đức tài trợ là 100.000 USD.
Qũy bảo lãnh tín dụng trước mắt phải do Nhà nước quản lý. Thiết chế bảo lãnh tín dụng là một trong những công cụ tài chính phối hợp thực hiện việc tiếp cận tín dụng của những doanh nhân có uy tín hoặc những người khởi sự doanh nghiệp với những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp. Qũy bảo lãnh tín dụng cần được thiết lập như một ngân hàng bảo lãnh độc lập dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Nội dung cơ bản của việc hình thành Qũy bảo lãnh tín dụng bao gồm mục tiêu, tính chất hoạt động, nguồn tài chính lập Qũy, phương thức hoạt động. Qũy bảo lãnh tín dụng là một tổ chức kinh tế độc lập hoạt động như một trung gian tài chính vì mục tiêu hỗ trợ phát triển DNVVN chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Về tính chất, Qũy bảo lãnh tín dụng hoạt động như một công ty bảo hiểm vì đây là nguồn qũy chia sẻ rủi ro cho ngân hàng khi DNVVN mất khả năng trả nợ. Nói chung, Tỷ lệ tối đa mà Quỹ bảo lãnh tín dụng phải bù đắp khi tồn thất xảy ra khi các DNVVN mất khả năng trả nợ là 70%, các ngân hàng phải chịu trách nhiệm tối thiểu là 30% tương đương với trách nhiệm theo tỷ lệ góp vốn vào Quỹ bảo lãnh được quy định tại Văn bản số 1070/NHNN-TD
84
của NHNN về “triển khai một số nội dung liên quan đến việc thành lập Qũy bảo lãnh tín dụng đối với DNVVN” là ngân hàng góp vốn tối đa 6%, tổ chức tín dụng góp vốn tối đa 10% trong tổng vốn điều lệ của Quỹ.
Về phương thức hoạt động, bao gồm những quy định về đối tượng bảo lãnh tín dụng, phương pháp lập vốn qũy, phí bảo lãnh, chia sẻ rủi ro, thủ tục giải quyết bồi thường, chú ý đến quá trình xét duyệt bảo lãnh và cho vay, phân bổ tổn thất có thể xảy ra, uy tín của người bảo lãnh, chi phí tiến hành bảo lãnh.
Đối với nước ta, đây là những bước khởi sự do đó điều quan trọng là nhà nước cần tạo điều kiện khung cho hoạt động của Quỹ: Luật ngân hàng cần có những điều khoản cho phép hoạt động của Qũy bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ vốn cho các DNVVN, các thủ tục của Qũy cần phải được hợp pháp hóa.
Về nguồn vốn hình thành, Qũy có thể bao gồm đóng góp của ngân sách nhà nước, các ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, các cá nhân đóng góp thông qua nguyên tắc tự nguyện. Nguồn vốn này gửi ở các ngân hàng chứ không nằm ở Qũy, thông thường số tiền của Qũy được gửi ở nơi có lãi suất cao nhất đó là nguồn thu nhập của Qũy. Ngoài ra còn có nguồn thu nhập từ lệ phí bảo lãnh và lệ phí thẩm định dự án từ khách hàng. Nguồn chi của Qũy là chi phí cho bộ máy quản lý, thuê nhà, mua sắm tài sản, tiền lương, chi phí rủi ro mà Qũy phải trả cho ngân hàng khi bị thất thoát theo tỷ lệ chia sẻ rủi ro giữa Qũy và ngân hàng.
Về hình thức tổ chức, Qũy hoạt động như một công ty bao gồm hội dồng quản trị, giám đốc, ban điều hành gồm đại diện của Chính phủ, NHNN, các DNVVN…, đặc biệt là ủy ban bảo lãnh quyết sách những vấn đề quan trọng nhất của Qũy bảo lãnh tín dụng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, Qũy bảo lãnh tín dụng nên hoạt động như một doanh nghiệp công ích thuộc sở hữu nhà nước. Về lâu dài, có thể là hình thức bán công. Qũy bảo lãnh tín dụng được tổ chức từ trung ương, có chính sách ở các vùng lãnh thổ. Thành công của Qũy bảo lãnh là sự nỗ lực từ ba phía: doanh nghiệp,
85
ngân hàng và Qũy trong mối quan hệ nương tựa vào nhau cùng phát triển. Sự lớn mạnh của Qũy có lợi cho cả ngân hàng và người đi vay.
5.Xây dựng các chương trình tín dụng không hoàn lại.
Xây dựng các chương trình tín dụng không hoàn lại để giúp các DNVVN hoạt động trong những vùng và lĩnh vực đặc biệt khuyến khích như: vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại, .... Những chương trình này cần có tiêu chuẩn rõ ràng khi lựa chọn đối tượng được cấp vốn và còn có những thủ tục hành chính chặt chẽ khoa học để tránh tham nhũng, đảm bảo sự minh bạch và có hiệu quả. Điều đáng lưu tâm khi thực hiện chính sách tín dụng, Chính phủ phải đưa ra được một chương trình tín dụng có mục tiêu chiến lược rõ ràng tránh tình trạng dàn trải, kém hiệu quả làm lãng phí nguồn vốn của Nhà nước.
6. Cần tận dụng hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ DNVVN về vốn, tăng cường triển khai việc thực hiện cũng như nâng cao hiệu quả của các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế.
Hiện nay có khoảng 20 trung tâm hỗ trợ DNVVN, trong đó bao gồm cả những tổ chức trong nước và nước ngoài như: trung tâm hỗ trợ DNVVN của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) của Liên minh hợp tác xã Việt nam và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), dự án hỗ trợ DNVVN của Phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), chương trình phát triển dự án Mêkông ( MPDF),... Các trung tâm đều nhằm giải quyết những khó khăn mà các DNVVN đang phải đối mặt như: vốn, thông tin thị trường, marketing, thông tin xuất nhập khẩu và đào tạo nhân lực.
Tham gia hỗ trợ trên lĩnh vực này có một số Qũy trong đó có Qũy phát triển DNVVN Việt nam (SMEDF) giữa chính phủ Việt nam và ủy ban Châu Âu. Tính đến 31/11/1999 SMEDF đã giải ngân 192,3 tỷ đồng trong tổng số khoảng 275 tỷ đồng (tương đương 25 triệu USD) cho 190 dự án trên 41 tỉnh, thành phố.
Đối tượng cho vay của SMEDF là các DNVVN có vốn đăng ký trong khoảng từ 150 triệu đến 5 tỷ đồng Việt nam và sử dụng từ 10 đến 500 lao
86
động. Các dự án đã được vay vốn chủ yếu nằm ở các tỉnh phía Nam. Sự phân bố theo vị trí địa lý của các dự án thể hiện được đặc thù phân bố theo lãnh thổ của các DNVVN.
Hoạt động hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn hoặc đánh giá tài chính thực sự đã tạo cho doanh nghiệp những cơ hội mới để mở rộng sản xuất hoặc đổi mới các trang thiết bị kỹ thuật. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp nhận được hỗ trợ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các DNVVN trên cả nước và phần lớn chỉ tập trung ở các doanh nghiệp cỡ vừa còn một số các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thì hầu như chưa được quan tâm tới.
Thêm vào đó, Cần khai thác triệt để các nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó đáng kể nhất phải nói đến các chương trình, các dự án viện trợ phát triển. Các quốc gia phát triển, các tổ chức lớn như Nhật, Đức, IMF, WB, ADB thường có các chương trình, các dự án hỗ trợ như vậy. Đó chính là một trong những câu trả lời cho nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn của các DNVVN hiện nay. Điển hình là vào ngày 18/9/2002. Bốn ngân hàng của Việt nam là Ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV), Ngân hàng Công thương, Ngân hàng phát triển á châu (ADB), và Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB) đã được chọn để triển khai dự án hỗ trợ các DNVVN do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật tài trợ với tổng trị giá 4 tỷ yên, dự án trước đó đã được 2 chính phủ ký vào 3/1999. Dự án hỗ trợ các DNVVN có vốn 10 tỷ VND trở xuống, chủ yếu là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vấn đề chú ý ở đây là mô hình kết hợp cơ cấu nguồn vốn tài trợ, JBIC cho vay tối đa 65% tổng giá trị đầu tư, các NH cho vay tối thiểu 15% và vốn đối ứng của các doanh nghiệp phải tối thiểu là 15%. Trường hợp cho vay trung và dài hạn thì thời gian cho vay ở đây tối đa là 10 năm, ân hạn 2 năm, giá trị cho vay tối đa la 20 tỷ VND. Lãi suất NH thực hiện cho vay đối với các DNVVN được áp dụng mức lãi suất ưu đãi, thấp hơn mức lãi suất cho vay đối với khách hàng loại A tại từng NH.
b. Tạo ra những giải pháp hỗ trợ thông tin cho DNVVN.
Theo hai nghiên cứu lớn nhất gần đây về các DNVVN là Nghiên cứu “Các dịch vụ thông tin trên nền tảng Internet cho DNVVN” của Tập đoàn
87
Taylor Nelson Sofres thực hiện cho: “Dự án hỗ trợ các DNVVN” của phía Việt nam và Đức( GTZ-VCA) vào tháng 9/2001 và Nghiên cứu“ Dịch vụ phát triển kinh doanh cho DNVVN tại Việt nam” của Tập đoàn Invest Consult thực hiện cho dự án nói trên và chương trình hỗ trợ các DNVVN của Việt nam vào Thụy Sỹ- Swiss Contact vào 9/2001 đến 5/2002 thì hiện nay các DNVVN đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh....Một con số đưa ra minh hoạ là trong tổng số doanh nghiệp sử dụng Internet tại Việt nam thì các doanh nghiệp lớn( bao gồm cả trong nước và liên doanh) chiếm tới 43% và các DNVVN chỉ chiếm có 6% trong khi xét về khối lượng thì các DNVVN lại chiếm tới 93% tổng số doanh nghiệp. Điều này lý giải cho việc yếu kém trong tiếp cận thông tin của các DNVVN, từ đó mà dẫn tới rất nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ. Do đó, cần thiết phải hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp qua một số giải pháp như: Thứ nhất, phổ biến những thông tin về phát luật, chính sách... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, tổ chức các câu lạc bộ để các DNVVN có thể trao đổi, học tập kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của nhau. Thứ ba, khuyến khích các DNVVN đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các phương tiện quản lý thông tin đại chúng như máy vi tính, mạng thông tin... để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước.
Nhưng vấn đề quan trọng nhất ở đây là thành lập được một trung tâm thông tin, một ngân hàng dữ liệu về các DNVVN đã đăng ký được kiểm soát bằng máy tính điện tử về thị trường, công nghệ, thể chế... sau đó hình thành một cơ chế cung cấp hoặc bán các thông tin này một cách dễ dàng và nhanh chóng cho các doanh nghiệp và công chúng với giá hợp lý. Thực tế, ở hầu hết các nước, mục đích quan trọng của việc đăng ký các công ty và doanh nghiệp là nhằm thu thập các thông tin cơ bản về mỗi doanh nghiệp qua đó bất cứ công chúng nào cũng có thể thu thập được bằng cách tìm tại cơ quan đăng ký kinh doanh dưới dạng văn bản hoặc dữ liệu máy tính. Điều này tạo điều kiện cho phép bất cứ thành viên nào của công chúng, các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác có được các thông tin cơ bản về vất ký
88
doanh nghiệp nào trên thị trường về tên, địa chỉ, hoạt động kinh doanh, hình thức pháp lý, tên thương mại, các nhãn hiệu thương mại đã đăng ký, tên của các thành viên, đại lý có thẩm quyền ký thay doanh nghiệp, vốn được phép phát hành ...
Việc cung cấp công khai các thông tin đó làm tăng tính minh bạch của doanh nghiệp và ngăn ngừa tình trạng lừa đảo. Đây cũng là một biện pháp tốt ngăn chặn việc xuất trình các tài liệu giả dối vì người có liên quan như cổ đông, khác hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, cơ quan quản lí có thể nhận ra bằng cách xem xét hồ sơ kinh doanh đồng thời giảm các cơ hội phát sinh sự nhầm lẫn vô tình cũng như sự lừa dối cố ý trên thị trường. Hiện nay, tất cả các bản sao đăng ký kinh doanh đã được tập trung tại MPI sau đó sẽ được tập trung dữ liệu vào máy tính và sau đó sẽ được cung cấp ra tất cả các doanh nghiệp và công chúng với chi phí phải chăng.
Đến nay, những bước tiến đáng kể nhất trong việc hỗ trợ thông tin cho DNVVN có thể kể đến nỗ lực của VCCI và Đức trong việc tạo ra trang Web http://www.smenet.com.vn để tạo đầu mối cung cấp thông tin hỗ trợ DNVVN, tại trang Web này các DNVVN có thể tiếp cận đến gần như tất cả các thông tin cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình, từ lúc khởi sự đến phát triển, với hàng loạt các thông tin về luật pháp, thị trường cụ thể từng loại sản phẩm, thông tin đối tác, số liệu kinh tế, bài học, lời khuyên và hàng loạt các liên kết hữu ích khác. Kế đó là chương trình “ Internet doanh nghiệp” của FPT nhằm tạo cơ hội cho DNVVN từng bước tiếp cận thương mại điện tử, đây cũng thực sự là một hướng đi hay khi các DNVVN chỉ cần 500.000VND là có thể giới thiệu doanh nghiệp mình tại trang web http://www.hcmfpt.vn/tendoanhnghiep với 20MB dung lượng và không chế dung lượng e-mail. Điều này giúp cho DNVVN có thể tiết kiệm chi phí hơn cho các chương trình quảng bá vì FPT sẽ quản bá hộ DNVVN trên website của mình, đồng thời đưa thông tin về DNVVN vào lưu trữ tại Cục xúc tiến doanh nghiệp thuộc BTM, dần dần tiếp cận với thương mại điện tử. Và cuối cùng không thể không nhắc tới “Hệ thống thương mại điện tử B2VN.COM” do FPT tiến hành từ 3/2001 với ý tưởng giúp đỡ các doanh nghiệp tự xây
89
dựng một website cho mình. Hiện tại chỉ có khoảng 4% các doanh nghiệp có website của riêng mình và chủ yếu là các doanh nghiệp lớn. Một phần là do hiểu biết hạn chế về Internet và Thương mại điện tử mà phần lớn là do “tính ỳ” của các doanh nghiệp trong việc tạo trang web để quảng bá doanh nghiệp mình, hầu hết các doanh nghiệp có tâm lý luôn muốn cho doanh nghiệp mình phát triển lên đã, sau đó thì mới tiến hành xây dựng một website trong khi việc xây dựng một website, với sự hướng dẫn của các chuyên viên FPT, chỉ mất có một ngày và chi phí duy trì hoàn toàn không đáng kể là 50 USD/ 1 năm theo như chi phí của B2VN.com và các doanh nghiệp có thể liên tục cập nhật những thông tin lên website của mình.Thông tin thêm c.Hoàn thiện các chính sách tạo lập, hỗ trợ và mở rộng thị trường nhằm xây dựng chiến lược đầu ra trong nước hợp lý, đẩy nhanh khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các DNVVN.
Trong số các khó khăn được hỏi đối với các DNVVN thì khó khăn lớn nhất là tìm thị trường cho sản phẩm của các doanh nghiệp này. Để tháo gỡ khó khăn về thị trường cho các DNVVN, cần thực hiện các giải pháp:
- Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp nói chung, đối với các DNVVN nói riêng. Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ đó các DNVVN có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hóa, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng vừa tạo cho sự hình thành, vừa tạo điều kiện thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN một cách thiết thực, hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức, quy mô khác nhau. Cụ thể như sau:
+ Giới thiệu sản phẩm hàng hóa của DNVVN thông qua triển lãm trong và ngoài nước, nhất là các thị trường còn tiềm ẩn, chưa có cơ hội làm ăn.
90
+ Hỗ trợ, tư vấn giúp các hội, hiệp hội DNVVN thuộc các ngành nghề tiếp cận thị trường nước ngoài, tiếp cận các doanh nhân các nước khác nhau. Nhờ đó mở rộng thị trường thu nhận kiến thức kinh doanh tiên tiến.
+ Hỗ trợ qua các hội thảo, các thông tin chuyên đề liên quan đến các hoạt động thương mại của DNVVN từ đầu tư, chiến lược phát triển đến các kỹ năng quản lý thương mại trong và ngoài nước.
+ Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, xuất nhập khẩu cho các tổ chức của DNVVN hoặc bản thân các doanh nghiệp.
Điều kiện thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN là một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan hữu quan khác nhau. Do đó hình thành và thực thi chính sách thương mại nói chung, chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN nói riêng không phải của riêng một bộ ngành nào được mà điều đó đòi hỏi sự hợp lực của nhiều phía.
- Thúc đẩy phát triển thầu phụ công nghiệp, việc phát triển quan hệ gia công hợp tác với các doanh nghiệp lớn trong đó DNVVN làm nhiệm vụ gia công, "làm vệ tinh" cho các doanh nghiệp lớn, có thể mang thương hiệu của doanh nghiệp lớn là thầu phụ. Thầu phụ công nghiệp là chìa khoá của các DNVVN công nghiệp vì nó khắc phục được hạn chế lớn nhất của các DNVVN là thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến phát triển thầu phụ công nghiệp đang là nhu cầu cấp bách không những đối với các DNVVN mà còn đối với cả các doanh nghiệp lớn. Thầu phụ công nghiệp là một hình thức hợp tác rất phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. ở nhiều nền kinh tế phát triển, "Hệ thống Vệ tinh - Trung tâm" được thiết lập với nhiều mô hình khác nhau để phát triển thầu phụ công nghiệp, đăc biệt trong ngành may mặc, điện tử, giao thông, công nghiệp cơ khí,... Với cách làm này sẽ tạo được thị trường ổn định, rộng lớn cho DNVVN và thông qua đó doanh nghiệp lớn cũng phát huy được tác dụng, hỗ trợ, giúp đỡ cho các DNVVN
Chiến lược phát triển công nghiệp của chúng ta đang hướng mạnh vào sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Do đó phát triển thầu phụ công nghiệp là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện thành công chiến lược này.
91
Để hỗ trợ việc phát triển thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN , Nhà nước cần tập chung giải quyết các công việc sau:
-Hỗ trợ thành lập "Phòng xúc tiến thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN", xây dựng chương trình phát triển thầu phụ gắn với chương trình nội địa hoá sản phẩm, có thể giao cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành công việc này.
- Xây dựng qui chế cho phép thuê hoặc mua máy móc thiết bị cũ một
cách thuận lợi và rộng rãi phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN.
- Thành lập "Quỹ hỗ trợ phát triển thầu phụ công nghiệp" nhằm giúp
đỡ các DNVVN có khả năng tài chính để thắng thầu.
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn có chính sách phát triển thầu
phụ công nghiêp.
Ngoài ra, Chính phủ cần có các biện pháp trợ giúp các DNVVN khác như hỗ trợ cải tiến công nghệ sản xuất; hỗ trợ máy móc thiết để kiểm soát ô nhiễm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN và giúp các doanh nghiệp này xích lại gần nhau để hợp tác cùng phát triển.. 3. Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ. 1. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển nhân lực: a.Hoàn thiện một hệ thống dạy nghề hợp lý phù hợp với điều kiện nước ta.
Hệ thống dạy nghề cần được tổ chức phân cấp, theo cơ cấu ngành gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội theo vùng lãnh thổ và phát huy tính xã hội hóa trong công tác đào tạo dạy nghề.
Cơ quan trung ương quản lý chung về công tác dạy nghề chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các địa phương nghiên cứu hoạch định qui hoạch, kế hoạch trình chính phủ về công tác dạy nghề cho các giai đoạn và những bước tiếp theo. Nội dung không chỉ hoạch định về quy mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường nghề: Trung ương (do Tổng cục dạy nghề trực tiếp quản lý) gồm các
92
trường nào, cấp đào tạo nào? còn các ngành sản xuất, các địa phương nắm những trường nào?. Không nhất thiết mỗi tỉnh đều có các trường dạy nghề giống nhau, mà có thể bố trí theo vùng, trên cơ sở liên doanh, liên kết, hợp tác. Chỉ khi có quy hoạch, kế hoạch dạy nghề đúng đắn, hợp lý thì các biện pháp đầu tư nguồn lực, tăng cường quản lý mới khả thi và hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần có chính sách tăng cường đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài vốn ngân sách dành cho công tác dạy nghề, cần phải huy động vốn từ các nguồn vốn khác như:
- Huy động đóng góp của người học, của người sử dụng lao động. - Lồng ghép công tác dạy nghề với các chương trình kinh tế- xã hội
khác như chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.
- Sử dụng nguồn vốn vay, hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế cho
công tác dạy nghề.
Hơn nữa cần đa dạng hoá các khoá học ở các trường đại học. Cần xây dựng các khoa quản trị doanh nghiệp của các trường đại học kinh tế chính quy của nhà nước, có chương trình chuẩn bị và đào tạo theo nhiều phương thức học không thường xuyên, buổi tối... cho nhiều loại trình độ, đào tạo dài hạn đi đôi với bồi dưỡng ngắn hạn theo yêu cầu của từng loại đối tượng. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ DNVVN phải đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật quản lý sản xuất -kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt nam. Hệ thống các khoa này tại các trường của Nhà nước phải thật sự làm nòng cốt về chương trình trong việc đào tạo, cung cấp cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp trong nước.
b.Khuyến khích phát triển hoạt động hỗ trợ nhân lực các trung tâm hỗ trợ DNVVN.
Nhu cầu hỗ trợ về nhân lực của các DNVVN rất lớn mà khả năng cũng như tiềm lực của nhà nước thì có hạn. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của các doanh nghiệp này, cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn xã hội. Do đó, cần khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ các DNVVN về nhân lực.
93
Hiện nay công tác hỗ trợ DNVVN về nhân lực cũng nhận được sự quan tâm đáng kể. Các cuộc hội thảo bàn về vai trò cũng như các biện pháp hỗ trợ nhân lực DNVVN được Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI) cùng các đơn vị tài trợ liên tục tổ chức. Ngày càng có nhiều tổ chức hỗ trợ và kết quả cho thấy số lượng DNVVN nhận được sự hỗ trợ từ phía các trung tâm lớn hơn rất nhiều so với những năm trước.
Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các khóa đào tạo là hoạt động mà đa số các trung tâm hỗ trợ tham gia. Có lẽ đây là hình thức hỗ trợ mà các trung tâm dễ tiếp cận thực hiện nhất đồng thời cũng phù hợp với nhu cầu về tăng cường kiến thức kinh doanh và khả năng quản lý của các doanh nghiệp. Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) ( Số 7 Nguyễn Thái Học) là một trong những trung tâm có nhiều hình thức hoạt động thiết thực. Trung tâm hình thành trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ). Trung tâm đã tổ chức được hàng chục lớp học, trong đó bao gồm cả một số lớp học đào tạo giảng viên và các hội thảo sau mỗi khóa học. Hiện nay, BPSC đã mở rộng mục tiêu đào tạo sang các hộ gia đình. Đây là một hướng đi mới cần được nhân rộng vì theo như ước tính thì nước ta có khoảng 1.880.000 hộ kinh doanh gia đình, nếu như loại doanh nghiệp này phát triển tốt sẽ thu hút được một khối lượng lớn lao động, đặc biệt là lao động nhàn rỗi ở nông thôn.
Ngoài ra không thể không kể đến hoạt động hỗ trợ đào tạo của Trung tâm xúc tiến DNVVN tại VCCI là SME PC/VCCI ( Phòng 504/ VCCI Số 9 Đào Duy Anh/ ĐT: 04.5.742.163). 2 Trung tâm này luôn có những chương trình, dự án đào tạo nhân lực cho các DNVVN. SME PC còn hợp tác với ILO nhằm thiết kế những khoá học cho các DNVVN, trong đó nòng cốt là hai dạng khoá học về khởi sự doanh nghiệp và khoá học về phát triển doanh nghiệp. Tiếp đó là những kết quả rất đáng khích lệ của Trung tâm hỗ trợ phát triển DNVVN( SMEDEC) trong Tổng cục tiêu chuẩn-đo lường chất lượng (Số 8 Hoàng Quốc Việt/ Tầng 3 nhà H, ĐT: 04.7.642.244) qua những lớp đào tạo ngắn hạn về các vấn đề nhân lực trong DNVVN như “Kỹ năng thuyết trình và điều hành hội thảo”, “mối quan hệ giao tế kinh doanh”,
94
Trung tâm cũng tiến hành biên soạn một số lượng đáng kể các giáo trình phục vụ cho hoạt động đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực trong các DNVVN trong đó có cập nhật những thông tin liên quan tới các hội nghị, hội thảo, chính sách, khảo sát, nghiên cứu mới nhất.
Để DNVVN có những bước tiến hơn nữa thì bên cạnh sự hỗ trợ về các chính sách đào tạo nhân lực của chính phủ, các trung tâm cũng cần có những hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là trong việc hình thành một mạng lưới liên kết hợp tác cùng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và Nhà nước cần khuyến khích những trung tâm hỗ trợ này phát triển ở mức cao hơn. c.Tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ các DNVVN trực tiếp đào tạo và sử dụng lao động
Công tác tư vấn đã góp phần rất hiệu quả trong việc cung cấp tri thức đúng địa chỉ và từ đó giúp hình thành đội ngũ các nhàn quản lí DNVVN tài năng. Hình thức cung cấp tri thức dưới dạng tư vấn rất có hiệu quả bởi nó đáp ứng được nhu cầu của giới quản lí DNVVN Việt nam hiện nay là rất thiếu tri thức nhưng không có điều kiện và thời gian để học một cách có hệ thống. Hơn nữa, sự thiếu hụt tri thức của cán bộ Việt nam hiện nay là rất khác nhau. Do vậy họ có nhu cầu chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc nhưng lại theo những mức độ vấn đề khác nhau. Các lớp học lý thuyết tập trung ít hiệu quả do chương trình giảng dạy bị rút ngắn cho phù hợp với yêu cầu chung đến mức trở lại các nguyên lý cơ bản, rất khó vận dụng trong nền kinh tế thị trường sơ khai nhưng đầy biến động của nước ta. Mặt khác, bằng hình thức tư vấn thì các trung tâm tư vấn có thể kết hợp mạng lưới các cộng tác viên thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, đặc biệt là các cá nhân và các chuyên gia kinh doanh thành đạt để tư vấn trực tiếp cho người yêu cầu. Hình thức tổ chức theo kiểu tư vấn cũng gọn nhẹ, giảm chi phí đến mức DNVVN có thể trang trải được.
Nội dung tư vấn : có thể mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tình hình hiện nay, lĩnh vực cần nhất có lẽ là tư vấn hệ thống luật pháp, chính sách của nhà nước vốn đang trong quá trình chuyển đổi, chưa ổn định, chưa hoàn thiện, các văn bản bổ sung hoặc thay thế nhau liên tục. Nhiều
95
DNVVN không nắm bắt hết các chính sách và đôi khi bỏ qua cả sự hỗ trợ đáng được hưởng. Sau đó, lĩnh vực là công nghệ và tính hiệu quả của dự án đầu tư bởi các nhà đầu tư vấn còn thiếu các phương án làm ăn có hiệu quả trong khi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân còn khá nhiều.
Hình thức tư vấn: hình thức tư vẫn đa dạng, Có thể là các trung tâm tư vấn DNVVN như đang tồn tại hiện nay. Cũng có thể chỉ là các văn phòng tư vấn do các hiệp hội ngành nghề ở địa phương tổ chức ra có thu một phần phí. Hoặc đó có thể là các nhóm tư vấn do các trung tâm khoa học phối hợp với các tổ chức ngành nghề thực hiện...Tuy vậy lại có một nghịch lý là trong một số trường hợp thì các trung tâm tư vấn lại phải chủ động tìm đến hỗ trợ các doanh nghiệp vì hiện nay đa phần các chủ DNVVN còn chưa chú trọng phương hướng làm ăn lâu dài cũng như chưa ổn định trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh còn chạy theo việc đối phó với những biến động thị trường nhỏ lẻ hàng ngày nên họ chưa thực sự tìm tới các dịch vụ tư vấn.
Cần phải có luật định cho các tổ chức tư vấn. Về tình hình hiện tại, các tổ chức tư vấn phi chính phủ đang hình thành và hoạt động trên các lĩnh vực tư vấn về: thị trường, đầu tư, lập phương án sản xuất kinh doanh, thông tin giá cả, văn bản pháp luật... Chính từ phát triển theo nhu cầu của thị trường mà hầu hết các hoạt động của nó đều đáp ứng rất sát, rất thực tiễn những nhu cầu của doanh nghiệp. nhưng cũng từ sự phát triển tự phát đó mà các dịch vụ tư vấn chui, không đủ chất lượng cũng ra đời. Xuất phát từ đó, việc ban hành một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động tư vấn hỗ trợ là rất cần thiết.
Theo ý kiến của một số luật gia thì đầu tiên để luật định hóa hoạt động của các tổ chức tư vấn là phải có một trường lớp đào tạo chính quy để xác định khái niệm cơ bản thống nhất cho những người làm tư vấn. Đối với dịch vụ tư vấn và pháp luật, các công ty tư vấn là chiếc cầu lớn giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên là cơ quan hỗ trợ cho các công ty tư vấn chứ không nên làm thay các công ty tư vấn. Nhà nước có thể cung cấp thông tin miễn phí có giá trị định hướng cho nhà tư vấn, nhà doanh nghiệp. Cũng có thể bán thông tin cho các dịch vụ tư vấn này, nhưng cơ bản là phải công
96
minh, rõ ràng, bình đẳng. Ngoài ra, cần phải có bảo hiểm nghề nghiệp cho các công ty tư vấn.
2. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển công nghệ a.Tạo áp lực phải đổi mới công nghệ
Nhà nước cần tạo ra áp lực với mức độ cần thiết để buộc các doanh nghiệp sớm thay đổi công nghệ để tạo thế chủ động trong quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với hàng hóa của khối ASEAN và các nước khác vì tiến trình hội nhập WTO cũng sắp đến gần. Công cụ tạo áp lực trực tiếp là những văn bản quy định của Nhà nước:
- Quy định về thời gian, thời hạn đình chỉ hoạt động đối với DNVVN sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ bao gồm: công nghệ các ngành thuộc nhóm sản phẩm cạnh tranh với sản phẩm khối ASEAN và công nghệ tạo mức độ lớn về môi trường, môi sinh.
- Quy chế hỗ trợ tài chính cho DNVVN thực hiện thay đổi công nghệ
theo danh mục ưu tiên.
- Quy chế đào tạo cán bộ,công nhân kỹ thuật cho các ngành nghề mới.
b.Tạo ra môi trường cho đổi mới công nghệ
Cần mở rộng thị trường công nghệ bằng việc Nhà nước khuyến khích các hoạt động giao lưu thương mại về công nghệ, các trung tâm thông tin, tư vấn công nghệ, gắn các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất.
Về lâu dài, Nhà nước cần có chiến lược công nghệ, ban hành các định chế liên quan đến công nghệ, sở hữu công nghệ, sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các DNVVN tìm hiểu thị trường công nghệ mới, tổ chức triển lãm thường xuyên tại các trung tâm hỗ trợ công nghiệp để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm mới. Cần tổ chức lồng ghép vào các chương trình dự án trong đó có đổi mới công nghệ và tổ chức hệ thống tư vấn hỗ trợ công nghệ. Nhiệm vụ của các tổ chức tư vấn là giúp các DNVVN xác định nhu cầu, nội dung thay đổi công nghệ, cung cấp thông tin, tìm nguồn, hướng dẫn lựa chọn công nghệ mới.
Nhà nước cần có chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành thị trường công nghệ để tăng khả năng tiếp cận thông tin và kỹ
97
thuật công nghệ cho DNVVN. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với việc thay đổi công nghệ trong điều kiện hiện nay được coi như giải pháp hỗ trợ tích cực với nội dung:
- Hình thành thị trường thiết bị và công nghệ trên cơ sở khuyến khích hoạt động các đơn vị kinh doanh thiết bị công nghệ và hình thành khu vực thương mại công nghiệp tập trung như các khu vực điện, điện tử, vật liệu, xây dựng...
- Hình thành thị trường dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ. - Hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ trực thuộc các Sở khoa học- công nghệ- môi trường có chức năng kiểm định, đánh giá trình độ thiết bị công nghệ theo nhu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu xác định giá trị thiết bị, công nghệ của các DNVVN.
- Tăng cường hoạt động thông tin công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoạt động đào tạo và đào tạo lại lao động kỹ thuật theo yêu cầu của quá trình đổi mới công nghệ của DNVVN.
Nhà nước cần chú ý hình thành khu vực hàng hóa miễn thuế đối với máy móc thiết bị công nghệ. Việc hình thành khu vực sản xuất hàng hóa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế trên cơ sở thiết lập danh mục sản phẩm mới, sản phẩm công nghệ tiêu chuẩn được hưởng chế độ ưu đãi có kỳ hạn về thuế. Các khu vực ưu đãi này sẽ là trọng tâm để tập trung hướng đầu tư và thu hút vốn đầu tư của DNVVN vào lĩnh vực sản xuất sản xuất sản phẩm với công nghệ cao, công nghệ sạch trong thời gian ngắn.
- Cho phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị với một khoản khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Kinh nghiệm của một số nền kinh tế phát triển cho thấy đây là một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công được sử dụng để khuyến khích các DNVVN đầu tư thiết bị và máy móc.
Nhằm khuyến khích DNVVN đầu tư máy móc thiết bị mới, nên áp dụng phép tính khấu hao nhanh cho máy móc thiết bị mới, theo phương pháp khấu hao bình thường thì bút toán khấu hao một năm sẽ bằng tổng giá trị/tuổi thọ tính theo năm. Nhưng nếu theo phương pháp khấu hao nhanh thì doanh nghiệp có thể bút toán và khấu hao nhiều hơn giá trị đó, thậm chí là
98
gấp đôi. Lúc đó giảm số lợi tức tính thuế của môi năm và làm giảm số thuế phải nộp = % lợi tức tính thuế. Đây được xem là 1 trong những biện pháp ưu đãi thuế quan thành công nhất để khuyến khích các DNVVN đầu tư đổi mới trang thiết bị.
-Cần có các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các DNVVN thiếu vốn có thể nâng cấp máy móc thiết bị tốt hơn. Một lần nữa, vấn đề cho thuê tài chính lại phát huy hiệu quả của nó, lần này là giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ. Cho thuê tài chính cho phép các DNVVN tiếp cận được công nghệ hiện đại chỉ với một hợp đồng cho thuê tài chính thay vì phải bỏ ra một khoản tài chính khổng lồ. Sau khi ký hợp đồng, cả bên đi thuê( các DNVVN ) và bên cho thuê( các công ty có máy móc công nghệ) cùng nhau tiến hành những thủ tục cần thiết, DNVVN sẽ lựa chọn cho mình những công nghệ hợp lý nhất và tiến hành thuê theo từng kỳ. Trong giai đoạn này DNVVN sẽ nhận được những lời khuyên về việc áp dụng công nghệ nào là phù hợp từ các công ty cho thuê có nhiều kinh nghiệm lựa chọn thiết bị, đánh giá tình hình. Như vậy DNVVN vẫn có cơ hội áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh trong điều kiện ep hẹp về vốn.
Cho thuê tài chính giúp cho các DNVVN tránh được tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Nếu như các DNVVN bỏ ra một khoản tài chính không nhỏ đầu tư vào công nghệ thì khi có những biến động nào đó thì họ sẽ không còn khả năng nhanh chóng, linh hoạt được nữa bởi họ đã bị ràng buộc bởi những trang thiết bị công nghệ của mình, điều này đặc biệt hay xảy ra trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, công nghệ rất nhanh chóng bị lão hoá, vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn, một công nghệ được coi là hiện đại trong giai đoạn này thì chỉ trong một thời gian ngắn sau lại có công nghệ hiện đại hơn thay thế. Nếu các doanh nghiệp dùng một khoản tài chính lớn đầu tư vào công nghệ và với tình hình quản lí của các DNVVN hiện nay thì họ sẽ có nguy cơ nhanh chóng bị lạc hậu về công nghệ, kết quả là sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, không còn
99
khả năng chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó máy móc thiết bị vẫn chưa khấu hao hết và họ rơi vào tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ.
Nếu áp dụng hình thức cho thuê tài chính thì thay vì bỏ ra một khoản tài chính lớn để đầu tư mua sắm trang thiết bị thì DNVVN tiến hành đi thuê và như vậy thì mức độ ràng buộc của DNVVN vào những công nghệ đó đã giảm đi rất nhiều vì doanh nghiệp chỉ sử dụng tài sản đó trong một thời hạn nhất định, khi kết thúc thời hạn thuê, nếu thấy công nghệ vẫn còn phát huy hiệu quả thì DNVVN sẽ tiến hành thuê tiếp hoặc mua lại( như trong khái niệm về cho thuê tài chính) và nếu ngược lại thì không thuê nữa. Khi doanh nghiệp muốn thay đổi lĩnh vực kinh doanh, thay đổi sản phẩm( chẳng hạn như do tác động của môi trường chính sách, nhu cầu thị trường chuyển hướng…) thì sẽ không phải e ngại vì máy móc thiết bị chưa khấu hao hết khiến vốn của doanh nghiệp còn đọng trong đó. Trong tình thế như vậy, doanh nghiệp chỉ cần tiến hành các thủ tục nhằm sớm chấm dứt hợp đồng khi hợp đồng hết hiệu lực và lại bắt đầu một quá trình khác, một chiến lược trong một lĩnh vực kinh doanh mới, một hợp đồng cho thuê tài chính khác với máy móc thiết bị hiện đại hơn, phù hợp hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN và đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề này là họ mở cửa thị trường cho máy móc thiết bị cũ nhằm thu hút kỹ thuật từ nước ngoài, nhưng họ chỉ chấp nhận miễn thuế cho những thiết bị phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế được xác định cho từng thời kỳ. Vì vậy, chúng ta cần ngiêm túc xem xét việc nới lỏng các quy định nghiêm ngặt hiện hành có liên quan
đến việc hạn chế nhập khẩu máy móc thiết bị cũ để cho phép nhập khẩu thiết bị cũ, nhưng còn sử dụng tốt phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN . Điều đó cho phép các doanh nghiệp này nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một "bãi rác công nghệ". Điều này thực sự có ý nghĩa với các DNVVN vì khả năng hạn chế về vốn của họ.
-Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ về công nghệ cho các DNVVN
như thông tin về thị trường công nghệ, các thông tin trợ giúp về mặt kỹ
100
thuật, đào tạo...để các DNVVN chọn lựa được công nghệ thích hợp. Ngoài ra, cần giảm bớt các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và phí truy nhập Internet để khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm hiểu thông tin về công nghệ trên thế giới( hiện nay cước điện thoại và cước dịch vụ Internet ở Việt nam là một trong những nơi cao nhất thế giới).
Tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài vào Việt nam bằng cách đơn giản hoá các thủ tục và giảm chi phí đối với visa nhập cảnh đối với những cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với các chuyên gia. Đây chính là những phương tiện hiệu quả trong chuyển giao công nghệ, bí quyết sản xuất thông qua đào tạo và làm mẫu cho các nhà quản lí, cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt nam. c. Nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ
Hiện nay, ở nước ta phần lớn các DNVVN bị hạn chế khả năng lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Do đó mặc dù đã tiến hành đầu tư nhưng giá thành, chất lượng sản phẩm chưa được cải thiện, hoặc đầu tư quá lớn không sử dụng hết công suất, vượt quá khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Để năng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, cần phải
tiến hành một số vấn đề sau đây:
Một là, phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trường, từ đó xác định nhu cầu đổi mới công nghệ. Phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm năng để biết đựoc điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh, dự đoán phát triển công nghệ mới đi đôi với các sản phẩm thay thế tiềm ẩn.
Hai là, phân tích thực trạng công nghệ của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực công nghệ cần xem xét trên các yếu tố hợp thành: kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật kinh nghiệm, tính sáng tạo, các dữ kiện, thiết kế, chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật, tổ chức quản lý công nghệ.
Ba là, xác định rõ mục tiêu cụ thể của dự án đầu tư đổi mới công nghệ
để có giải pháp phù hợp.
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một trong những khâu yếu trên con đường đổi mới
101
công nghệ của DNVVN. Để nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, một mặt cần hoàn thiện môi trường pháp lý buộc các chủ đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án, mặt khác cần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư đổi mới công nghệ, đặc biệt là thẩm định về mặt kỹ thuật của dự án, thẩm định về mặt tư cách pháp nhân và tài chính của chủ dự án, hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án....
d.Thay đổi phương thức hỗ trợ vốn phát triển công nghệ
Trước đây, các DNVVN thường chỉ sử dụng phương thức vay tín dụng với các điều kiện thế chấp, tín chấp . Phương thức vay này vừa hạn chế khả năng huy động vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN lại vừa tạo ra kẽ hở. Do đó, phải đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ để giải quyết ách tắc trong khâu chuyển giao vốn đầu tư tín dụng nhà nước tới DNVVN. Các phương thức này bao gồm:
- Hình thành Qũy nghiên cứu triển khai, chuyển giao thiết bị công nghệ trên cơ sở sử dụng một bộ phận chi ngân sách cho nghiên cứu khoa học- công nghệ doanh nghiệp (trong điều kiện cho phép, cần thành lập ngân hàng tín dụng nghiên cứu khoa học công nghệ). Nguồn vốn từ Qũy này sẽ hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, tổ chức nghiên cứu khoa học- công nghệ cho DNVVN.
- ứng dụng, phát triển mô hình Nhà nước tổ chức hoạt động thu, đổi thiết bị công nghệ cũ, bán trả góp thiết bị công nghệ mới cho DNVVN. Theo phương thức này, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tài trợ vốn trả góp cho các đơn vị thương mại thiết bị công nghệ và các đơn vị thương mại giao dịch trực tiếp với các DNVVN với hai nội dung: thu mua thiết bị cũ và bán trả góp thiết bị mới.
Đổi mới công nghệ trong các DNVVN là vấn đề cấp bách nhưng vô cùng khó khăn. Trên đây là một số giải pháp góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tự nhận thức được rằng đổi mới công nghệ là việc làm tất yếu theo xu hướng phát triển của thời đại mới. Thêm vào đó, các tổ chức tư vấn, các cơ quan hỗ trợ, các hiệp hội nghề nghiệp phải thực sự là những người
102
bạn gần gũi đối với DNVVN, nhất là giai đoạn khởi sự vì áp lực của cuộc cạnh tranh buộc các DNVVN phải vươn lên nhưng nếu thiếu định hướng chỉ dẫn sẽ không tránh khỏi lúng túng, tự phát, kém hiệu quả.
103
Kết luận Đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” được nghiên cứu xuất phát từ thực tế, vai trò và ý nghĩa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay. Khoá luận đã nghiên cứu và làm rõ các vấn đề sau:
1. Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về DNVVN như khái niệm, đặc điểm, ưu thế, bất lợi, vai trò, ý nghĩa của các DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như sự cần thiết phải có chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay.
2. Nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các mặt như cơ cấu, phân bổ theo địa lý và ngành nghề, đóng góp cho phát triển kinh tế qua GDP, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, về môi trường pháp lý, vốn, công nghệ, thông tin, nhân lực và cả các tác động tích cực và những tồn tại của quá trình từng bước đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua đó nêu ra các hạn chế, tồn tại của các DNVVN hiện nay về tình trạng thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm chưa chất lượng, đội ngũ nhân lực chưa tốt, khó tiếp cận thông tin và thị trường. Tất cả tạo nên năng lực cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay.
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết những khó khăn, tồn tại đã chỉ ra đó là nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển, nhóm giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường và nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về nhân lực và công nghệ.
ở nước ta, DNVVN có diện rộng, phổ cập, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội. Như một tác động tích cực của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt nam, các DNVVN đã phát triển nhanh chóng đồng thời có những đóng góp quan trọng bảo đảm sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền
104
kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư; góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân đối chung và vi mô nền kinh tế; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Mặc dù vậy, sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có nhiều hạn chế, khó khăn, điều đó đòi hỏi cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển hơn nữa. Vì thế, thông qua bài khóa luận này, qua tình hình phát triển DNVVN ở Việt nam để thấy rõ được những điểm còn hạn chế, khó khăn; đồng thời nêu ra tác động của những chính sách đổi mới gần đây đến các DNVVN, qua đó đưa ra những giải pháp cả trước mắt và lâu dài để tạo điều kiện và hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN ở Việt nam phát triển hơn nữa. Bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của sự hội nhập và hợp tác phát triển giữa các nước trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của DNVVN Việt nam sẽ góp phần vào nền kinh tế chung của đất nước, tạo vị thế vững chắc trên thị trường khu vực và thế giới.
105
trang Web có chứa tin
Tài liệu tham khảo 1. Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNVVN. 2. “Báo cáo cập nhật kinh tế Việt nam năm 2001”-Tài liệu của Ngân hàng thế giới (WB). 3. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999. 4. “Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong việc phát triển các DNVVN tai Việt nam”- Tiểu luận,- Đoàn Đức Thuận, Phạm Công Định. 5. "Kinh nghiệm và cẩm nang xây dựng xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới"-- NXB Thống kê/1999- Tác giả Đỗ Đức Định. 6. "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam"- NXB Chính trị quốc gia/1997- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ trì. 7. Bản "Nghiên cứu xúc tiến doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ"- Viện nghiên cứu Nomura / tháng 10, 1999. 8. "Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam đến năm 2005"- NXB Chính trị quốc gia/2000- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ biên. 9. UNIDO, “Phát triển khu vực tư nhân, tài liệu làm việc số 2, phát triển cụm DNVVN ở các nước đang phát triển: kinh nghiệm của UNIDO”, 1999. 10.Báo cáo Uỷ ban Tài trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ, “Dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh đối với sự phát triển của các DNVVN ”, 1997. 11. Các báo cáo, tạp chí, nghiên cứu về DNVVN. 11. Các liên quan DNVVN như thông www.smenet.com.vn , trang web hỗ trợ xuất nhập khẩu : www.eximpro.com 13. “Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam-NXB Thống kê”-Hà nội 2001-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp. 14. Kỷ yếu hội thảo “Chính sách pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh”- NXB Đại học Quốc gia Hà nội- Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý/LERES.
106
Mục lục Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ
A.Khái niệm và tiêu chí xác định DNVVN 1.Khái niệm ở một số nước trên thể giói………………….……
2.Khái niệm ở Việt nam……….
B.Đặc điểm của DNVVN
1.Tính tất yếu của việc tồn tại các DNVVN trong nền kinh tế…… 2.Đặc điểm chung của các DNVVN ……………….…………....
C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Chương II: Thực trạng phát triển của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
A.Quá trình hình thành, phát triển các DNVVN ỏ Việt nam 1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp………………….…………. 2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ…………………… 3.Các DNVVN ở khu vực nông thôn………………….………………… B. Tác động của các chính sách vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.Chính sách thương mại. ………………….………………….………… 2.Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. ………………….…….………. 3.Chính sách đất đai ………………….………………….………………. 3.Chính sách về công nghệ, giáo dục đào tạo……………………….…… 5.Chính sách hợp tác quốc tế ………………….………………….……..
107
C.Thực trạng các và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam 1.Tình hình vốn ………………….………………….……………… 2.Tình hình thiết bị công nghệ…….……………….………………… 3.Tình hình nhân lực, lao động quản lí……………………….……… 4.Tình hình khả năng cạnh tranh về sản phẩm, thị trường………………..
Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Việt nam. A.Định hướng phát triển B.Các giải pháp phát triển 1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN.……………….………………….…...…… 2.Nhóm giải pháp hỗ trợ kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường
3.Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về
nhân lực, công nghệ. ……………………..….…………………….……….
108