intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Vai trò của giống cây trồng trong trồng trọt

Chia sẻ: Hồ Hoàng Sơn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

638
lượt xem
84
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhất là từ khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày một mạnh tới nông nghiệp, cũng như tới công nghiệp và dịch vụ. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ của khoa học và công...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Vai trò của giống cây trồng trong trồng trọt

  1. LUẬN ÁN TỐT NGHIỆP Tiểu luận: Vai trò của giống cây trồng trong trồng trọt 1
  2. MỤC LỤC Phần Mở Đầu ............................................................................................................................ 3 1.1. Khái niệm về giống .............................................................................................................. 4 1.2. Vấn đề phân loại giống ....................................................................................................... 5 2.Vai trò của giống cây trồng ................................ ................................ ................................ ....6 2.1. Giống tốt có tác dụng tăng năng suất, phẩm chất cây trồng. .............................................. 6 2.2. Giống tốt tạo điều kiện phòng chống thiên tai, sâu bệnh có hiệu quả ít tốn kém................ 8 2.4. Giống tốt có khả năng tăng vụ, luân canh, bố trí cây trồng hợp lý nhằm sử dụng đất có hiệu quả nhất ........................................................................................................................... 10 2.5. Đa dạng giống mới tạo điều kiện thuận lợi cho đa dạng hoá trong nông nghiệp ............. 11 Kết Luận................................ ................................ ................................ ................................ .. 11 Tµi liÖu tham kh¶o ................................ ...................................................................... 12 2
  3. Phần Mở Đầu Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhất là từ khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương m ại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày một mạnh tới nông nghiệp, cũng như tới công nghiệp và dịch vụ. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ của khoa học và công nghệ, vừa có thể tiêu cực nếu nước ta không vượt được hàng rào kỹ thuật. Bằng chứng là trái cây nhập khẩu lấn sân thị trường trong nước do chất lượng và giá bán thấp hơn; hàng tôm cá xuất khẩu bị trả về do vấn đề an toàn thực phẩm. Việt Nam đang gắng vượt qua những thử thách để có lợi thế trong cạnh tranh ở thị trường quốc tế cũng như trong nước, làm cho sự cạnh tranh này thật sự là động lực phát triển kinh tế nông nghiệp có định hướng XHCN. Nông nghiệp cạnh tranh thể hiện ngày một rõ nét trong nền kinh tế thị trường hội nhập WTO, chủ yếu trên cơ sở phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao... Trong nước, giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng có sự cạnh tranh về diện tích đất, mặt nước và nhất là nhân lực, khi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra ngày một nhanh. Trong nông nghiệp, sự cạnh tranh này cũng xảy ra ở nhiều mặt: như giữa trồng trọt và chăn nuôi/thả tôm cá. Người nông dân luôn chọn giải pháp công nghệ hợp lý trong điều kiện của mình, nhất là những cây trồng, vật nuôi với những giống phù hợp nhất để sản xuất cho lợi nhuận cao nhất. Sự cạnh tranh trên được coi như "quan tòa" xử thắng cho người sản xuất nào có sản phẩm chất lượng cao nhất và giá thành hạ nhất. Bàn tay vô hình của kinh tế thị trường và hữu hình của Nhà nước XHCN làm cho kinh tế hội nhập phát triển không ngừng do tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm, hiện nước ta mới đạt có 17%, trong khi Trung Quốc đạt 48%, Mỹ đạt 82%. Giống tốt được coi như một trong những trợ thủ đắc lực nhất giúp nông dân tăng nhanh hơn hàm lượng chất xám trong nông sản. Trong hai thập kỷ vừa qua, ngành nông nghiệp việt nam đã đạt được nhiều tành tựu đáng khích lệ. Trong khi đó đảm bảo được an ninh lương thực trong nước. Việt nam đã trở thành một trong quốc gia lớn nhất thế giới trong lĩnh vực sản xuất và sản xuất nông sản của một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, cao su, điều, chè, hồ tiêu...Cùng với việc cải thiện hệ thống thuỷ lợi, ứng dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật thì các giống cây trồng nước ta đ ã đóng vai trò rất quan trọng để đạt được những thành tựu nói trên. Ngành giống cây trồng đã cung cấp một bộ giống phong phú, bao gồm những giống thuần, giống ưu thế lai ngăn ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng, và nhiều loại giống cây trồng lâu năm được cải tiến , chọn lọc, đưa vào sản xuất. Những kết quả này đã tạo điều kiện rất cơ b ản để nước ta thực hiện thành công " Cuộc Cách Mạng mùa vụ" cải thiện chất lượng và nâng cao sản lượng. 3
  4. 1.Khái niệm và phân loại giống cây trồng 1.1. Khái niệm về giống Thuật ngữ giống (tiếng Latin: varietas; tiếng Anh: variety) dùng để chỉ một quần thể các sinh vật cùng loài do con người chọn tạo ra và có các đặc điểm di truyền xác định. Tất cả các cá thể của cùng m ột giống đều có các tính trạng hay thường được gọi là các đ ặc tính về hình thái-giải phẫu, sinh lý-sinh hoá, năng suất v.v. hầu như giống nhau và ổn định trong những điều kiện sinh thái và kỹ thuật sản xuất phù hợp. Từ khái niệm về giống như vậy, ta có thể hình dung giống cây trồng (crop variety; cultivar) là một nhóm các thực vật có các đặc trưng sau: - Có nguồn gốc chung với các tính trạng hay đặc điểm giống nhau. - Mang tính di truyền đồng nhất (nghĩa là có sự ổn định, ít phân ly) về các tính trạng hình thái và một số đặc tính nông sinh học khác như: chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu bệnh v.v. - Mang tính khu vực hoá, nghĩa là tất cả các đặc điểm hay tính trạng của giống được biểu hiện trong những điều kiện ngo ại cảnh (như đất đai, khí hậu, các biện pháp kỹ thuật sản xuất) nhất định. Từ đây xuất hiện các khái niệm về giống chịu hạn, chịu mặn, chịu úng v.v. - Do con người tạo ra nhằm thoả mãn một hoặc một vài nhu cầu và thị hiếu nhất định, như: năng suất cao, chất lượng tốt, giá trị thương phẩm cao.... Các giống vật nuôi và cây trồng vì vậy được xem là những phương tiện sống của một nền sản xuất nông nghiệp cụ thể Khi đ ề cập đến khái niệm "giống", thông thường người ta muốn đề cập tới các tính trạng và đặc tính của giống . - Tính trạng (characters): Đó là những đặc điểm về hình thái và cấu tạo quan sát được của các cây trong cùng một giống giúp ta phân biệt với các giống khác trong cùng m ột loài. Để nhận biết các tính trạng như vậy, thường người ta chia ra các nhóm sau đây: + Các đ ặc điểm về hình thái, như: chiều cao cây, chiều dài bông, số hạt trên bông, số bông trên khóm, kích thước lá v.v. Nói chung đây là những tính trạng số lượng (quantitative characters), nghĩa là có thể "cân-đong-đo-đếm" được; chúng thường do nhiều gene kiểm soát và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện môi trường. + Các đặc điểm về cấu tạo, như: độ dày của bông, m àu sắc và hình dạng của thân, lá, hoa và quả ... Đây là những tính trạng chất lượng (qualitative characters), thường do một gene kiểm soát, ít chịu tác động của điều kiện ngo ại cảnh và có thể quan sát được bằng mắt thường. + Diễn biến của một quá trình sinh học, như: hô hấp, quang hợp, hoặc phản ứng quang chu kỳ v.v. thường tỏ ra rất mẫn cảm với các điều kiện sinh thái của môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, độ dài ngày. Tất cả các yếu tố này có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự hoạt động của các enzyme kiểm soát một quá trình sinh học cụ thể, và qua đó có thể ảnh hưởng đến các tính trạng chất lượng. - Đặc tính (characteristics): Đó là những tính chất hay đặc điểm sinh lý, sinh hoá đ ặc trưng có liên quan đến các đặc tính chống chịu của thực vật (như chịu mặn, hạn, rét, úng v.v.) và đặc điểm kỹ thuật canh tác. 4
  5. 1.2. Vấn đề phân loại giống Theo Dennis (1982), sự tiến hoá của giống phải đặt trong bối cảnh quan hệ giữa sinh vật, môi trường và con người, và chia thành ba thời kỳ: Giống ban đầu đ ược hình thành nối tiếp từ sự chọn lọc tự nhiên, được hoàn thiện dần dưới sự tác động của môi trường sinh thái, của lao động con người, nhưng còn mang đ ậm dấu ấn các đặc tính của quần thể hoang dại. Một số giống địa phương vẫn còn trong tình trạng của giống ban đầu. Giống cải tiến có tiêu chuẩn (về ngoại hình, năng suất...) do con người đặt ra theo nhu cầu để chọn lọc và cải tiến khả năng của sinh vật. Giống cao sản là những giống có năng suất cao hơn hẳn giống cải tiến, và khá phổ biến trên thế giới. Từ sự kết hợp các đặc điểm địa lý và năng suất của sinh vật với nhu cầu của con người, người ta chia thành: - G iống địa phương là giống tồn tại phổ biến ở một vùng địa lý nhất định của một quốc gia hay một khu vực rộng lớn của thế giới, có năng suất kém hơn so với trung bình các giống cao sản của thế giới. - Giống cao sản là giố ng phổ biến khắp thế giới, có thể phát triển ở nhiều vĩ tuyến khác nhau, với năng suất cao hơn các giống địa phương. - Giống chuyên dụng là giống được tạo ra nhằm thu nhận một loại sản phẩm xác định nhưng được phổ biến trên thế giới do giao lưu thương mại. Về mặt phân loại học, "giống" là đơn vị phân loại dưới loài, có tính chất quy ước dùng để chỉ các quần thể khác nhau trong cùng một lo ài do con người chọn tạo ra. V ề mặt sinh học, các cá thể trong cùng một giống có kiểu gene và kiểu hình nói chung là giống nhau; còn về mặt thực tiễn, điều quan tâm là dạng hình và tính năng sản xuất của giống có đáp ứng được nhu cầu định hướng của việc sử dụng hay không . Đối với việc phân loại lúa trồng chẳng hạn, nhiều lỗ lực đã được tiến hành tập trung chủ yếu vào loài lúa trồng châu Á (Oryza sativa ), bởi nó là nguồn lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới. Đây là loại cây lương thực chính có lịch sử trồng trọt lâu đời tại châu Á. Ngày nay loài cây này đã được trồng rộng rãi ở nhiều vùng trên trái đất; kể cả Bắc và Nam Mỹ, châu Âu và châu Phi, trải rộng từ vùng xích đạo cho đến các vùng thuộc vĩ tuyến 500 Bắc và xa hơn nữa. Nó có thể trồng thậm chí tại những vùng có độ cao tới 2.600m. Chính những điều kiện môi trường tự nhiên khác biệt này cùng với các phương thức trồng trọt khác nhau đã góp phần tạo ra các kiểu sinh thái mới và các giống lúa mới có khả năng thích nghi khác nhau. Dựa trên đặc điểm bất thụ của con lai F1 và các đặc điểm hình thái, sinh thái và sinh lý, loài lúa trồng châu Á (O. sativa) được chia thành ba loài phụ: Indica, Japonica và Javanica đặc trưng cho ba vùng địa lý tương ứng là Ấn Độ, Trung Quốc-Nhật Bản và Indonesia. Trong quá trình chọn giống lúa, nhiều giống đặc sản nổi tiếng ra đời gắn liền với các địa danh như: Tám xoan Hải Dương, Tám thơm Hải Hậu, v.v. Các giống lúa do Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI, đặt tại Manila - Philippines) lai tạo ra với ký hiệu IR- từng góp phần tạo ra cuộc cách mạng xanh nổi tiếng như: IR-8, IR-36, IR-64,...; ho ặc từ Viện di truyền nông nghiệp nước ta như: DT-11, DT-14, DT-17, ... 5
  6. 2.Vai trò của giống cây trồng Giống là sản phẩm của sức lao động sáng tạo của con ngừơi và là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt trong nông nghiệp sản sinh ra mọi thứ nông phẩm. Vì lý d o đó giố ng giữ vai trò quan trọ ng trong sản xuất nông nghiệp. Việc chọn đúng các giống tốt, thích hợp với điều kiện tự nhiên và canh tác giúp cho người sản xuất thu được năng suất cao và ổn định với phẩm chất tốt và m ức chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm thấp. Từ ngàn xưa người nông dân Việt Nam đã đánh giá cao vai trò của giống. Điều đó được đúc kết lại trong câu : “Cố công không bằng tốt giống”. Thật vậy các biện pháp kỷ thuật canh tác và công sức bỏ ra trên đồng ruộng chỉ có thể đạt được hiệu quả cao trên cơ sở các giống tốt. Ngày nay giống vẫn được xem là một trong những yếu tố hàng đầu trong việc không ngừng nâng cao năng suất cây trồng. Các nhà khoa học ứơc tính khỏang 30 đến 50% mức tăng năng suất hạt của các cây lượng thực trên thế giới là nhờ việc đưa vào sản xuất những giống tốt mới. Dân số nước ta cũng như trên thế giới không ngừng giá tăng trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp đang bị thu hẹp lại do sự phát triển nhanh chóng của các cơ sở công nghiệp, các đường giáo thong và các thành phố. Đ iều này đặt ra cho nền nông nghiệp hiện đại một nhiệm vụ lớn làm thế nào đ ể có thể giá tăng gấp bội năng suất cây trồng, hay nói một cách hình tượng là làm thế nào để có thể thu được hai, ba bông lúa từ những nơi mà cho đến nay con người chỉ thu được một bông lúa, và giống giữ vai trò hàng đầu trong việc giải quyết khó khăn này. 2.1. Giống tốt có tác dụng tăng năng suất, phẩm chất cây trồng. Mỗi giống cây trồng đều có tiềm năng năng suất nhất định, khi các yếu tố đầu vào sản xuất khác: nước, phân bón, chăm sóc, …được đáp ứng đầy đủ thì giống cũng không thể vượt qua ngưỡng tiềm năng năng suất của nó. Chỉ có sự đột phá về giống mới có thể mang lại năng suất cao hơn. Trong thực tiễn sản xuất đã cho thấy nhờ ứng dụng giống mới, năng suất đã từng bước được nâng cao. Những thành tựu về ứng dụng giống cây trồng trong cuộc cách mạng xanh trên thế giới, và ở V iệt nam trong những năm 90 của thế kỹ 20 đ ã cho thấy vai trò củ giống trong việc nâng cao năng suất cây trồng (truớc năm 1986 Việt Nam là nước thiếu lương thực, nông nghiệp chủ yếu là sản xuất lúa nước: năng suất lúa trung bình khoảng 2-3 tấn/ha, nhưng cho đ ến nay cùng với nhiều tiến bộ khác trong lĩnh vực thuỷ lợi và khoa học về canh tác, các giống lúa mới đ ã có nhiều đóng góp cho sự tăng năng suất (hiện nay năng suất lúa bình quân trên cả nước đã trên 5,5 tấn/ha, nhiều nơi năng suất lúa đạt đến trên 6,4tấn/ha) Trong quá trình phát triển, những áp lực từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự cạnh tranh về diện tích đất giữa các ngành: nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, kéo theo là sự thu hẹp diện tích canh tác do quá trình đô thị hoá ; bên cạnh đó là sự gia tăng về dân số khiến nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng nâng cao trong khi các yếu tố đầu vào khác: nước, kỹ thuật canh tác... đang phát triển chậm thì những đột phá về giống nhằm nâng cao năng suất cây trồng có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã hội. Tù đó góp phần ổn định kinh tế, chính trị và xã hội. 6
  7. Các nhà khoa học đã xác định là ngày cả ở ruộng cao sản, cây trồng cũng chỉ mới sử dụng khỏang trên dứơi 1% năng lượng ánh sáng mặt trời, trong khi về mặt lý thuyết cây xanh có thể xây d ựng đến 5% năng lượng nói trên. Để giải quyết vấn đề này, chắc rằng không có con đường nào khác hơn là tạo ra những giống cây trồng mới có khả năng quang hợp cao và có d ạng hình thích hợp cho phép tận dụng tốt nhất năng lượng ánh sảng mặt trời. Việc đưa vào sản xuất những giống cây trồ ng mới có khả năng cho năng suất cao đã mang lại hiệu q ủa kinh tế lớn, vì đó là biện pháp dể dàng và rẻ tiền nhất để giá tăng sản lượng lượng thực. Chỉ thay các giống cây trồng hiện nay b ằng các giống có năng suất cao hơn khoảng 10% thôi, thì trên phạm vi tòan quốc, Dee-geo- Woo-gen với giố ng cao cây kháng bệnh Tsai-Yuan-Chung. Từ tổ hợp lai này ngừơi ta chọ n ra giống Taichung Native 1 (TN1) và đưa vào sản xuất năm 1956. T1N phản ứng tốt với mức phân đ ạm cao, đ ạt năng suất kỷ lục 8,1 tân/ha, đươc coi là giống lúa Indica cao sản đầu tiên. Thành công này đã chứng minh khả năng cao tiềm năng, năng suất các giống lúa Indica. Năm 1962 các nhà chọn giố ng ở IRRI đ ã lai giố ng Dee-geo-Woo-gen với giống Peta cao cây, đ ẻ nhanh nhiều, có nguồ n gốc Indonesia. Đến năm 1966 giống IR.8 đươc chọn từ cặp lai trên đã được phổ biến ra sản xuất. IR.8 cứng cây, thân cao khỏang 100cm, co lá thẳng, đẻ nhánh khỏe, không nhạy cảm với quang chu kỳ và có khả năng cho năng suất trên 10tấn/ha. IR.8 được xem là giống lúa Indica cao sản đầu tiên thích nghi với khí hậu nhiệt đới. Giống là yếu tố nội tại quyết định đến phẩm chất của sản phẩm. Chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao con người ngày càng có nhu cầu sử dụng những sản phẩm ngon, sạch. Trong xu thế phát triển nông nghiệp như hiện nay, sản phẩm không đơn thuần là tự cung, tự cấp hay cung cấp ra thị trường nhỏ m à đó là nông nghiệp gắn với hàng hoá do đó sự cạnh tranh sẽ rất mạnh mẽ, nếu sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì ngành nông nghiệp sẽ bị thiệt hại rất lớn, đời sống người dân gắn liền với sản xuất nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ đó sẽ gây ra các ảnh hưởng tiêu cực khác đến xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãI thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhát là khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày m ột mạnh đến nông nghiệp. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ khoa học và công nghệ, vừa có tiêu cực nếu nước ta không vượt đuợc hàng rào kỹ thuật. Bằng chứng là tráI cây nhập khẩu lán sân thị trường trong nước do chất lượng và giá bán thấp hơn. Thực tiễn hiện nay ở Việt nam đã cho thấy việc áp dụng các giống mới có phẩm chất tốt: Gạo Nàng Thơm, Lúa HT1, Lúa HT9, Dưa hấu Hắc mĩ nhân … đã mang lại nhiều thành quả: sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường, giá bán cao, nhờ đó người dân càng được lợi và họ càng chú trọng hơn đ ến trồng trọt những giống cây trồng chất lượng. Tiếp theo các thành tựu có tính chất lịch sử trong ngành trồng lúa kể trên là hàng loạt các giống lúa cao sản mới, ngăn ngày, kháng đ ươc môt số sâu b ệnh quan trọng ra đời. N hiều giống lúa m ới ngòai khả năng cho năng suất cao, con có phẩm 7
  8. chất gạo tốt, hạt dai trong, không bac bung. Các cánh đồng lúa 5 tấn rồi 10 tấn ở nứơc ta đã được hình thành bằng việc đưa vào sản xuất các thành tụu về giống kể trên. Nhiều giống cây ăn trái, cây lượng thưc, cây công nghiêp, cây dưọc liệu có năng suất cao liên tiếp được tạo ra và đ ưa vào sản x uất với mức độ ngày càng nhiều đã góp phần tạo ra những đỉnh cao mới về năng suất trong nông nghiêp. Thay các giống bắp địa phương trong sản xuât băng các giống lai giưa các dòng thuần, các nhà chọn g iống đ ã góp phần nâng cao năng suất bắp lên gấp hai , ba lần. N ếu đến năm 1938 việc trồng các giống bắp địa phương ở Mỹ chỉ đạt đươc năng suất b ình quân 1,25 tấn/ha, thì việc chuyển m ạnh sang trồng các giống bắp lai đã đưa năng suất bắp tăng rõ rêt, 1952 bình quân cả nứơc đạt 2,54tấn/ha, năm 1962 đạt 4,02 tấn/ha và năm 1976 là 5,189 tấn/ha, trong đó nhiều trang trại trồng bắp đã đạt được năng suất 8 - 10 tấn/ha. Các nhà chọn giống không dừng lại ở những thành q ủa đó , cùng với năng suất, phải nâng cao đồng thời giá trị dinh dữơng của bắp. Măc dù có hàm lượng p rtein tổng số cao hơn gạo, nhưng giá trị dinh dữơng của b ắp không đươc cao, vì ham lượng một số axit amin thiết yếu như lysine, trypthophan, methionine kha thấp. Khỏang môt nửa lượng protein của bắp thuộc nhó m Zêin hầu như không chứa các loại acid amin kể trên, nên có hệ số tiêu hóa đối với con ngừơi va động vật không nhai lại tương đối thấp. Nhược điểm trên của bắp đã được phat hiện từ lâu và không ít nhà khoa hoc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đa đổ nhiều công sức để tìm cách khắc phục. Tuy nhiên trong môt thời gian dài đã nổ lực kể trên không thu được kết qủa mong muốn. Băng các biện pháp kỹ thụât canh tác, nhất là phân bó n các nhà trồng trọt có thể gia tăng được đáng kể hàm lượng protein trong hạt b ắp, song đáng tiếc là lượng gia tăng đó chủ yếu thuộc về Zêin, nhóm protein có giá trị dinh dữơng thấp. Vấn để tửơng chừng như bế tắc cho đển năm 1964 khi những phát hiện về các đột biến opaque-2 (2O) và floury - 2 (fl.2), co tác dụng giá tăng hàm lượng các acid a min không thay đối trong hạt bắp , được công bố . Các nhà chọn giống đã thành công trong việc truyền các gen nói trên vào các giống bắp thừơng để tạo ra các giống bắp có giá trị dinh dữơng cao, giàu lisine, trypthophan và methionine. Các nhà khoa học hy vong trong tương lai các giống b ắp giàu lysine này sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết nạn thiếu protein của nhân loại. Những giống đậu nành mới được phổ biến ra sản xuất ở nướcc ta trong nhưng năm gần đây đã góp phần đưa năng suất và sản lượng đậu nành tăng nhanh, tạo nên một b ước chuyển mới trong sản xuất nông nghiệp của nước ta. Những thành tựu nói trên cùng biết bao giống cây trồng khác có năng suất cao và phẩm chất tốt đã và đang được đưa vào sản xuất ở khắp nơi trên thế giới đã mang lại cho khoa học chọn giống một niềm tự hào chính đáng. 2.2. Giống tốt tạo điều kiện phòng chống thiên tai, sâu bệnh có hiệu quả ít tốn kém Mỗi giống cây trồng có tính thích nghi nhất định với từng điều kiện vùng sinh thái. Do đó việc lựa chọn giống cây trồng thích hợp với từng vùng sản xuất: điều kiện sinh thái, điều kiện canh tác vừa có ý nghĩa trong việc đảm bảo tốt nhất 8
  9. cho việc tạo năng suất và đảm bảo chất lượng thì nó còn có có một vai trò khác vô cùng quan trọng đó là mở rộng diện tích đất canh tác. Trong thực tiễn sản xuất đã ghi nhận nhờ có nhiều giống cây trồng mới: giống lúa cao cây, giống lúa chịu mặn, ngô chống đỗ ngã…nhờ đó ta đ ã mở rộng được diện tích canh tác. Những giống cây trồng chống chịu sâu bệnh ra đời đã góp phần ổn định sản xuất, giảm thiểu chi phí phòng trừ sâu bệnh cho người dân, bảo vệ môi trường. Với tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp: nhiệt độ trái đất gi tăng, nước biển dâng cao, tình trạng thiên tai, dịch bệnh đang xảy ra ngày càng nhiều sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn đó tình trạng nhiễm mặn, nhiễm phèn đất sản xuất lúa ngày càng gia tăng; sự hoang hoá do nhiệt độ toàn cầu gia tăng và ảnh hưởng của quá trình xói mòn, các dịch bệnh đang xảy ra với mức độ và tần suất x ảy ra ngày càng cao trong khi nông nghiệp đang hướng đến nền nông nghiệp sạch và bền vững thì vai trò của giống cây trồng then chốt giúp tạo sự ổn định sản xuất, giảm thiểu chi phí cho người dân, hướng đến mục tiêu của nền nông nghiệp hiện đại. 2.3.Giống tốt có khả năng thích hợp với cơ giới hoá, giảm bớt nặng nhọc cho người lao động, tăng năng suất lao động. Cùng với sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, sự ứng dụng cơ giới hoá trong nông nghiệp ngày càng tăng nhằm mục đích giảm sức lao động của con người và nâng cao hiệu quả lao động và hiệu quả sản xuất. Đồng thời trong xu hướng phát triển chung, khi kinh tế càng phát triển thì sự đa dạng ngành nghề ngày một tăng, lực lượng lao động rút ra khỏi nông nghiệp ngày càng nhiều. Để vẫn đảm bảo duy trì sản xuất thì việc cơ giới hoá trong nông nghiệp càng được áp dụng nhiều hơn. Tuy nhiên mức độ cơ giới hoá bị ràng buộc rất lớn về tiêu chuẩn đồng đều của giống: về thời gian thu hoạch, đồng đều về đặc điểm hình thái của cây trrồng và sản phẩm, …; do việc có thể nói rằng thúc đẩy cơ giới hoá trong nông nghiệp bị ràng buộc rất lớn bởi yếu tố giống. Trong thực tiễn sản xuất ở nhiều nước đã cho thấy vai trò của giống trên khía cạnh này, nhiều nước: Mỹ, Pháp, Newziland…1 nông dân có thể thực hiện sản xuất trên quy mô hàng chục hecta; mặc dù lực lượng lao động trực tiếp tham gia sản xuất chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với dân số nhưng họ vẫn thực hiện sản xuất ổn định, không những cung cấp nhiều sản phẩm vừa dáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu. Ở V iệt Nam trong những năm cuối của thế kỷ 20, mặc d ù đã có nhiều chủ trương nhằm thúc dẩy cơ giới hoá trong nông nghiệp, nhưng thực tế mức cơ giới hoá trong nông nghiệp của chúng ta vẫn còn rất thấp: ngoài ảnh hưởng của các yếu tố khác như quy mô còn nhỏ lẻ, điều kiện kinh tế hộ còn thấp thì còn ràng buộc khác rất lớn đó là các giống có thể đáp ứng các tiêu chuẩn để cơ giới hoá còn hạn chế. Trong xu hướng phát triển chung: sự gảm dần của lực lượng lao động trực tiếp trong nông nghiệp, chủ trương hướng đến một nền nông nghiệp hàng hoá, nâng cao hiệu quả lao động thì vai trò của giống mới là rất quan trọng. So về mức độ cơ giới hoá trên thế giới thì nước ta còn nhiều hạn chế, tuy nhiên những thành tựu bước đầu trên một số loại cây trồng: gặt lúa bằng máy, thu 9
  10. hoạch bằng máy, lúa gieo sạ theo hàng… đã cho thấy giống vai trò quan trọng của giống. 2.4. Giống tốt có khả năng tăng vụ, luân canh, bố trí cây trồng hợp lý nhằm sử dụng đất có hiệu quả nhất Mỗi giống có yêu cầu điều kiện sinh thái nhất định, và đặc điểm hình thái và có thời gian sinh trưởng khác nhau. Sự đa dạng về giống cho phép ta xây dựng nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả hơn nhằm khai thác tối đa hiệu quả các nguồn tài nguyên: đất đai, nguồn nước, khí hậu, nhân lực…. Nhìn lại nông hiệp Việt Nam trong thập kỷ qua có thể thấy rằng nhờ những tiến bộ về giống mà chúng ta có sự đa dạng hơn trong nông nghiệp: Tăng vụ: giống mới có thể rút ngắn đ ược thời gian sinh trưởng phát triển, nhờ đó mà ta có thể tăng vụ sản xuất trong năm: ví dụ như trước đây chúng ta thường trồng lúa 1 -2 vụ, thì hiện nay đa số nhiều nơi đã trông lúa trong 2 vụ, ở những nơI có điều kiện thuận lợi ở đồng bằng sông Cửu long người ta đã trồng trọt liên tục trong 3 vụ. Luân canh cây trồng: Thời gian sinh trưởng, những yêu cầu về điều kiện canh tác của các giống phép ta có nhiều lựa chọn trong xây dựng các mô hình luân canh cây trồng thích hợp: trước đây trên đất m àu chúng ta thường trồng một vụ rrồi để hoang đất, nhưng hiện nay chúng ta đ ã có nhiều mô hình luân canh có hiệu quả: lúa - màu - lúa, lúa - cây vụ đông - lúa, lạc - ngô- mè…. Xen canh cây trồng, gia tăng mật độ: nhờ tạo ra nhiều giống mới có những đặc điểm thuận lợi: hình thái gọn, thấp cây…. mà chúng ta đã gia tăng được mật độ cây trồng, thực hiện xen canh nhờ đó nâng cao được hiệu quả sử dụng đất, dinh dưỡng, nước, lao động … qua đó nâng cao hiệu quả lao động và hiệu quả sản xuất. Trong một số trường hợp giống giữ vai trò quyết định. Cho đến đâu nhưng năm 60 ở đồng bằng sông Cửu Long hầu như chỉ có những cánh đồng lúa một vụ với những giống lúa địa phương cao cây dài ngày. Sự ra đời của những giống lúa cao sản, ngắn ngày không quang cảm đ ã góp phần tạo nên những cánh đồng lúa 2 vụ rôi 3 vụ với năng suất cao. Ngày cả ở Minh Hải, Kiên giang, vùng đất bị nhiễm mặn, phèn hay vùng lúa nổi Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên mà cho đến những năm gần đây ngừơi nông dân chỉ trồng được môt vụ lúa, thì ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự xuất hiện nhanh chóng những cánh đồng lúa hai vụ cao sản. Cũng tương tư như vây, giống giữ vai trò khá quyết định trong việc áp dùng cơ giới hóa vào những khâu chăm sóc và thu hoạch các loại cây trồng, vì muốn làm được điều đó, cần phải có giống cứng cây, không đổ ngã và có độ đồng đều cao về các mặt. Mỗi giống cây trồng thường có những nhược điểm nào đó hạn chế khả năng gieo trồng của chúng trong các vùng sinh thái nhất định. Việc chọn giống theo những hướng đặc biệt tạo ra khả năng mở rộng phạm vi gieo trồng của loài ra những vùng sinh thái mới. Những giống cao lượng ngăn ngày có khả năng chịu phèn, chịu mặn, chịu hạn, chúng đ ã mở ra triên vọng to lớn tăng thêm môt vụ cao lượng ở những vùng lúa nổi và môt số vùng phèn mặn thừơng b ị bỏ hóa trong mùa khô. Nho, bắp cải, cà chua, cải hoa, hành tây . . là những cây ôn đới nhưng qua sự chọn lọc của con người, ngày nay các cây đó đã trồng được tốt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, và không phải chỉ trong vụ Đông xuân và một số có thể 10
  11. trồng đ ược ngay cả mùa hè nóng bức của khí hậu nhiệt đới. Ngược lại nhiều giống cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới cũng đã được chọn lọc đ ể phát triển rộng rải ở vùng ôn đới như bắp, cao lương, thầu dầu . . . . 2.5. Đa dạng giống mới tạo điều kiện thuận lợi cho đa dạng hoá trong nông nghiệp Nông nghiệp nước ta có đặc điểm là qui mô sản xuất nhỏ, do diện tích đất nông nghiệp hạn chế, lực lượng lao động trong nông nghiệp cao do vậy việc sản xuất mang tính hàng hoá ở các khu vực này là rất hạn chế, điều này thể hiện rất rõ ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Duyên hải miền trung; hơn nữa sự phân hoá về điều kiện sinh thái giữa các vùng miền đã ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu cây trồng, mùa vụ. V ì vậy sự đa dạng về giống giúp cho người sản xuất lựa chọn giống cây trồng phù hợp với điều kiện sinh thái, đặc điểm sản xuất, mục đích sản xuất của họ: tự cung tự cấp, vừa tự cung tự cấp vừa bán ra thị trường…; điều này vừa có ý nghĩa thiết thực đối với người sản xuất, vừa có ý nghĩa đối với người tiêu dùng. Kết Luận Giống cây trồng có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nhất là những nước công nghiệp hóa nông nghiệp. Trên thế giới, người ta đã đặt trọng tâm vào phát triển nông nghiệp trên quy mô công nghiệp hiện đại, bằng các phương phát sinh học tối tân, họ đã sản xuất hàng loạt giống cây trồng mới, được chọn lọc và cho nhân giống, lai tạo ra những thế hệ cây trồng nhiều ưu điểm, cải tạo gen thành những giống cây kháng bệnh, kháng sâu rầy, giảm bớt chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian chăm sóc, tạo nên ưu thế vững chắc trong sản xuất nông nghiệp. Việt Nam chúng ta đã có nhiều thành tựu quan trọng trong công tác chọn và lai tạo giống, cũng như có những chương trình chuyển giao công nghệ sản xuất mới, tuyển lựa giống cây trồng, thúc đẩy tăng sản lượng và làm đỗi thay bộ mặt nông nghiệp, nông thôn. V ấn đề quan trọng và trọng tâm là chọn giống, lai tạo, chọn đất trồng phù hợp trên quy mô công nghiệp hiện đại, chuyên nghiệp, bền vững. Đồng thời cũng phải có cơ quan nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp cách chuyên môn, hiện đại, từ đó đổi thay bộ mặt nông nghiệp Việt nam, hầu đuổi kịp và vượt xa các nước đang có nền nông nghiệp hiện đại, đa dạng trên thế giới. 11
  12. Tµi liÖu tham kh¶o 1. Trần Thượng Tuấn, Giáo trình Chọn giống và Công tác giống cây trồng. 2. NguyÔn ThÞ HiÒn, NguyÔn V©n Anh, chuyªn ®Ò s¶n xuÊt n«ng nghiÖp trong kinh tÕ thÞ tr­êng vµ héi nhËp v× sù ph¸t triÓn, Trung t©m häc liÖu céng ®ång. 3. Hoàng Trọng Phán, Trương Thị Bích Phượng, Cơ sở di truyền chọn giống thực vật. 4. Michael Dower, Ph¸t triÓn n«ng nghiÖp toµn diÖn, Nhµ xuÊt b¶n n«ng nghiÖp, n¨m 2001. 5. Vò §×nh Hoµ, Gi¸o tr×nh chän gièng c©y trång 6. NguyÔn ThÞ Xu©n, Chuyªn ®Ò: “Nh÷ng rµo c¶n c¬ giíi ho¸ ®èi víi n«ng nghiÖp ViÖt Nam”. 7. Mét sè thµnh tùu trong c«ng t¸c gièng n«ng nghiÖp giai ®o¹n 2001 - 2005 vµ ®Þnh h­íng s¾p tíi . 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2