YOMEDIA
ADSENSE
tiếng cười bác ba phi: phần 2
42
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
nối tiếp phần 1, phần 2 "tiếng cười bác ba phi" gốm các câu chuyện: thu hoạch lưỡi nai, trứng rồng ăn xảm xịt mà hôi mùi tro, ven rừng u minh thuở trước, căn bệnh da cổ của tui,... mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: tiếng cười bác ba phi: phần 2
Thu hoạch lưỡi nai<br />
Năm ấy, mấy chục công lúa tui đang cấy cặp mé rừng, tới mùa không còn thu hoạch được<br />
một hột để nhổ râu. Lúc lúa đứng cái, lũ nai kéo về cả bầy, ăn tới tới. Cất chòi giữ ngày<br />
giữ đêm, giật banh mất chục cái thùng thiếc mà chúng vẫn trơ trơ không sợ. Đánh bẫy,<br />
giặng giò bắt được một, thì chúng kéo lại hai. Nai chà tràn vô xóm rượt chém bò cổ, nhảy<br />
đực bò cái, đẻ ra con nào cũng có nhánh nhóc.<br />
Ai cũng bảo là chắc phải để xứ này cho nai ở. Tui nhất định không chịu thua, cố tìm hết<br />
cách để trị lũ nai này. Đêm đêm tui đi rình xem cách chúng ăn lúa. Nó ăn cũng như trâu bò<br />
ăn vậy thôi. Nghĩa là lưỡi cũng le ra, nghoéo gọn bụi lúa rồi giựt mạnh lên.<br />
Tui về nhà, ngồi suy nghĩ, nhủ thầm: “Như vậy là chết cha chúng mày rồi!”. Xách mác ra<br />
vườn, tui đốn những cây tre lồ ô mang vô. Tui lần lượt bập nhẹ nhẹ lưỡi mác vào cật cây<br />
tre rồi lẩy ra lấy một miếng cật tre dài cỡ chiếc đũa bếp, hai bề cạnh bén như nước. Làm<br />
tới chiều, tui đem ra ruộng, mỗi bụi lúa tui cắm vào giữa một miếng tre cho thật chắc. Làm<br />
xong về nhà, tui biểu mấy đứa nhỏ cứ việc ngủ cho thẳng giấc đi, đừng lo canh tuần gì<br />
nữa.<br />
Sáng bữa sau, tui chống chiếc xuống be ra ruộng. Tui xăn quần lội xuống, tay nắm be<br />
xuồng dắt tới, vừa đi vừa mò theo từng gốc lúc mà lượm lưỡi nai. Thứ tre lồ ô chẻ mỏng,<br />
cật bén như nước. Vô phúc cho con nai nào nhè ngoéo cái lưỡi vô đó mà giật lên thì thế<br />
nào cũng phải đứt lưỡi ra.<br />
Mùa đó, ngoài cái chuyện bán thịt lưỡi nai tươi cho bà con lối xóm nhậu chơi, tui còn phơi<br />
khô chở lên Sài Gòn bán cho cửa hàng mua để xuất sang Hồng Kông, Singgapo được một<br />
tấn hai lưỡi nai khô. Không tin thì hỏi bả thử coi. <br />
<br />
Trứng rồng ăn xảm xịt mà hôi mùi tro<br />
Số là hồi nẳm, trời hạn, hạn gì đến lung bàu, đìa ao… cả xứ này khô hết trọi. Tới tháng tư,<br />
tháng năm rồi mà mây trời cứ vần vũ hoài, không chịu mưa.<br />
Nhà tui thì có cụ bị sẵn sàng hàng trăn mái nước mưa để xài. Súc vật trong nhà tui đều cho<br />
uống bằng nước mưa hết thảy. Thường ngày, tui múc ba thau nước để dưới bóng mát chỗ<br />
bụi tre xiêm trước cửa cho gà vịt uống.<br />
Bữa đó tui thấy có mấy con rồng bay qua ngó dáo dác để tìm nước làm mưa. Có một con<br />
bay sau chót, vóc dáng coi bề sề, liếc mấy thau nước, coi mòi thèm lắm, nó le lưỡi ra liếm<br />
mép. Tui định bụng bắt một con rồng mần thịt ăn chơi. Tui lấy ba sợi dây niệt trâu nối lại;<br />
một đầu cột vô bụi tre xiêm, một đầu khoanh cái vòng tròn để trên miệng thau nước. Tui<br />
thay ba thau nước mưa thật trong.<br />
Bầy rồng đảo lại vòng sau, cái con rồng bề sề thèm nước đó liền hạ xuống, thọc mỏ vô<br />
thau nước uống liền. Tui để cái vòng dầy tròn đúng vô cổ nó, rồi cầm mác chạy ra nạt:<br />
“Rồng!”. Con rồng hoảng hồn bay lên. Nhưng bay sao được ! Nó càng giãy thì sợi dây<br />
niệt trâu càng siết cổ nó lại. Nó lăn lộn, đập đuôi ầm ầm, lôi bụi tre nghiêng ngả.<br />
Con rồng cái đang có chửa. Lúc đó, tui thấy sợi dây giãn ra kêu rắc rắc. Sợ đứt, tui liền<br />
nhào lại, nắm đuôi con rồng thọc mác vào bụng nó. Tui quyết lòng hạ nó, để lấy thịt nhậu<br />
một lần cho biết mà. Bị đau quá cỡ, nên con rồng nhào một cái thật mạnh, lọt ra bốn cái<br />
trứng và đứt luôn sợi dây. Nó lôi tui bay tuốt lên mây, chóng mặt quá, tui buông tay rớt<br />
xuống đất, chai chân luống sâu tới háng.<br />
Đến chừng nhổ hai chên lên được, tui lết lại chỗ bụi tre, lượm bốn trứng rồng đem vô.<br />
Trứng nào trứng nấy lớn bằng trái dừa khô vậy. Chiều bữa đó, tui luộc bốn trứng rồng<br />
chín, rồi mới chạy kêu lối xóm mời bà con để mỗi người ăn một miếng cho biết. Trứng<br />
rồng ăn có ra gì đâu, nó xảm xịt mà hôi mùi tro thấy mồ. Không tin hỏi bả thì biết! <br />
<br />
Ven rừng U Minh thuở trước<br />
Người ta nói ở Cạnh Đề: “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh”, chớ vùng<br />
này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: ” Ở đâu bằng xứ<br />
Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm”.<br />
Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy,<br />
lông ô, khoan cổ, chàng bè… ra tập “thể dục” rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng<br />
sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng<br />
làm “thầu hồ” nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là “tò le tét<br />
le”. Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra “dạ” rân. Đám vạc ăn đêm về<br />
ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, “nhảy mũi” hạt hạt. Trong vườn “đội<br />
nhạc công” chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu<br />
“toang toang”. Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt “thổi kèn Tây”; chị<br />
em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng<br />
nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng “nhảy mũi khìn khịt”. Tội<br />
nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên “tằng yết, tằng yết” sáng đêm. Trời vừa<br />
tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt “rèn” những cây phản<br />
gỗ nghe choảng choảng…<br />
Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm<br />
đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản “nhạc rừng hòa tấu”.<br />
Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ<br />
trống vịt xiêm, vịt đẻ… khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo.<br />
Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu<br />
“cạp cạp”. Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm<br />
núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì<br />
đêm đêm cất tiếng gáy vang : “Ò ó o… cúm ! Ò ó o… cúm!”. <br />
<br />
Căn bệnh da cổ của tui<br />
Coi vậy chớ da cổ tui không phải là lang beng hay trổ đồi mồi gì đâu nghe!<br />
Số là hồi đó, đất U Minh này còn cao, về mùa mưa, nước rừng đổ ra cuồn cuộn, màu đỏ<br />
thẫm như nước trà. Các kinh rạch nhỏ uốn éo tuôn nước ra sông Ông Đốc. Sông Ông Đốc<br />
đổ ra biển.<br />
Thưở ấy, hai bên bờ sông Ông Đốc là rừng dừa nước ken nhau chạy một mạch tới gần mé<br />
biển, rồi như giật mình dừng lại chới với… Con sông có chỗ rộng tới ba trăm mét. Đã nói<br />
con sông nước chảy mạnh như một con rắn nằm đập đuôi, nên ban đêm nhìn vào đầu cọc<br />
cừ nào cũng thấy chất lân tinh ánh lên tưng bừng sáng lòa. Con nước ròng xuống, những<br />
hàng cột đáy bị gió rung lên kêu o… o… Xuồng đi đường có dịp thả xuôi nước, qua ngang<br />
những ruộng đáy nghe đánh vèo một cái mà phát chóng mặt.<br />
Lần đó, tui cùng dượng Tư nó chèo chiếc ghe cà dom đi chợ Cà Mau mua ít xi mang về<br />
xài. Lỡ con nước, tụi tui phải về nước ròng đêm. Tui ở phía sau kềm lái, thả theo chiều<br />
nước xuôi băng băng. Đêm tối đen như mực, tui cứ nghểnh cổ nhìn theo làn sáng sáng trên<br />
trời mà lái theo đó.<br />
Ghe đang lao tới vun vút, tui bỗng nghe dượng Tư nó ngồi trước la: “Coi chừng gạt!” .<br />
Tức thì tai tui nghe cái “vèo”, thân thể nhẹ bỗng, ghe lủi tuốt lên mé bờ. Dượng Tư nó la<br />
bài hãi, tui tức quá, trả lời:<br />
- Tui không còn thấy đường nữa, sợi dây kẽm chằng cột đáy gạt văng cái đầu tui mất rồi.<br />
Tui nghe tiếng nói mình phát ra chỗ cần cổ chớ không phải chỗ cửa miệng. Nghe vậy,<br />
dượng Tư nó lật đật chạy lại mò cái đầu tháp lại cho tui, rồi ổng lấy hồ xi măng trét trét<br />
quanh cổ. Vì đêm hôm lụp chụp, với nữa không có cái bay nên ổng tô xi măng không láng<br />
được, đến bây giờ da cổ tui sần sượng vậy đó. Ai không tin làm thử coi thì biết. <br />
<br />
Cách bắt kỳ đà chết<br />
Giống kỳ đà ở rừng U Minh coi chạy như gà con vậy chớ không dễ gì bắt nó đâu. Một là<br />
chúng nhảy xuống sông lặn một hơi tới chiều chẳng chịu nổi lên, hai là có động, chúng<br />
chạy một cái rẹt, lẹ đến nỗi có một lần, con trước mặt dừng lại, con sau ngon trớn lao tới,<br />
đuôi con trước đâm vô họng con sau một cái trổ ra lỗ đít.<br />
Tui nghĩ ra một cách. Rủ dượng Tư nó vác ván ngựa ra chận trong rừng xa xa, ngoài mé<br />
ruộng thì kéo bảy tám con trâu chết bỏ đó làm mồi nhử chúng. Bọn chúng xuất rừng, từng<br />
bầy, bò lọm thọm ra, đến bên những xác trâu chết, chúng chia nhau từng tốp mà ăn quýnh<br />
quáng. Tụi tui dẫn bầy chó săn phục kích sẵn ở mấy lùm sậy gần đó, chờ cho chúng ăn<br />
thật no nê rồi mới nhảy ra. Dượng Tư nó nạt: “Kỳ đà!”. Bầy chó ùa tới. Bọn kỳ đà trực<br />
nhìn thấy, liền hè nhau mang cái bụng ột ệt đâm đầu chạy ngay vô rừng. Chúng chạy đến<br />
đâu mửa vãi thịt trâu ra đến đó. Tụi tui cứ ở sau đuôi mà rà tới. Chúng chạy hàng ngay<br />
như sợi chỉ giăng, đuôi con nào cũng ngay băng lại sau như cây chĩa. Lúc rượt sâu vô mé<br />
rừng, tui nghe con chạy trước đâm đầu vô tấm ván ngựa mình đã chắn sẵn một cái bụp.<br />
Tức thì nghe một tiếng “rô… ột” kéo dài phía sau. Từng hàng dọc kỳ đà thúc sát nhau như<br />
một khúc cây nằm dài; vì đuôi con này đâm vô họng con kia thấu hết ra đít. Một “khúc<br />
cây” kỳ đà như vậy đến mấy chục con. Chừng đó mình mặc sức mà về nhà đánh trâu ra<br />
cột kỳ đà về. <br />
<br />
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn