
TRƯỜNG ……………….
KHOA…………………..
-----[\[\-----
Tiểu luận
Đánh giá hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp và
đất đô thị

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ........................................................... 3
PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH ......................................... 4
I, ĐẤT CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ............................. 4
2,Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất KCN
.......................................................................................... 10
II, ĐẤT ĐÔ THỊ VIỆT NAM ........................................ 12
4, Phương hướng quan điểm và một số giải pháp hoàn
thiện công tác quy hoạch sử dụng đất đô thị . .............. 17
a. Định hướng phát triển ................................................ 17

PHẦN1:MỞĐẦU
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban
tặng cho con người. Đất đai là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động
kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà cón là tư liệu sản xuất
không thể thay thế được, đặc biệt là đối với các hoạt động sản xuất của con
người. . Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp
thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và
cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày
càng tăng về lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa,
xã hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất sử dụng
cho công nghiệp và đất đô thị có hạn chế về diện tích nhưng lại có nguy cơ
bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức của con người
trong quá trình sản xuất và sử dụng. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng
đất công nghiệp và đất đô thị từ đó quy hoạch các khu công nghiệp, các đô
thị đang trở thành vấn đề mang tính chất nóng bỏng được các nhà nghiên
cứu quan tâm. . Đối với một nước có nền công nghiệp đang trên đà phát triển
như Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng đất công nghiệp
nghiệp và đô thị càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất em tiến hành
làm bài tiểu luận: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất công nghiệp và đất đô
thị.

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
I, ĐẤT CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) vừa có đánh giá, việc bố trí sử
dụng đất tại các khu công nghiệp hiện nay chưa hợp lý và còn hiện tượng
lãng phí. Việt Nam hiện có khoảng 223 khu công nghiệp, trong đó, 171 khu
đã hoạt động với tổng diện tích 57.300ha.
Như vậy, trung bình mỗi khu công nghiệp có diện tích khoảng 250ha
với tỷ lệ lấp đầy 46% và vẫn còn nhiều diện tích để trống. Cũng theo Cục
Phát triển đô thị, việc sử dụng đất xây khu công nghiệp chưa được kiểm soát
về quy mô sử dụng cũng như tiêu chuẩn đất đai.
Trong khi đó, hiện tượng sử dụng lãng phí đất ở các khu công nghiệp
sẽ làm giảm quỹ đất phát triển đô thị trong tương lai bởi các khu công
nghiệp này thực chất là những điểm dân cư công nghiệp và cuối cùng sẽ trở
thành đô thị.
Tính đến cuối năm 2005, cả nước đã có 130 KCN và KCX được Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập với tổng diện tích đất trong hàng rào
KCN là 26.519,7ha, trong đó diện tích đất làm mặt bằng sản xuất để giao,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại là 17.730 ha, chiếm 67%, diện tích
đất đã có người sử dụng là 8.853,7 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 50%. Ngoài các
KCN, KCX do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, còn có trên 200
cụm công nghiệp do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành lập với tổng diện tích là 13.991 ha, chiếm 27,27% tổng diện tích đất
KCN của cả nước.
Việc phân bố các KCN, KCX tập trung chủ yếu tại 20 tỉnh, thành phố
thuộc ba vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ (các
KCN thuộc ba vùng kinh tế này chiếm trên 70% số lượng và trên 80% diện
tích các KCN của cả nước). Trong 3 cùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế
trọng điểm Nam bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp.Hồ Chí
Minh, Tây Ninh, Long An, tiền Giang) có 63 KCN với tổng diện tích đất

trong hàng rào là 15.680 ha (chiếm gần 50% số lượng và gần 60% diện tích
KCN của cả nước).
1,Tình hình sử dụng đất KCN
Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phát triển các KCN, có liên
quan chặt chẽ đến hệ thống hạ tầng quốc gia (sân bay, bến cảng, đường
bộ...), dự báo dòng vốn đầu tư (đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam), định dướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển các ngành
công nghiệp và kết quả sản xuất, kinh doanh của các KCN hiện có. Về cơ
bản một số địa phương đã có quy hoạch sử dụng đất hợp lý để phát riển
KCN theo hướng đưa đất chưa sử dụng hoặc đất sử dụng không có hiệu qủa
vào phát triển các KCN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều địa phương sử dụng đất
chuyên trồng lúa, đất trồng cao su, đất có khả năng sản xuất nông nghiệp,
đất đang có khu dân cư tại những vị trí có hạ tâng kỹ thuật tốt để xây dựng
các KCN (như ở Hưng Yên, Hải Dương, Đồng Nai, Long An, v.v.), trong
khi đó có thể lựa chọn giải pháp đầu tư thêm hạ tầng kỹ thuật để đưa các loại
đất khác vào xây dựng các KCN.
Thông thường thời gian xây dựng các KCN có quy mô diện tích từ 50
Ha tới 100 ha kéo dài từ 2 đến 3 năm, có quy mô diện tích lớn hơn 100 ha
kéo dài từ 4 đến 5 năm. Nói chung, các dự án đầu tư xây dựng các KCN đạt
được tiến độ theo dự án đã được phê duyệt. Bên cạnh đó, một số địa phương
vẫn đang còn tình trạng “quy hoạch chạy theo doanh nghiệp”. Một số nhà
đầu tư tự khảo sát thực địa để lựa chọn địa điểm; sau đó hoặc đề nghị chính
quyền địa phương cho phép lập dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu
hạ tầng KCN, UBND cấp tỉnh bổ sung dự án vào danh mục quy hoạch sử
dụng đất để xây dựng KCN. Cơ chế này được triển khai tại KCN Việt hương
II (Bình Dương), Đức Hòa III (Long An) và một số khu khác nữa. Điều này
thể hiện sự lúng túng của chính quyền địa phương trong việc chủ động quy
hoạch phát riển KCN, quy hoạch sử dụng đất chưa trở thành công cụ để
quản lý đất đai. Cách làm tìm thấy nhà đầu tư rồi mới tìm đất xây dựng phù
hợp với ý nhà đầu tư chính là một trong những nguyên nhân gây nên sự
thiếu đồng bộ trong việc bố trí các KCN đồng bộ với quy hoạch phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN cũng như
giải quyết vấn đề để bảo vệ môi trường.
Đến nay, trong tổng số 130 KCN (tính đến cuối năm 2005) đã được
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập có hiện trạng như sau: 72 KCN
và KCX đã hoàn thiện xong việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
(đang vận hành) với diện tích đất trong hàng rào 16.383 ha, trong đó diện
tích đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh là 11.115 ha (chiếm 67,8% diện

