intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận khoa Kinh tế - Quản trị: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

79
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của bài tiểu luận gồm có 3 phần: Khái niệm và các thành phần của chính sách quản lý nguồn nhân lực, thực trạng chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, một số giải pháp nhằm hòan thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận khoa Kinh tế - Quản trị: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

  1. KHOA KINH TẾ ­ QUẢN TRỊ BỘ MÔN QUẢN TRỊ ­­­­­ TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC Đề tài: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn   nhân lực Việt Nam. 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng   với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi  hỏi nguồn nhân lực ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng để  đáp   ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, tạo điều kiện để  đất nước phát triển   nhanh và bền vững . Để  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải tiến hành đào  tạo và phát triển nguồn nhân lực chủ  yếu là thông qua giáo dục. Vì vậy để  thực   hiện có hiệu quả quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần phải có những   chính sách cụ  thể  để  hướng dẫn thực hiện. quá trình đào tạo và phát triển nguồn  nhân lực có hiệu quả. Vì vậy em thực hiện đề tài: “Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân  lực Việt Nam” nhằm có những hiểu biết về  các chính sách đào tạo và phát triển   nguồn nhân lực và tình hình thực hiện các chính sách đào tạo và phát triển nguồn  nhân lực ở Việt Nam hiện nay.  Nội dung chính của bài tiểu luận gồm có 3 phần: I. Khái niệm và các thành phần của chính sách quản lý nguồn nhân lực. II. Thực trạng chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. III. Một số giải pháp nhằm hòan thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn   nhân lực. 2
  3. NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC THÀNH PHẦN CỦA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ  NGUỒN NHÂN LỰC 1. Các khái niệm cơ bản 1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong ba yếu tố của quá trình  sản xuất, cung cấp sức lao động cho xã hội tạo ra của cải vật chất cho xã hội.  Nguồn nhân lực được xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau nên có những khái  niệm khác nhau. Tiếp cận dựa trên khả  năng lao động của con người: Nguồn nhân lực bao   gồm tất cả những người có cơ thể phát triển bình thường có khả năng lao động. Tiếp cận dựa vào khả năng lao động và giới hạn tuổi lao động: Nguồn nhân   lực bao gồm tất cả những người từ đủ  15 tuổi trở lên, có khả  năng lao động không  kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm. Tiếp cận theo cách hiểu của các nhà kinh tế: Nguồn nhân lực là tổng thể  những tiềm năng của con người của một quốc gia có trong một thời kỳ  nhất định.  Tiềm năng đó bao gồm tổng hòa năng lực về  thể  lực, trí lực, nhân cách của con  người đáp ứng một cơ cấu do nền kinh tế ­ xã hội đòi hỏi (về số lượng, chất lượng   và cơ cấu). Như  vậy nguồn nhân lực bao gồm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là tất cả  những người trong độ  tuổi lao động có khả  năng lao động. Bộ  phận thứ  hai là  3
  4. những người ngoài độ tuổi  lao động, có khả năng lao động và có nhu cầu tham gia  lao động. Khi nghiên cứu về  nguồn nhân lực không chỉ  xem xét về  mặt số  lượng mà  phải xem xét cả về mặt chất lượng nguồn nhân lực bao gồm sức khỏe, trình độ học  vấn, trình độ chuyên môn lành nghề, năng lực, phẩm chất và thái độ  lao động của   cá nhân người lao động, cũng như phải xem xét cả về mặt cơ cấu nguồn nhân lực.  Chất lượng nguồn nhân lực còn phụ  thuộc vào cơ  cấu đội ngũ lao động, trình độ,   năng lực tổ chức và quản lý, khả năng phối hợp để thực hiện các mục tiêu đặt ra.  1.2. Khái niệm quản lý nguồn nhân lực “Quản lý nguồn nhân lực là tìm mọi cách tạo thuận lợi cho mọi người trong   tổ  chức hoàn thành tốt các mục tiêu chiến lược và các kế  hoạch của tổ  chức, tăng   cường cống hiến của mọi người theo hướng phù hợp với chiến lược của tổ chức,   đạo đức và xã hội”. [ 5, tr29]. Ở cấp độ vi mô tổ chức ở đây là: tổ sản xuất, phân xưởng, phòng ban, doanh  nghiệp. Và các hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở cấp độ  này bao gồm các hoạt   động tuyển mộ  tuyển chọn, bố  trí lực lao động trong tổ  chức, tổ  chức đào tạo và  phát triển lao động … nhằm đảm bảo một lực lượng lao động đáp  ứng được yêu   cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng. Ở  cấp độ  vĩ mô thì tổ  chức  ở  đây có thể  là địa phương, quốc gia, có thể  là  khu vực và quốc tế. Và hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở  đây bao gồm một số  hoạt động như  quyết định các chính sách quốc gia, kế  hoạch về  nguồn nhân lực,   phân bổ sử dụng lao động toàn xã hội. Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản  pháp luật lao động và kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động … Và các hoạt   động trên nhằm tạo ra một lực lượng lao động đủ  về  số  lượng và cao về  chất   lượng, có cơ cấu hợp lý đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Như vậy, Quản lý nguồn nhân lực là một quá trình phải được xem xét trong  mối quan hệ không thể tách rời giữa các quá trình: Phát triển nguồn nhân lực, phân  bố nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực. 1.3. Khái niệm đào tạo 4
  5. “Đào tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động  có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng nhiệm vụ của mình”.[1, tr161] Đào tạo là những hoạt động học tập được diễn ra trong thời gian ngắn hạn   nhằm cung cấp cho người lao động những kiến thức, kỹ  năng chuyên sâu hơn về  công việc hiện tại, củng cố  và  bổ  sung những kiến thức và  kỹ  năng,  trình độ  chuyên môn còn thiếu hụt của người lao động. Đó là các hoạt động học tập nhằm  nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện có hiệu quả  hơn công việc hiện tại. 1.4. Khái niệm phát triển. “Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước   mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ  sở  những định hướng tương lai của tổ chức” [1, tr161]  Như  vậy phát triển là các hoạt động học tập nhằm cung cấp những kiến  thức, kỹ  năng, năng lực cho người lao động khi họ  chuẩn bị  bước vào công việc   mới với những đòi hỏi, yêu cầu cao hơn về  trình độ  chuyên môn lành nghề  trong  công việc. Phát triển chủ  yếu là chuẩn bị  cho người lao động những kiến thức kỹ  năng về công việc trong tương lai. 1.5. Khái niệm chính sách Chính sách là một trong những công cụ  chủ  yếu mà Nhà nước sử  dụng để  quản lý nên kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách cụ thể là một tập hợp các giải pháp  nhất định để  thực hiện các mục tiêu bộ  phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu   chung của sự phát triển kinh tế ­ xã hội. 1.6. Chính sách quản lý nguồn nhân lực Chính sách quản lý nguồn nhân lực là công cụ  để  quản lý nguồn nhân lực  gồm các chế độ, các biện pháp, các qui định cụ thể tác động đến hành vi lao động,  thái độ lao động của người lao động để đạt được các mục tiêu đã được đặt ra. 1.7. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là công cụ để quản lý nguồn   nhân lực, bao gồm các chế độ, các qui định cụ thể về quá trình đào tạo và phát triển   5
  6. nguồn nhân lực nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng trình độ của người lao động để  họ có thể thực hiện có hiệu quả công việc hiện tại cũng như chuẩn bị những kiến   thức, kỹ năng, năng lực để họ có thể đảm nhiệm những công việc ở vị  trí cao hơn   trong nghề nghiệp của bản thân họ.  2.  C   ấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực   Cấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực gồm các phần  sau: ­ Mục tiêu của chính sách ­ Đối tượng áp dụng cúa chính sách. ­ Các nội dung chủ yếu của  chính sách ­ Việc tổ chức thực hiện chính sách. ­ Việc kiểm tra giám sát tình hình thực hiện chính sách 3. Phân loại chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 3.1. Phân loại theo phạm vi điều chỉnh của chính sách ­ Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực  ở   phạm vi quốc gia.   Đây là những qui định, chế độ do Nhà nước ban hành nhằm nâng cao năng lực   về  mọi mặt kỹ  năng, kiến thức và tinh thần và cơ  cấu nguồn nhân lực để  có   thể tham gia một cách có hiệu quả vào quá trinh phát triển quốc gia. ­   Chính   sách   đào   tạo   và   phát   triển   nguồn   nhân   lực   ở   phạm   vi   địa   phương:  là   những chính   sách  do cơ   quản  quản lý   ở   địa  phương   ban hành   nhằm tổ chức, thực hiện, quản lý việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở   địa phương. ­ Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi ngành:   là những chính sách do các Bộ  ban hành nhằm tổ  chức thực hiện và quản lý   hoạt động đào tạo nguồn nhân lực mà cụ  thể  là lực lượng lao động đang làm   việc trong các ngành cả  về  mặt số  lượng và chất lượng để  có thể  đáp  ứng   được yêu cầu phát triển của ngành. 6
  7. ­ Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi doanh   nghiệp: là những chính sách của doanh nghiệp nhằm tổ chức đào tạo nâng cao   kiến thức, kỹ  năng, trình độ  chuyên môn lành nghề  cho người lao động đang   làm việc trong doanh nghiệp để họ có thể làm việc có hiệu quả hơn trong công   việc hiện tại cũng như chuẩn bị những kiến thức kỹ năng cho những công việc   ở vị trí cao hơn trong tương lai. 3.2. Phân loại theo đối tượng thụ hưởng chính sách Cùng với việc ban hành những chính sách chung áp dụng cho toàn bộ nguồn   nhân lực, Nhà nước còn ban hành những chính sách riêng áp dụng đối với từng  nhóm người lao động tùy theo mục tiêu nhiệm vụ  phát triển đất nước trong từng  thời kỳ. Trong thời kỳ hiện này, nước ta ban hành những chính sách đào tạo và phát  triển nguồn nhân lực cho nhưng nhóm đối tượng đặc thù sau:   ­ Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khu vực quản lý hành chính  Nhà nước.    ­ Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học ­ công nghệ.    ­ Chính sách đào tạo và phát triển đội ngũ các doanh nhân.    ­ Chính sách đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trình độ cao. 3.3. Phân loại theo qui trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ­ Chính sách thu hút trước khi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đó   là các chính sách nhằm tạo các điều kiện thuận lợi để  thu hút, khuyến khích   mọi người tham gia vào quá trình đào tạo và phát triển nhằm nâng cao kiến   thức, trình độ chuyên môn lành nghề, kỹ năng. Các chính sách đó bao gồm chính   sách về đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm đáp ứng được các yêu cầu của   xã hội. Các Chính sách ưu tiên đối với đối tượng chính sách, gia đình khó khăn   như  cộng điểm  ưu tiên, miễn giảm học phí tạo điều kiện cho họ  được học   tập. Ngoài ra còn có chế độ học bổng đối với những học sinh đạt kết quả  cao   trong học tập nhằm khuyến khích động viên sinh viên học tập. Còn có chính   sách tổ chức quản lý quỹ tín dụng cho sinh viên… 7
  8. ­ Chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đây là các chính   sách nhằm tổ chức, tiến hành và quản lý quá trình đào tạo và phát triển nguồn   nhân lực bao gồm chính sách về  kinh phí cho quá trình đào tạo và phát triển,   chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách về xây dựng đội ngũ cán bộ   giảng viên đủ về số lượng và cao về chất lượng, tổ chức đào tạo nâng cao trình   độ cho đội ngũ cán bộ giảng viển. chính sách về thiết kế nội dung và phương   pháp dạy học. ­ Chính sách sau đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đây là những   chính sách sắp xếp, bố  trí, sử  dụng những người đã được đào tạo một cách   hợp lý để có thể phát huy những kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn lành   nghề, năng lực của họ thực hiện công việc phù hợp với năng lực trình độ  của   họ. II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN  NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM 1. Thực trạng chính sách thu hút đầu vào trước khi đào tạo và phát triển   nguồn nhân lực ở Việt Nam. 1.1. Các chế  độ  chính sách  ưu tiên về  cộng điểm khi tuyển sinh cho thí   sinh theo khu vực. Nước ta hiện nay là một nước đang phát triển nên nhiều vùng địa phương   điều kiện kinh tế chưa phát triển, cơ sở hạ tầng về giáo dục ở những vùng này còn   rất thiếu thốn, có những nơi học  sinh phải  đi từ  sáng đến trưa mới đến được  trường lớp. Đồng thời do sự  chênh lệch về  mức sống giữa các vùng. Có những   vùng người dân phải lo kiếm sống để đảm bảo cuộc sống nên không có điều kiện   học tập. Do đó ở những vùng đó điều kiện học tập không thể bằng những khu vực  thành thị có điều kiện học tập tốt. Chính vì vậy trong khi tuyển sinh Bộ giáo dục và  đào tạo có chế  độ   ưu tiên về  điểm cho những thí sinh thuộc những vùng có điều  kiện khó khăn để  nhằm đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều  kiện cho các thí sinh ở khu vực khó khăn có cơ hội học đại học. 8
  9. Khi tuyển sinh vào đại học, các thí sinh được phân chia theo các khu vực 4  khu vực: “Khu vực 1 (KV1) gồm các xã, thị  trấn thuộc miền núi, vùng cao, vùng sâu,  hải đảo, trong đó có các xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế ­ xã hội đặc biệt khó   khăn theo quy định của Chính phủ. Các thí sinh thuộc KV 1 được cộng 1,5 điểm xét  tuyển. ­ Những thí sinh thuộc khu vực 2 (KV2) gồm các thành phố  trực thuộc tỉnh   (không trực thuộc Trung  ương); các thị  xã; các huyện ngoại thành của thành phố  trực thuộc Trung ương sẽ được ưu tiên cộng 0,5 điểm xét tuyển   ­ Các thí sinh thuộc khu vực 2 ­ nông thôn (KV2­NT) gồm các xã, thị  trấn   không thuộc KV1, KV2, KV3 sẽ được cộng 1 điểm xét tuyển ­ Khu vực 3 (KV3) gồm: Các quận nội thành của thành phố trực thuộc Trung  ương. Thí sinh thuộc KV3 không thuộc diện hưởng ưu tiên khu vực”.[11, tr8] Dân số  nước ta chủ  yếu tập trung  ở nông thôn, theo số  liệu của Tổng cục  thống kê năm 2005 thì dân số   ở  khu vực nông thôn chiếm 73,03% tổng dân số  cả  nước, do đó phần lớn dân số vẫn đang phải sống trong điều kiện kinh tế xã hội còn   nhiều khó khăn và thiếu thốn. Hàng năm về  số  lượng thí sinh dự  thi đai học, cao   đẳng thì số thí sinh thuộc các khu vực được cộng điểm ưu tiên theo khu vực chiếm  82%[10.9] trong tổng số thí sinh dự thi. Như vậy, nếu không còn chế độ ưu tiên khu  vực đối với các đối tượng nêu trên thì sẽ làm cho đa số thí sinh dự thi đại học, cao   đẳng phải chịu thiệt thòi, cánh cửa vào học các trường đại học và cao đẳng sẽ  trở  nên hẹp lại. Từ  đó không có cơ  hội để  nâng cao trình độ, kiến thức kỹ  năng cho   người lao động  ở  các khu vực kinh tế  khó khăn. Ví dụ  như  đợt tuyển sinh 2005,   khoảng cách điểm chênh lệch giữa đối tượng được ưu tiên cao nhất với đối tượng   thuộc KV 3 là 3,5 điểm, nhờ vậy nhiều thí sinh ở KV1, KV2, KV2­NT đã vượt qua  được các thí sinh ở KV 3 để vào học các trường đại học và cao đẳng. Chính sách  ưu tiên về  cộng điểm khi tuyển sinh đại học cho các thí sinh  ở  các khu vực khó khăn là một trong những chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện  cho những thí sinh ở các khu vực mà cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn có thể  thi  đỗ và theo học  ở  các trường đại học, cao đẳng. Do vậy, qui chế  tuyển sinh không  9
  10. thể bỏ đi đối tượng ưu tiên này mà cần phải mở rộng đối tượng ưu tiên không chỉ  có thí sinh thuộc vùng kinh tế  xã hội đặc biệt khó khăn mà cần có cả  số  thí sinh   thuộc vùng kinh tế khó khăn.  1.2. Chính sách về  miễn giảm học phí cho sinh viên thuộc đối   tượng   chính sách, gia đình khó khăn. Để nhằm giảm bớt khó khăn về mặt kinh tế, cũng như thể hiện sự biết biết  ơn của nhà nước đối với những người có công với cách mạng, hiện nay nhà nước   ta có chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên thuộc đối tượng chính sách, gia  đình có công với cách mạng, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn có để  họ  điều kiện  theo học ở các trường đại học và cao đẳng.  Chính sách miễn học phí là chính sách mà đối tượng của chính sách sẽ  được  miễn phí tòan phần về học phí. Ở nước ta hiện nay chế độ miễn học phí toàn phần  được áp dụng anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang và thương binh khi  theo học đại học và cao đẳng. Con thương binh, bệnh binh, con người được hưởng   diện chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 61% đến 80% [9]. Các đối   tượng này được áp dụng mức miễn học phí toàn phần nhằm thế hiện sự quan tâm  của nhà nước đến những người có công với cách mạng. đồng thời cũng giảm bớt  gánh nặng về vấn đề  học phí cho các đối tượng này khi phần lớn là có hoàn cảnh  khó khăn. Chế  độ  miễn học phí còn được áp dụng đối với các sinh viên mồ  côi cả  cha   lẫn mẹ không có nơi nương tựa, những người bản thân bị  thương tật, có khó khăn  về  kinh tế, khả năng lao động bị  suy giảm từ  21% trở  lên và có xác nhận của hội   đồng y khoa. Những đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, hàng   ngày họ  phải làm việc để  có thể  kiếm tiền nuôi sống bản thân, tiền để  trang trải   cho các sinh hoạt hàng ngày như  nơi  ở, tiền ăn, tiền sách vở…Đối với các đối   tượng này thì chính sách miễn học phí thể  hiện sự  quan tâm của xã hội đối với   những hoàn cảnh khó khăn, nhằm góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Đối tượng được hưởng chính sách miễn học phí còn gồm những sinh viên có  cả  cha mẹ  thường trú tại hải đảo hoặc vùng sâu, vùng cao từ  3 năm trở  lên theo   10
  11. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. và gia đình thuộc diện nghèo đói có thu nhập  bình quân đầu người thường dưới 13 kg gạo. Đây là những gia đình có hoàn cảnh   đặc biệt khó khăn, sinh sống ở những nơi điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển,   cơ sở hạ  tầng còn thiếu thốn, đặc biệt là cơ  sở hạ  tầng về  giáo dục còn rất thấp.   Rất ít người  ở  đây được học tập và có thể  theo học đến các bậc học cao như  đại  học cao đẳng. Chính vì vậy khi có thể thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng đã  là một sự cố gắng rất lớn từ phía các sinh viên này. Nếu như không có chế độ miễn   học phí đối với các đối tượng này với mức tiền học phí là 180000 đồng/sinh viên/  tháng như hiện nay và có thể tăng lên trong tương lai thì chắc chắn những sinh viên   này sẽ  phải thôi học. Nhờ  có chính sách này mà đã khuyến khích được các đối  tượng này cố gắng học tập, nâng cao trình độ để sau này có thể cải thiện tình trạng   khó khăn của gia đình. Nhà nước còn có chế độ miễn học phí cho  sinh viên hệ chính quy tập trung   ngành sư phạm khi vào học có cam kết sau khi tốt nghiệp phục vụ trong ngành Giáo   dục đào tạo nhằm thu hút, tạo điều kiện cho sinh viên sư phạm sau khi ra trường sẽ  phục vụ cho ngành giáo dục, từng bước tăng số lượng giáo viên. Bên cạnh chính sách miễn học phí, Nhà nước còn có chính sách giảm 50%   học phí cho các đối tượng sinh viên là con của thương binh; con của bệnh binh và   người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 21 đến 60 %. Con  cán bộ  công nhân viên chức mà cha hoặc mẹ  bị  tai nạn lao động được hưởng trợ  cấp thường xuyên. Có gia đình (gia đình, cha, mẹ  hoặc người nuôi dưỡng) thuộc   diện hộ  nghèo theo qui định hiện hành của nhà nước. Hộ  nghèo là hộ  có mức thu   nhập bình quân đầu người hàng tháng quy đổi ra gạo: Dưới 25kg gạo  ở  thành thị;   Dưới 20kg gạo  ở  nông thôn vùng đồng bằng và trung du; Dưới 15kg gạo  ở  nông  thôn miền núi. Một thực trạng hiện  nay đang gặp phải đối với việc thực hiện chế độ miễn  giảm học phí cho đối tượng chính sách, gia đình khó khăn đó là hiện này không có   qui định bắt buộc các trường ngoài công lập thực hiện miễn giảm như  các trường   công lập. Các trường ngoài công lập không được nhà nước cấp ngân sách nên việc  miễn giảm học phí tùy thuộc vào khả năng của từng trường. Trong khi đó hàng năm   11
  12. có rất nhiều thí sinh thuộc diện đối tượng chính sách dự  thi đại học và cao đẳng   nhưng không đỗ vào các trường công lập mà theo học ở các trường ngoài công lập  với mức học phí cao hơn rất nhiều so với các trường công lập ( ví dụ  như đại học  dân lập Văn Lang mức cao nhất là 4.400.000 đ) dẫn đến tình trạng không ít sinh  viên học trong tư thế cầm cự chờ đợi đợt thi sau.  1.3. Chế độ trợ cấp xã hội Ngoài chế độ về  miễn giảm học phí cho đối tượng chính sách, nhà nước còn   ban hành chế độ trợ cấp cho các đối tượng sau: ­ Sinh viên là người dân tộc ít người, liên tục  ở  vùng cao (KV3) hoặc có hộ  khẩu thường trú  ở  vùng cao (KV3) ít   nhất lên 3 năm trở  lên (tính đến thời điểm  nhập học tại trường); sinh viên lên người mồ côi cả cha lẫn mẹ không   nơi nương  tựa, không có người đỡ đầu chính thức, người trợ cấp thường xuyên.  ­ Sinh viên là gười tàn tật theo quy định của nhà nước lênngười gặp khó khăn  về kinh tế, khả năng lao động bị suy giảm từ 41% trở lên do tàn tật được Hội đồng  Y khoa có thẩm quyền xác định. ­ Sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, vượt khó học tập, gia   đình thuộc diện xóa đói giảm nghèo phải xuất trình giấy tờ thuộc hộ xóa đói giảm  nghèo do Sở LĐ ­ TB và XH cấp). Theo chế độ này thì hàng tháng mối sinh viên sẽ được hưởng mức trợ cấp xã  hội là 140.000 đồng. Chế độ  này nhằm góp phần giảm phần nào khó khăn về  mặt  kinh tế, giúp cho sinh viên có một khoản tiền để  trang trải cho cuộc sống hàng  ngày, để có thể có điều kiện học tập. Đồng thời để  khuyến khích sinh viên học tập thì ngoài mức trợ  cấp xã hội  hàng tháng những sinh viên thuộc diện trợ  cấp xã hộ  nếu kết quả  học tập đạt từ  loại khá trở lên còn được nhận thêm phần thưởng khuyến khích học tập lấy từ kinh   phí học bổng với các mức là: bằng 140% mức học bổng khuyến khích toàn phần  nếu đạt loại xuất sắc; bằng 90% mức học bổng khuyến khích toàn phần nếu đạt   loại giỏi và bằng 30% mức học bổng khuyến khích toàn  phần nếu đạt loại khá. 12
  13. Như vậy, mục đích của chế độ trợ cấp xã hội là hỗ trợ phần nào về kinh tế  cho sinh viên có điều kiện khó khăn có thể theo học ở các bậc đại học và cao đẳng,  tạo điều kiện cho họ có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn.  1.4. Chính sách học bổng dành cho những sinh viên có kết quả  học tập   tốt. Chính sách học bổng khuyến khích được cấp cho những sinh viên có kết quả  học tập và rèn luyện tốt  để  nhằm khuyến khích thúc đẩy, động viên sinh viên cố  gắng phấn đấu học tập. Hiện nay, học bổng khuyến khích học tập  hiện có 3 mức   và được áp dụng cho 3 loại đối tượng đó là “mức 120.000đ/ tháng đối với sinh viên  có kết quả  học tập và rèn luyện từ  7,0 đến cận 8,0; mức 180.000đ/tháng đối với   loại giỏi từ 8,0 đến cận 9,0. và mức 240.000đ/tháng đối với loại xuất sắc đạt điểm  từ 9,0 trở lên”[10]  Hiện nay chế  độ  học bổng khuyến khích học tập của nước ta còn ít về  số  lượng chỉ có 3 mức. Đồng thời giá trị  của mức học bổng còn rất thấp chỉ đủ  trang   trải một phần cho học phí, không có đủ để chi trả cho việc ăn ở, mua sách vở. Với   mức học phí đại học trong các trường công lập hiện nay là 180.000đ/ tháng như  hiện nay thì chỉ  có những sinh viên đạt loại xuất sắc mới được hưởng mức học   bổng cao hơn mức học phí hàng năm, nhưng mức cao hơn này cũng chỉ  rất nhỏ  không đủ để trang trải bớt những chi phí học tập cho sinh viên, mặt khác số lượng   sinh viên đạt kết quả xuất sắc và được hưỏng mức học bổng này thường chiếm tỷ  lệ rất nhỏ trong tổng số sinh viên được hưởng loại học bổng này. Còn những sinh   viên đạt loại khá và giỏi thì mức học bổng chỉ  vừa bằng mức học phí phải đóng  hàng tháng hoặc ít hơn.  Một vấn đề  nữa đối với chính sách này đó là học bổng hiện nay chủ  yếu   được cấp dựa vào kết quả học tập của sinh viên. Do đó vấn đề đặt ra là những sinh   viên con nhà giàu thường có đủ điều kiện để học tập, nên kết quả học tập thường   cao hơn những sinh viên có điều kiện khó khăn ngoài thời gian học tập còn phải  tham gia làm thêm nhiều công việc để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống và chi phí  13
  14. học tập cho nên điều kiện học tập và kết quả  học tập đạt được không thể  bằng  những sinh viên có điều kiện học tập. Chính vì vây, các học bổng này thường do  các sinh viên con nhà giàu có đủ điều kiện học tập chiếm hết. Hiện nay vẫn tồn tại tình trạng là những sinh viên giỏi công lập  được Nhà  nước cấp học bổng, còn sinh viên giỏi trong các trường ngoài công lập lại không  được trong khi họ cũng học giỏi. 1.5. Thành lập quỹ tín dụng sinh viên nhằm hỗ trợ cho sinh viên có hoàn   cảnh khó khăn vay vốn học tập. Quỹ tín dụng sinh viên được thành lập năm 1995 theo chỉ đạo của Thủ tướng   Chính phủ  nhằm hỗ  trợ  học sinh, sinh viên có điều kiện khó khăn được vay vốn  học tập. Hàng năm, nhiều trường đại học chứng nhận cho khoảng 5% sinh viên là   sinh viên nghèo vay vốn Nhà nước để  đảm bảo điều kiện học tập. Nếu tất cả số  sinh viên này được vay với mức 3 triệu đồng/năm thì mỗi năm Nhà nước cần chi  cho sinh viên vay khoảng 100 tỷ đồng và sẽ tạo điều kiện học tập đến cho khoảng   40 nghìn sinh viên.  Tính đến tháng 5/2002 Quy đã cho 41.534 HS ­ SV/126.789 HS ­ SV trong   diện được vay vốn (trong tổng số 471.562 HS ­ SV trên toàn quốc) vay vốn để học   tập. Tuy nhiên nguồn hình thành quỹ  là do các ngân hàng phải đóng góp theo chỉ  thị của Thủ tướng Chính phủ, nhưng do chỉ thị không bắt buộc, việc góp vốn hoàn   toàn mang tính tự nguyện  vì đối tượng vay là sinh viên, lãi suất thấp, rủi ro cao và   chủ yếu là mang tính chất xã hội nên các ngân hàn không hào hứng tham gia. Chính  vì vậy cho đến hiện nay thì quỹ đã cạn kiệt và trong tình trạng chi vượt thu. Cụ thể  là đến ngày 30/6/2002 tổng số  vốn của quỹ là 65,5 tỷ  dồng, trong khi số  tiền cho   vay là 76,6 tỷ đồng và khoản tiền thu nợ là 6,5 tỷ đồng. Như vậy, quỹ tín dụng sinh  viên đã phải cho vay vượt quá nguồn vốn thực có là 4,6 tỷ đồng. Như vậy nêu trong  thời gian tới, nhà nước không có những biện pháp nhằm thu hút và bổ sung vốn cho  14
  15. quỹ thì sẽ có hàng chục nghìn sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, cao   đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước có thể  phải thôi học vì  không có tiền để trang trải cho chi phí học tập.  2.  Th   ực trạng chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực  ở   Việt Nam. 2.1. Thực trạng chính sách về các nguồn kinh phí để  tổ  chức thực hiện   quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Để  tổ  chức quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì cần phải có  kinh phí để thực hiên. Hiện nay nguồn kinh phí này được huy động thông qua nguồn  vốn ngân sách do nhà nước cấp hàng năm, học phí do học sinh và gia đình học sinh  đóng góp. Hàng năm tỷ lệ  % ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo liên tục   tăng lên qua các năm. Cụ thể là năm 2002 chiếm 12,04%; năm 2003 là 12,63%; năm  2004 là 17,1%, năm 2005 là 18% và năm 2006 là 20%. Tuy tỷ lệ ngân sách nhà nước  hàng năm cấp cho giáo dục đào tạo có tăng nhưng với số lượng trường đại học cao   đẳng ngày càng tăng lên như  hiện nay thì lượng vốn ngân sách nhà nước cấp cho  mỗi trường hầu như tăng không đáng kể, trong khi đó hầu hết số vốn ngân sách nhà  nước này được dùng để  chi trả  lương cho giáo viên khoảng 85% ngân sách nhà   nước chi cho giáo dục, nên phần đầu tư  cho xây dựng cơ  sở  hạ  tầng trường lớp,  nâng cao chất lượng đào tạo còn rất hạn chế. Chính vì vậy các trường phải trông  chờ nhiều vào nguồn thu học phí.  Tuy nhiên với mức học phí hiện nay mà mỗi sinh viên phải đóng là 1,8 triệu   đồng/ năm là còn rất thấp so với mức chi phí đầu tư  bình quân cho một sinh viên  trường đại học công lập là khoảng 9 triệu đồng / năm, phần còn lại là do Nhà nước   bao cấp. Điều này thực tế không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Với mức đầu tư do ngân sách nhà nước cấp  và mức thu từ học phí hiện này   thì các trường đại học vẫn luôn trong tình trạng thiếu kinh phí, và phải co kéo giữa  cac khoản thu chi để  đủ  được chi phí đào tạo. Chính vì vậy dẫn đến không có   nguồn chi cho các yêu cầu học tập, thí nghiệm và trả lương đầy đủ hoặc cao để thu  hút cán bộ giảng dạy có chất lượng. Do đó để  có thể  tăng nguồn kinh phí cho đào   15
  16. tạo thì một phương án đề ra và đang được xem xét hiện nay là điều chình tăng học  phí nhằm khai thác nguồn lực sẵn có của  người dân để đóng góp vào việc nâng cao   chất lượng đào tạo. Nhưng một vấn đề  đặt ra là nếu tăng học phí sẽ  dẫn đến tình  trạng rất nhiều sinh viên có điều kiện khó khăn sẽ phải thôi học vì không có đủ khả  năng tài chính để theo học. Đồng thời ngân sách cho giáo dục đào tạo (  ở  các trường đại học công lập   hiện nay vẫn theo cách cấp phát thường niên theo như dự tóan của các trường được   tính dựa trên cơ sở đầu vào hay chỉ tiêu đào tạo được giao hàng năm. Trong khi đó   đầu vào lại do Bộ  chủ  quản quyết định. Như  vậy thực chất số  lượng ngân sách  cuối cùng vẫn do Bộ chủ  quản quyết định. Các đơn vị  đào tạo đại học hàng năm  lập dự  toán như  một cái máy mà không có tính sáng tạo, tự  chủ, tính tự  quyết. Vì  nếu có ý kiến khác thì sẽ chỉ gặp lôi thôi trong duyệt dự toán mà điều này thì không  có trường nào muốn. Do quy trình cấp phát như  trên nên các cơ  sở  đại học chỉ  có  khuynh hướng làm đúng theo hướng dẫn của cấp trên và đơn vị quản lý tài chính để  có được sự thuận lợi trong hoạt động đăng ký ngân sách mỗi năm. Chính vì vậy để  có thể  huy động và sử  dụng có hiệu quả  nguồn vốn ngân sách Nhà nước chi cho   giáo dục đào tạo cần có những biện pháp cải tiến về phương thức cấp phát. 2.2. Số  lượng các trường đại học và cao đẳng và sự  mất cân đối về  cơ   cấu ngành nghề đào tạo. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng tăng nên có rất nhiều trường đại học  cao đẳng được thành lập tăng nên với rất nhiều chuyên ngành mở  ra. Theo số liệu  điều tra của Tổng cục thống kê thì năm  2004 cả  nước có 230 trường đại học và  cao đẳng, đến năm 2005 đã tăng lên là 311 trường. Như  vậy đã tăng lên 81 trường  tương đương     35,22%. Đồng thời ngày càng có nhiều trường, các cơ  sở  đào tạo   ngoài công lập khác nhau được thành lập. Năm 2004 có 29 trường đại học và cao  đẳng ngoài công lập chiếm 12,61% và năm 2005 thì con số này là 37 trường chiếm   11,89%. Tuy nhiên, do sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các trường đại học và cao  đẳng, việc đưa các trường cao đẳng lên đại học và mở nhiều đại học dân lập trong   16
  17. khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, đồng thời chưa đổi mới về cơ chế quản   lý chất lượng các trường này nên đã dẫn đến chất lượng đào tạo của các trường   này không được tốt, và xảy ra nhiều vấn đề  tiêu cực nghiêm trọng diễn ra trong  một thời gian dài trong một số trường dân lập ví dụ  như  có một trường  ở  tỉnh nọ  chưa có cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy cơ hữu được phép tuyển sinh  ngay một lúc đến chín ngành đào tạo, kể cả những ngành kỹ thuật. Việc phân bố các trường đại học cao đẳng chỉ mới tập trung ở một số trung   tâm văn hóa, kinh tế lớn là Hà nội và TP Hồ Chí Minh. Điều này dẫn tới hạn chế số  lượng sinh viên ở các vùng kinh tế khó khăn có khả năng theo học. Hiện nay ngày càng có nhiều ngành đào tạo được mở  ra đáp  ứng được nhu  cầu của thị  trường nhưng tồn tại tình trạng mất cơ  cấu về  ngành nghề  đào tạo.   Theo số  liệu điều tra “trong 50 năm qua chúng ta đã đào tạo được hơn 1 triệu cán   bộ các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu là: sư phạm chiếm  33,3%; khoa học kỹ thuật là 25,5%; khoa học xã hội là 17%; y dược là 9,3%; nông  nghiệp là 8,1%; khoa học tự nhiên là 6,8%. Với một nước nông nghiệp như nước ta  hiện nay mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông   nghiệp thì cơ cấu trên là bất hợp lý.”[4] Như  vậy trong thời gian tới cần có những sự  điều chỉnh trong việc quản lý  sự  thành lập và chất lượng của  các trường đại học, cần có những biện pháp giải   quyết sự mất cân đối về các ngành nghề đào tạo. 2.3. Thực trạng về đội ngũ cán bộ giảng viên các trường đại học và cao   đẳng ở Việt Nam. a) Số lượng cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng ở Việt Nam. Hiện nay, cùng với sự tăng lên của nhu cầu học tập nhằm nâng cao kiến thức  trình độ để đáp ứng được yêu cầu của xã hội thì quy mô đào tạo được mở rộng rất   nhanh với nhiều trường đại học và cao đẳng được thành lập với nhiều chuyên  ngành đào tạo ra đời , đồng nghĩa với nó thì nhu cầu về đội ngũ cán bộ giảng viên   đại học và cao đẳng cũng tăng lên. Nhưng trên thực tế hiện nay  ở nước ta đội ngũ   giảng viên  ở các trường đại học và cao đẳng cò đang thiếu trầm trọng nhất là đối   17
  18. với những chuyên ngành đào tạo mới. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê   thì đến năm học 2005­2006 cả  nước ta có 47.700 giảng viên đại học và cao đẳng  chiếm 4.8% trong tổng số nhà giáo ở nước ta. Với số lượng cán bộ giảng viên đại  học như  trên thì tỷ  lệ  sinh viên/ giảng viên trung bình là 28 sinh viên/ giảng viên,  đặc biệt ở một số lĩnh vực kinh tế, dịch vụ là gần 40 sinh viên/ giảng viên trong khi   tỷ lệ này hợp lý chỉ là trung bình 15­ 20 sinh viên / giảng viên. Thực trạng đó là do   trong khi qui mô đào tạo ngày càng tăng nhưng biên chế  lại không tăng, vì vậy  ở  nước ta  một giảng viên đại học  phải giảng dạy quá nhiều giờ có trường hợp lên   tới 800­1.000 giờ/năm (ở  nước ngoài khoảng 300­400 giờ/năm)   không còn thời  gian tham gia nghiên cứu khoa học để  nâng cao trình độ  chuyên môn của mình,   không có thời gian để  cập nhật kiến thức mới. Đặc biệt là sự  thiếu hụt những   giảng viên đầu ngành đã được đào tạo một cách có hệ  thống  ở  nước ngoài, có   kinh nghiệm sư phạm là những người thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học  cấp Bộ, cấp nhà nước thì đều đã tuổi cao và đã nghỉ hưu trong khi chưa có đội ngũ  cán bộ giảng viên giỏi kế cận.  Mặt khác,  hiện nay biên chế  giảng viên của các trường do Bộ  chủ  quản   quyết định nên việc các trường muốn nhận thêm giáo viên để đáp ứng yêu cầu mở  rộng qui mô đào tạo của trường thường gặp nhiều khó khăn và thường phải đợi Bộ  giao chỉ tiêu. Do đó chính sách về chỉ tiêu cán bộ giảng viên của các trường do Bộ  chủ   quản  giao  cho  các   trường   đã   trở   nên  không  phù   hợp  với   nhu  cầu  của   các   trường, không đáp  ứng được nhu cầu mở  rộng qui mô đào tạo ngày càng tăng lên   hiện nay. Nếu không có các biện pháp đổi mới cách thức tuyển dụng đội ngũ giảng   viên nhằm từng bước đáp ứng đủ số lượng giảng viên đại học, cao đẳng, giảm tỉ lệ  sinh viên/ giảng viên xuống còn 20 sinh viên / giảng viên. b) Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng của nước   ta. Bên cạnh việc thiếu giảng viên thì chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại  học vẫn chưa cao. Hiện tại ở nước ta tỷ lệ giảng viên đại học cao đẳng chỉ có trình   độ  cử  nhân kỹ  sư, chiếm tới 55%; trình độ  trên đại học còn rất ít cụ  thể  là chỉ  có  18
  19. 13% đạt trình độ tiến sĩ, số phó giáo sư là 4% và số giáo sư chỉ chiếm một tỷ lệ vô  cùng nhỏ  là 1%. Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng trên đó là hiện   nay nước ta đang thiếu trầm trọng đội ngũ giảng viên, nên để có thể đáp ứng được  nhu cầu đào tạo thì những giảng viên này thường phải giảng dạy rất nhiều giờ nên  không có thời gian để học tập nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới. Như vậy   với cơ cấu trình độ của đội ngũ cán bộ giảng viên như trên thì nước ta đang ở trong   tình trạng bất hợp lý đó là trình độ đại học dạy đại học.  Trường đại học có nhiệm vụ  chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học,  nhưng  ở  nước ta công tác nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ  giảng viên đại   học còn rất ít.  Ở  nhiều trường đại học nước ngoài tỷ  lệ  thời gian của giảng viên   phân bổ  cho hai nhiệm vụ  này là 50/50 còn  ở  nước ta tỷ  lệ  thời gian dành cho  nghiên cứu khoa học còn rất ít, chủ yếu thời gian của giảng viên được sử dụng để  giảng dạy, tỷ  lệ  này  ở  một số  giảng viên chủ  chốt  ở  một số  trường đã có truyền   thống nghiên cứu khoa học là 70% giảng dạy và 30% nghiên cứu khoa học. Đối với  đội ngũ cán bộ  giảng viên đại học, thì nghiên cứu khoa học giúp cho họ  nâng cao   trình độ chuyên môn, cập nhật liên tục kiến thức, làm giàu kho tàng kiến thức của   minh để có thể truyền dạy lại cho sinh viên đạt hiệu quả hơn. Trong những năm qua nước ta đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện   cho giảng viên trẻ đi học tập, nghiên cứu, tham gia hội nghị, hội thảo trao đổi kinh   nghiệm  ở  nước ngoài như  hỗ  trợ  về  mức phí. Chính sách này cần được tiếp tục  thực hiện nhằm góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ giảng viên tiến tới   thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ lên 30% và trình độ tiến  sĩ lên 20% vào năm 2008.  Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng đội ngũ cán bộ  giảng viên  chưa cao đó là do chế độ lương và thu nhập của giảng viên đại học còn tương đối  thấp, đời sống đội ngũ cán bộ  giảng viên còn có nhiều khó khăn. Chính vì vậy họ  phải dành nhiều thời gian để  đi dạy để  tăng thu nhập, dành ít thời gian dành để  nghiên cứu, nâng cao kiến thức, chưa tập trung đầu tư  nâng cao chất lượng giảng   dạy. Hiện nay thì chế  độ  lương và trợ  cấp cho cán bộ  giảng viên đại học đang  19
  20. được xem xét điều chỉnh để  tạo điều kiện cho đội ngũ này yên tâm công tác, dành  nhiều thời gian để nâng cao trình độ. Như  vậy, hiện nay chất lượng đội ngũ cán bộ  giảng viên đại học và cao   đẳng ở  nước ta vẫn chưa cao, cần có những chính sách, biện pháp nhằm nâng cao   trình độ của đội ngũ này. c) Nội dung và phương pháp dạy học ở bậc đại học: * Nội dung chương trình đào tạo và tình trạng thiếu giáo trình  ở  nhiều   môn học. Nội dung chương trình đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo  và giáo trình là một công cụ  để  chuyển các kiến thức đó đến cho sinh viên thông   qua việc nghiên cứu giáo trình. Tuy nhiên hiện nay chương trình đào tạo và vấn đề  giáo trình ở nước ta còn nhiều bất cập. Đa số các trường vẫn đang trong tình trạng  thiếu giáo trình, có nhiều môn học sinh viên không có giáo trình để nghiên cứu. Còn   có những môn đã có giáo trình nhưng nội dung chủ yếu được biên soạn từ  rất lâu.   Qua thực tế điều tra ở một số trường đại học và cao đẳng ở nước ta cho thấy, giáo   trình ở các trường này chủ yếu được biên soạn từ cách đây khoảng 20 đến 30 năm  và các thông tin trong đó đã quá lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển mạnh  mẽ hiện nay của xã hội. Nội dung chương trình đào tạo của ta hiện nay còn nặng về lý thuyết, ít gắn   với thực tiễn, chương trình học tập quá tải, chiếm hết thời gian phát huy khả năng   tư duy sáng tạo của sinh viên gây ra tâm lý chán học, sợ học. Cụ thể là chương trình  đào tạo đại học bốn năm ở các nước phương Tây gồm 125 đến 130[11.10] tín chỉ,   trong khi đó chương trình đào tạo đại học hệ bốn năm ở nước ta trung bình khoảng  250 [11.10] đơn vị học trình (tương đương tín chỉ), trong khi kiến thức tiếp thu lại ít   hơn. Hiện nay ở nước ta, việc biên soạn và in ấn giáo trình được khoán trắng cho   các trường đại học tự lo do đó dẫn đến tình trạng bất cập về nội dung lẫn kinh phí  thực hiện. Điều đó dẫn đến giá sách hiện tại tương đối cao so túi tiền của sinh   viên. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2