intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 – 1998. Liên hệ Việt Nam trong quá trình hội nhập

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

259
lượt xem
67
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận:nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu á 1997 – 1998. liên hệ việt nam trong quá trình hội nhập', luận văn - báo cáo, quản trị kinh doanh phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 – 1998. Liên hệ Việt Nam trong quá trình hội nhập

  1. Mục lục Đề tài môn Tài chính quốc tế: Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 – 1998. Liên hệ Việt Nam trong quá trình hội nhập Giáo viên hướng dẫn: Ts.Lê Tuấn Lộc Nhóm 5-Rủi Ro Group-K09402B: 1. Nguyễn Sử Phương Anh K094020264 2. Nguyễn Hoàng Lệ Nga K094020318 3. Lương Thị Bích Ngọc K094020325 4. Cao Phan Quí K094020343 5. Nguyễn Cao Thế K094020354 6. Phan Tuấn K094020380 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  2. Mục lục MỤC LỤC CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................... 1 1.1 Khủng hoảng tài chính..................................................................................... 1 1.2 Một số loại khủng hoảng tài chính ................................................................... 1 1.3 Đầu cơ ............................................................................................................. 2 1.4 Bất động sản .................................................................................................... 2 1.5 Tăng trưởng nóng ............................................................................................ 2 Tóm tắt chương 1. ..................................................................................................... 3 CHƯƠNG 2. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ-TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997-1998 ....... 4 2.1 Tiếp cận dưới góc nhìn cổ điển ........................................................................ 4 2.1.1 Nguyên nhân khủng hoảng........................................................................ 4 2.1.2 Diễn biến: ................................................................................................. 6 2.1.2.1 Thái Lan ............................................................................................. 6 2.1.2.2 Philippines ......................................................................................... 8 2.1.2.3 Hong kong ......................................................................................... 9 2.1.2.4 Hàn Quốc ........................................................................................... 9 2.1.2.5 Malaysia........................................................................................... 10 2.1.2.6 Indonesia .......................................................................................... 10 2.1.2.7 Nước Mỹ và Nhật Bản ..................................................................... 11 2.2 Cách tiếp cận theo hướng hiện đại ................................................................. 11 2.2.1 Mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” ....................................................................................................... 11 2.2.2 Phát triển mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” ở nước Thái Lan. ......................................................... 13 2.3 Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 ..................... 14 Tóm tắt chương 2: ................................................................................................... 16 ii
  3. Mục lục CHƯƠNG 3: BÀI HỌC RÚT RA VÀ TẦM NHÌN VIỆT NAM TRONG GIAI GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP ......................................................................................... 17 3.1 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng ............................................................... 17 3.1.1. Đối với thế giới .......................................................................................... 17 3.1.2. Đối với Việt Nam ....................................................................................... 18 3.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại ..................................................................................................... 19 3.2.1 Nguy cơ từ bên trong .............................................................................. 19 3.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài: ............................................................................. 22 Tóm tắt chương 3: ................................................................................................... 24 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 25 iii
  4. Phần mở đầu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trước năm 1997, kinh tế ở các nước Đông Á vẫn tiếp tục phát triển sau một thời gian dài tăng trưởng ngoạn mục.Nhưng nền kinh tế đột nhiên có những biến đổi nghiêm trọng dẫn tới khủng hoảng tiền tệ. Trước hết, đồng Baht mất giá thê thảm ở Thái Lan, sau đó nhanh chóng lan tỏa sang Hàn Quốc, Indonesia, rồi tới Hồng Kông, Malaysia, Philippines. Không dừng lại, chỉ mấy tháng sau, cuộc khủng hoảng đã mang tính toàn cầu khi lôi kéo Nga, Brasil vào vòng xoáy. Rất may, cùng với Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Việt Nam nằm trong nhóm các các nước ở Châu Á ít bị ảnh hưởng nhất. Dù đã hơn 10 năm trôi qua, đã có hàng nghìn trang sách về sự kiện này, tốn rất nhiều giấy bút của các chuyên gia. Chính vì thế với vai trò là sinh viên năm 3 của khối ngành kinh tế, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách chi tiết hơn về nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 -1998. “Khủng hoảng như vậy do những nguy cơ nào? Việt Nam có hay không sự tồn tại những nguy cơ ấy? Nếu có, thì nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ rơi vào khủng hoảng trong một tương lai gần hay chăng?”. Đó là những câu hỏi cứ xuất hiện mãi trong đầu chúng tôi. Nhằm giải quyết những câu hỏi gây tò mò này, nhóm nghiên cứu sẽ đi tìm bản chất của cuộc khủng hoảng qua nhiều khía cạnh khác nhau để liên hệ cụ thể với Việt Nam, từ khi nước ta tham gia vào quá trình hôi nhập. Đó cũng chính là những lí do đề tài mang tên: “Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 – 1998. Liên hệ Việt Nam trong quá trình hội nhập” 2. Mục tiêu nghiên cứu - Làm rõ bản chất của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 -1998 thông qua nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó bao gồm: nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng. - Từ cuộc khủng hoảng này, rút ra những bài học cho nền kinh tế trên thế giới và những bài học cụ thể cho nền kinh tế Việt Nam. - Phân tích nền kinh tế Việt Nam từ sau khi hội nhập WTO, để đánh giá nước ta có tồn tại những nguy cơ gây ra khủng hoảng châu Á hay không. Nếu có sẽ dự đoán khủng hoảng xảy ra như thế nào và tìm ra hướng giải quyết. 3. Câu hỏi nghiên cứu: Để mục tiêu nghiên cứu được rõ ràng và cụ thể hơn. Nhóm thực hiện đề tài đặt ra những để giải quyết: - Tồn tại những nguy cơ nào để dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng năm 1997? - Cuộc khủng hoảng diễn ra như thế nào? Và hậu quả nó để lại là những gì? - Bài học nào cho các nước trên Thế giới và Việt Nam sau cuộc khủng hoảng châu Á 1997? iv
  5. Phần mở đầu - Nền kinh tế Việt Nam từ khi hội nhập có tồn tại những nguy cơ gây ra khủng hoảng đó hay không? Nếu đúng là có sự tồn tại, thì dự đoán cuộc khủng hoảng tại Việt nam sẽ hình thành như thế nào? 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu Á 1997 – 1998 - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi lý thuyết: Đề tài tập trung vào các lý thuyết liên quan đến khủng hoảng kinh tế. Những tài liệu về liên quan đến khủng hoảng dưới nhiều góc độ khác nhau. + Phạm vi thời gian: Tập trung vào thời trước 1997 – 1998 đối với các nước bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng để phục vụ cho việc phân tích khủng hoảng. Đồng thời, tập trung vào thời gian sau khi Việt Nam hội nhập để phân tích nền kinh tế Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận: sử dụng phương pháp so sánh - đối chiếu - Phương pháp thu thập thông tin: tìm kiếm nguồn thông tin phục vụ đề tài thông qua dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu - Là nguồn tài kiệu quan trọng trong việc cung cấp khá nhiều thông tin về cuộc khủng hoảng châu Á 1997 – 1998 dưới nhiều cách nhìn nhận khác nhau. - Cung cấp các bài học cho nền kinh tế Việt Nam và các nước trên thế giới theo quan điểm của tác giả. - Dựa trên phân tích kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và so sánh đối chiếu với những nguy cơ của khủng hoảng châu Á 1997, giúp có cái nhìn rõ hơn về nền kinh tế Việt Nam và đặc biệt là góp phần nào để Việt Nam tránh được khủng hoảng trong tương lai. 7. Tổng quan đề tài: Về khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997 – 1998, đây không là vấn đề khá xa lạ nựa nên đã có rất nhiều tài liệu nói đến vấn đề này dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Do đó, đề tài này cũng tham khảo nhiều thông tin từ nhiều nguồn khác nhau dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Chằng hạn như có khía cạnh của GS.Nguyễn Thiện Nhân khi nói về khủng hoảng 1997. Tuy nhiên, ngoài mục đích là tìm hiểu cuộc khủng hoảng cuộc khủng hoảng dưới nhiều cách nhìn khác nhau, mà còn là liên hệ với Việt Nam từ khi tham gia quá trình hội nhập. Để dự đoán trong tương lai dựa trên cơ sở khoa học và quan điểm của tác giả nên đây vẫn là một vấn đề khá mới và mang tính thực tiễn hiện nay. Để giải quyết tất cả những vấn đề nêu ra,đề tài gồm 3 chương: + Chương 1: Nêu ra một số cơ sở lí thuyết liên quan đến khủng hoảng châu Á 1997-1998. + Chương 2: Tìm hiểu rõ nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng dưới góc nhìn cổ điển và hiện đại. v
  6. Phần mở đầu + Chương 3: Những bài học rút ra được sau cuộc khủng hoảng cho các nước trên thế giới và Việt Nam. Đồng thời, phân tích kinh tế Việt Nam sau khi hội nhập để so sánh với những nguy cơ gây ra khủng hoảng và xem xét nền kinh tế Việt Nam có thể bị lâm vào khủng hoảng như vậy hay không. vi
  7. Chương 1. Cơ sở lý thuyết CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1 Khủng hoảng tài chính Khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) là tình trạng tài chính mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính là các dòng tiền vào/ra, nhận/ thanh toán, hình thành tài sản có /tài sản nợ. Khi xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó. Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay. 1.2 Một số loại khủng hoảng tài chính - Khủng hoảng ngân hàng: Ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi, huy động vốn để cho vay lại nên rủi ro rất lớn cả về mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến nợ quá hạn cao làm cho ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ đến hạn. - Khủng hoảng nợ quốc gia: Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài quá nhiều và sử dụng không hiệu quả nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ hoặc xin tuyên bố vỡ nợ. - Khủng hoảng tiền tệ: Hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu (cả thực tế và giả tạo do đầu cơ) buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ làm cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng. - Khủng hoảng thị trường tài chính: Sự rối loạn nặng nề trên thị trường vốn. Ồ ạt rút tiền gửi từ các ngân hàng thương mại, thu hẹp đáng kể quy mô tín dụng, tăng số vụ phá sản. Giá chứng khoán biến động mạnh ngoài tầm kiểm soát hay do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị bán đổ bán tháo; thu hẹp phát hành. Xảy ra khi thị trường bị “đông cứng’ vì không có giao dịch, tạo ra sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào, ra thị trường chứng khoán. - Khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế: (Cán cân thanh toán vãng lai, cán cân vốn) Khủng hoảng xảy ra khi các cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân thanh toán vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại bị thâm hụt. Khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào (tổng cán cân vãng lai và tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề. - Khủng hoảng khả năng thanh khoản: 1 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  8. Chương 1. Cơ sở lý thuyết Phản ánh sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của các giấy tờ có giá và một số loại tài sản tài chính đặc thù. - Khủng hoảng ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước thâm hụt kéo dài trong khi các nguồn bù đắp bị hạn chế hoặc không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát. 1.3 Đầu cơ Trong lĩnh vực tài chính, đầu cơ là việc mua, bán, nắm giữ, bán khống các loại tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,hàng hoá, tiền tệ, bất động sản, chứng khoán phái sinh nhằm thu lợi từ sự biến động giá mạnh của chúng. Vì hoạt động đầu cơ áp dụng với các loại tài sản tài chính biến động như vậy cho nên đầu cơ là một kiểu kinh doanh có rủi ro rất cao. Ngược lại với đầu cơ là việc mua và nắm giữ các tài sản tài chính để tăng thu nhập thông qua cổ tức hoặc lãi suất, hay còn gọi là đầu tư. Lợi ích của hoạt động đầu cơ là nó cung cấp cho thị trường một lượng vốn lớn, làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và làm cho cho các nhà đầu tư khác dễ dàng sử dung các nghiệp vụ như phòng vệ hay kinh doanh chênh lệch giá để loại trừ rủi ro. Tuy nhiên đầu cơ cũng gây ra những tác động tiêu cực. Khi có hoạt động đầu cơ giá lên diễn ra, giá của một loại hàng hoá nhất định có thể tăng đột ngột vượt quá giá trị thực của nó, đơn giản vì việc đầu cơ đã làm gia tăng cái gọi là "cầu ảo". Giá tăng lại tiếp tục làm các nhà kinh doanh khác nhảy vào thị trường này với hi vọng giá sẽ còn lên nữa. Hiệu ứng tâm lý này tiếp tục đẩy giá lên, làm cho thị trường này trở nên rất nóng và ẩn chứa rủi ro cao. Toàn bộ quá trình này được gọi là "bong bóng kinh tế", một khi trái bong bóng này bị chọc thủng thì các nhà đầu cơ trên thị trường này có thể gặp những tổn thất vô cùng nặng nề. 1.4 Bất động sản Bất động sản (BĐS) theo nghĩa thông thường nhất được hiểu là đất đai và các công trình xây dựng cố định trên đất đai. Theo điều 181 bộ Luật dân sự Việt Nam thì BĐS là các tài sản không di dời được, bao gồm: đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai, các tài sản do luật định. Thị trường bất động sản là địa điểm, là nơi mà tại đó người bán và người mua tài sản BĐS tác động qua lại lẫn nhau để xây dựng giá cả và số lượng hàng hóa BĐS được thực hiện. Bất động sản có vai trò khá quan trọng đối với thị trường tài chính. Đó là nguồn vốn để phát triển thông qua hoạt động thế chấp. Thị trường bất động sản phát triển thì một nguồn vốn lớn tại chỗ được huy động. Theo thống kê, ở các nước phát triển lượng tiền ngân hàng cho vay qua thế chấp BĐSchiếm đến 80% tổng lượng vốn cho vay. 1.5 Tăng trưởng nóng Tăng trưởng nóng là hiện tượng nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc, vượt mức sản lượng tiềm năng. Tại mức sản lượng tiềm năng các tiềm lực kinh tế được sử dụng một 2 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  9. Chương 1. Cơ sở lý thuyết cách hiệu quả nhất, tỷ lệ lạm phát vừa phải, thất nghiệp thấp nhất, tức là vẫn còn một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho phép để ổn định nền kinh tế. Tăng trưởng nóng tạo nên một số chỉ tiêu vượt bậc về kinh tế từ đó gây ra một số hệ quả không tốt cho nền kinh tế. Có 4 dấu hiệu chính để nhận biết một nền kinh tế tăng trưởng nóng là lạm phát và giá chứng khoán tăng nhanh, đầu tư trong nước và nhập khẩu hàng tiêu dùng gia tăng mạnh. Tóm tắt chương 1. Qua chương đầu tiên chúng ta đã biết được thế nào là khủng hoảng tài chính, các loại khủng hoảng tài chính, bất động sản, đầu cơ và tăng trưởng nóng. Nguyên nhân, diễn biến và hậu quả sẽ được trình bày trong chương 2. 3 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  10. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 CHƯƠNG 2. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ-TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997-1998 2.1 Tiếp cận dưới góc nhìn cổ điển Đây là cách tiếp cận một cuộc khủng hoảng theo kiểu logic “nếu A thì B” hay nói cách khác đi từ nguyên nhân A, B, C để dẫn đến kết cục D (khủng hoảng) 2.1.1 Nguyên nhân khủng hoảng. Theo các chuyên gia thì đây là một cuộc khủng hoảng kép: Khủng hoảng tài chính, tiền tệ – ngân hàng. Cuộc khủng hoảng này có mức độ lan truyền sâu rộng (với mức thiệt hại gấp 4 lần so với cuộc khủng hoảng 94-95 ở Mexico) a.Dòng vốn nước ngoài vào ồ ạt. Những yếu tố dẫn đến khủng hoảng ở Đông Á không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội địa mà còn cả từ bên ngoài. Thế giới đánh giá quá cao tốc độ tăng trưởng của các nước Đông Á. Do hiểu lầm về phép lạ kinh tế của Đông Á nên mới có phản ứng theo bầy là ồ ạt đầu tư vào khu vực này, mà càng hồ hởi bao nhiêu thì càng hốt hoảng bấy nhiêu khi có biến động. Từ năm 1991 đến 1996, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng nhanh từ 24,8 tỷ USD lên 65,8 tỷ USD. Bảng: vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á 1991 – 1996 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Vốn tư nhân ròng 24,8 29 31,8 36,1 74,2 65,8 Đầu tư trực tiếp ròng 6,2 7,3 7,6 8,8 7,5 8,4 Đầu tư chứng khoán ròng 3,2 6,4 17,2 9,9 17,4 20,3 Vay thương mại và đầu tư khác 15,4 15,3 7,0 17,4 49,2 37,1 Viện trợ chính thức ròng 4,4 2,0 0,6 0,3 0,7 -0,4 ( Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000) Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển, chênh lệch lãi suất giữa các nền kinh tế Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương, các chính sách mở rộng tiền tệ của Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu…là những động lực thúc đẩy dòng vốn vận chuyển từ Nhật Bản, Hoa Kì và EU tới các nền kinh tế Đông Á. Thêm vào đó lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng chính là nguyên nhân khiến các tổ chức kinh doanh và nội địa đi vay nước ngoài. Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được đầu tư dài hạn. Thái Lan vay nước ngoài chủ yếu thông qua các ngân hàng và công ty tài chính. Ngân hàng Hàn Quốc cũng vay nước ngoài. Chỉ có hai nước Malaysia và Philippines trong số năm nước chịu khủng hoảng là có dự trữ ngoại tệ cao hơn nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn nước ngoài cao hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời gian ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng chi trả. 4 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  11. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Bảng: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997 Nợ ngắn hạn nước Dự trữ ngoại tệ Tỷ lệ nợ ngắn hạn ngoài ( tỷ USD) ( tỷ USD) so với dự trữ Hàn Quốc 70,18 34,07 2,06 Thái Lan 45,57 31,36 1,45 Indonesia 34,66 20,34 1,70 Malaysia 16,27 26,59 0,61 Philippines 8,29 9,8 0,85 ( Nguồn: ADB, “Asian Development Outlook”, 1999) b. Tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp, ngân hàng… và cả bộ máy công quyền tin rằng nhà nước sẽ giăng lưới đỡ cho các công ty lỗ. Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa tài chính được tiến hành với nhịp độ từ từ ở hầu hết các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á. Khi các ngân hàng cho vay theo chỉ đạo của chính phủ thì luôn tồn tại một giả định ngầm rằng chính phủ sẽ bảo lãnh và cứu giúp nếu khoản vay đó không đòi được. Chính vì vậy, mặc dù không hề có sự bảo lãnh chính thức của chính phủ, nhưng các tổ chức tài chính ở Đông Á, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước hay ngân hàng lớn, luôn coi mình là “quá lớn nên không thể thất bại. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn.Vì tin như vậy, các thành phần đã nói trên đã lấy quá nhiều rủi ro về tài chính, ngoại hối và tín dụng cho tới khi sụp đổ thì kéo xập luôn các ngân hàng và doanh nghiệp. Do đó, khủng hoảng ngoại hối mới thành tài chính và kinh tế. c. Sự quản lý của chính phủ và chính sách kinh tế vĩ mô Chính phủ cứng nhắc trong việc thực hiện chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu và sự kém linh hoạt trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng cuả thương trường. Chính phủ mắc sai lầm trong việc quản lý chính sách tỉ giá hối đoái, cố định tỉ giá đồng baht một cách cứng nhắc vào đồng đô la Mỹ rất lâu và nền kinh tế chịu ảnh hưởng của nạn đô la hóa một cách trầm trọng. Cố định giá đồng bạc vào một vài ngoại tệ mạnh và tin rằng sức xuất khẩu của mình lẫn nguồn đầu tư từ nước ngoài sẽ bảo vệ được chế độ hối đoái ấy với một dự trữ ngoại tệ thấp. Dân chúng thì lạc quan vay tiền ở nước ngoài với lãi suất rẻ để đầu tư vào trong với lợi suất cao nhờ chính sách ưu đãi và sự bảo vệ của nhà nước. Trong 2 năm giá USD tăng 25 % nhưng chính phủ không có sự điều chỉnh tỉ giá thích ứng. Giá đồng baht tăng làm suy yếu nhanh chóng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu và làm tăng tương ứng nợ nước ngoài, gây ra nạn đầu cơ tiền tệ, kích thích nhu cầu ngoại tệ giả tạo, nhập khẩu gia tăng, thúc đẩy thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Ngoài ra do hệ thống tín dụng hoạt 5 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  12. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 động yếu kém, sự dễ dãi trong quản lý tiền mặt và mua bán ngoại tệ tự do,sự chiếm dụng vốn, nợ đọng khó đòi, sự mất cân đối giữa đầu tư và tiêu dùng quá mức là nguyên nhân làm tăng cường độ khủng hoảng. d. Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán Sự sụt giá trên thị trường BĐS và TTCK làm các nhà đầu tư lo ngại về tính bền vững của hệ thống tài chính của Thái Lan. Thâm hụt tài khoản vãng lai cao tạo nên kỳ vọng về sự phá giá của đồng baht. Từ giữa năm 1996, đồng Baht đã được bán ra hàng loạt. Những người vay ngoại tệ trước đây tin rằng tỷ giá hối đoái được cố định thì nay bắt đầu lo ngại và cũng mua đô la vào để đảm bảo có đô la để trả nợ khi đáo hạn. Chính phủ Thái Lan ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá nhưng cũng không có khả năng duy trì được lâu. Đồng Baht được thả nổi vào đầu tháng 7 năm 1997. Đi liền với khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng ngân hàng. Lãi suất cao trong thời gian chính phủ bảo vệ tỷ giá buộc cả các tổ chức tài chính và các đối tượng vay vốn lâm vào tình thế khó khăn. Hàng loạt công ty tài chính của Thái Lan phá sản trước cả khi phá giá đồng baht. Và khi đồng baht bị phá giá, trách nhiệm nợ phải trả tính ra đồng nội tệ của các khoản nợ nước ngoài tăng vọt, kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính nữa. e. Sự rút vốn ồ ạt và phối hợp không tốt giữa các nhà đầu tư. Radelet và Sachs (1998) đưa ra ý tưởng rằng trục trặc ở Đông Á nảy sinh do nhà đầu tư mất niềm tin và khủng hoảng xảy ra là một cuộc khủng hoảng mất tính thanh khoản. .Sự thất bại trong phối hợp đã làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút vốn. Một ngân hàng đang hoạt động tốt nhưng bị người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Đông Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tự nước ngoài lẫn trong nước đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từc hối đảo nợ và ngưng cho vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển ra ngoài. 2.1.2 Diễn biến: Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở châu Á nổ ra năm 1997 trước hết xuất phát từ Thái Lan, rồi sau đó lan sang các nước khác như Philippines, Malaysia, Indonesia, HongKong, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật bản, Mỹ… 2.1.2.1 Thái Lan - Tình hình Thái Lan trước khủng hoảng: Trước khi bắt đầu phân tích diễn biến khủng hoảng tại Thái Lan, ta nhìn lại sơ qua về nền kinh tế của Thái Lan trước khủng hoảng: + GDP tăng cao, liên tục, xuất khẩu phát triển: Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế hoạch phát triển năm thứ nhất. Tốc độ tăng trưởng GDP trong thập niên 60 khoảng 8%/năm, trong thập niên 70 khoảng 7%/năm và trong thập niên 80 khoảng 8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mưc 440 USD năm 1955 lên 3.012 USD năm 1996. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng 39% trong nền kinh tế vào 1961 giảm xuống còn 26.7% năm 1976 và chỉ còn 10.4% năm 1996. 6 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  13. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Thái Lan đã thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên 80. Năm 1986 -1990 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm. Năm 1992 và 1993 khoảng 13%/năm. Năm 1994 và 1995 khoảng 20%/năm/ Năm 1996, tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ còn 3.4% so với năm 1995. Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630USD/người năm 1991, đã tăng lên 1.177USD/người năm 1996. Như vậy, nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn 3 thập kỉ từ 1961 đến 1996,ta thấy rất đáng yên tâm vì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm luôn từ 7% đến 8%. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới phản ánh đầu ra của nên kinh tế mà chưa đề cập đến đầu vào. Trong khi đó từ năm 1991-1996, đầu tư Thái Lan rất cao, hàng năm chiếm khoảng 40% GDP. Tăng trưởng cao dựa trên hiệu quả kinh tế cao của sản xuất kinh doanh mới lâu bền, tăng trưởng cao mà chi phí tăng trưởng thấp thì mới bên vững. Bình quân từ năm 1991 tới 1996, hệ số ICOR của Thái Lan là 5,22. Tức là phải đầu tư 5,22 Baht thì GDP mới tăng 1Baht. + Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng thêm lãi suất tiết kiệm trong nước cao (bình quân 16.3%, trong khi ở Mỹ là 7,6), và tỉ giá hối đoái gần như cố định tạo ra môi trường kinh doanh khá hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Như vậy, các doanh nghiệp trong nước nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất khoảng ½ lãi suất cho vay trong nước. Nếu các doanh nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng có thể tăng. Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạng sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả lãi thường xuyên và bằng ngoại tệ. Hậu quả, là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty sẽ thấp. Hơn nữa, tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của doanh nghiệp đã giãm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong một nên kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm, còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng ‘phá sản doanh nghiệp’ + Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lơi vai trò giàm sát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. + Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán: trong suốt các năm 1991 -1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD/ Thâm hụt tài khoản vãn lai năm 1996 tới 14.6 tỉ USD. Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Nhưng đếncuối năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống chỉ còn 6,4%, nợ nước ngoài tăng quá lớn so với dự trữ ngoại tệ (nợ 90 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới 40%). Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. - Diễn biến khủng hoảng ở Thái Lan 7 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  14. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Việc đầu tư ồ ạt vào BĐS dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các nhà cao ốc văn phòng và khu nhà ở lên tới 20%. Điều này đã gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư BĐS phải trả nợ ngân hàng khi lãi suất lại đang ở mức cao (thời điểm này, các Công ty tài chính và ngân hàng Thái Lan năm tới 30 tỷ USD các khoản vay không trả được của các công ty). Đồng thời Thái Lan dựa chủ yếu vào danh mục đầu tư ngắn hạn của nước ngoài mà phần lớn trong số này được thông qua các ngân hàng trong nước và các công ty tài chính. Như vậy các khoản vay càng trở thành gánh nặng lớn với Thái Lan. Chính phủ Thái Lan giữ cố định tỷ giá đồng Baht đối với đồng đô la Mỹ trong suốt 13 năm qua khiến đồng Baht trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với các nhà xuất khẩu. Đồng Baht lên giá đã làm cho hàng hoá của Thái Lan trở nên quá đắt trên thị trường Châu Âu và kể từ giữa năm 1995 khi đồng Baht lên giá theo với đồng USD đã làm Thái Lan mất đi hàng tỷ USD đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Như vậy từ việc mua sản phẩm và dịch vụ nước ngoài nhiều hơn là thu nhập từ xuất khẩu và đầu tư, Thái Lan trở thành nước có mức thâm hụt tài khoản vãng lai cao nhất thế giới (8% so với GDP năm 1996). Thêm vào đó, chính sách quản lý ngoại hối của Thái Lan tương đối tự do, cơ chế chuyển đổi ngoại tệ đồng Baht khá dễ dàng, do đó tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào hoặc chảy ra bất cứ lúc nào theo ý kiến của các nhà đầu tư. Chính vì vậy, khi có biến động trên thị trường Tài chính tiền tệ, luồng vốn ngoại tệ chuyển ra ngoài tăng mạnh, đã kéo theo đồng Baht xuống giá. Bối cảnh này càng thúc đẩy giới đầu cơ trong và ngoài nước muốn phá giá đồng Baht để kiếm lợi nhuận do chênh lệch tỷ giá. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt cục ngày 2/7/1997 Ngân hàng trung ương Thái Lan lại tuyên bố thả nổi đồng Baht. Ngay sau khi đồng Baht giảm giá (15 - 20% so với USD) với mức thấp nhất 32 Bath/1USD kể từ 20 năm trở lại đây, nó đã kéo theo phản ứng giảm giá dây chuyền đối với các đồng tiền trong khu vực như: đô la Singapore giảm giá 5%, Peso Philippines 9 - 10% ...Ngày 14 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. 2.1.2.2 Philippines Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên1,75 điểm phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng 8 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  15. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 hợp PSE (Philippine Stock Exchange) của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống. 2.1.2.3 Hong kong Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trảHong Kong lại cho Trung Quốc. Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ lớn lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng1 đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính Hong Kong đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ DollarMỹ). Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8:1. 2.1.2.4 Hàn Quốc Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn 1 Chỉ số Hang Seng là chỉ số chứng khoán được xây dựng dựa trên giá trị vốn hóa thị trường của các công ty lớn nhất ở Hồng Kông 9 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  16. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện GDP trên đầu người, nhưng sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với trước đó. 2.1.2.5 Malaysia Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm. 2.1.2.6 Indonesia Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa 10 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  17. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi. 2.1.2.7 Nước Mỹ và Nhật Bản Khủng hoảng khiến nền kinh tế nước Mỹ tuy không sụp đổ nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm 554 điểm, tương đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời gian ngắn. Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng hoảng Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản. 2.2 Cách tiếp cận theo hướng hiện đại Với mục đích là làm rõ hơn nguyên nhân, diễn biến của cộng khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á 1997-1998. Nhóm đã có cách tiếp cận theo cách khác. Nếu như cách tiếp cấn trên là theo kiểu logic đi tìm các lí do A, B, C để dẫn tới kết cục D (khủng hoảng). Còn theo cách tiếp cận mới này, đề tài không tìm lí do theo kiểu khủng hoảng theo kiểu logic “nếu A thì B”, mà coi khủng hoảng là kết quả của một quá trình tích lũy các tiền đề có thể gây khủng hoảng từ thấp đến cao, là một quá trình chuyển đổi lượng thành chất. Tức là khủng hoảng có thể được khởi động từ rất lâu bởi các thay đổi có quy mô nhỏ hàng năm, có vẻ rất không nguy hiểm, song được tích lũy dần dần và tiến tới bùng nổ do sự chín muồi bên trong nền kinh tế hoặc trước một số tác động bên ngoài. Tất cả cách nhìn này dựa trên mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” của GS. Nguyễn Thiện Nhân. 2.2.1 Mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” 11 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  18. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Qua biểu đồ ta thấy, khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế quốc gia đã tích lũy 4 nguy cơ khủng hoảng là: + Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp + Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chinh + Sự lên giá của đồng nội tệ + Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán Và khi bên ngoài có 1 tác động quyết định là sự rút vốn tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi đồng nội tệ lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đối gần như cố định quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ ngày càng suy yếu và việc phải thả nổi đồng tiền nội địa – tức là tăng tỷ giá hối đối chỉ còn là vấn đề thời gian. Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổilấy ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn đủ khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ giá hối đoái. Lúc nà các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (cổ phần, trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi ngoại tệ mạnh để tối thiểu hóa thiệt hại của mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ nhất, tác động nhanh đến tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái tăng vọt, thì nợ nước ngoài của các ngân hàng, công ty tài chính bằng đồng tiền nội địa sẽ tăng vọt theo, trong khi đó người dân lại đổ xô đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng. Các ngân hàng, vốn làm ăn đã kém hiệu quả, sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả, phá sản. Đó chính là vòng xoáy thứ 2. Và chỉ việc vài ngân hàng phá sản, sẽ gây tâm trạng lo âu cho người dân gửi tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng khác, họ sẽ lại chạy đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng, dẫn đến việc cả các ngân hàng làm ăn hiệu quả cũng lâm vào mất khả năng chi trả, phá sản. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ 3, tác động nhanh. Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tính bằng tiến nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh nghiệp nào hoạt động vốn kém hiệu quả thì giờ đây sẽ không có đủ vốn để kinh doanh, càng sớm bị đẩy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng, công ty tài lại không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn. Đó là vòng xoáy thứ 4, tác động chậm hơn các vòng trước. Khi một nước bị khủng hoảng dẫn tới hậu quả là tỷ giá hối đoái của nước đó tăng mạnh, thì tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu từ nước đó tăng, làm cho xuất khẩu các nước có tỷ gia hối đoái ổn định bị ảnh hưởng xấu. Điều này làm cho cán cân thương mại nước này càng thâm hụt, khả năng thanh toán của quốc gia càng suy yếu. Đó là áp lực buộc các nước này phải phá giá đồng nội tệ đẩy mạnh xuất khẩu, phòng ngừa mất khả năng thanh toán. Đây có thể gọi là tác động dây chuyền của việc phá giá nội tệ của một nước tới các nước khác. 12 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  19. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 Tóm lại, theo mô hình chúng ta nhận ra khủng hoảng kinh tế - châu Á 1997 – 1998 đã nổ ra với các điều kiện bên trong là tích lũy 4 nguy cơ khủng hoảng và dưới tác động lẫn nhau của 4 vòng xoáy khủng hoảng và dưới tác động dây chuyền của phá giá nội tệ. 2.2.2 Phát triển mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” ở nước Thái Lan. Nếu phần trên là mô hình chung để nhìn nhận một cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính. Thì tiếp theo đề tài sẽ phát triển mô hình cho một nước cụ thể đó là Thái Lan – nơi bắt nguồn cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1998. Với các số liệu về tình hình Thái Lan trước khi bị khủng hoảng, thì ta có thể thấy rằng: Thực tế ở Thái Lan từ cuối năm 1996 và đầu năm 1997, ở Thái Lan đã xuất hiện đầy đủ 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức cao. Đó là: + Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả + Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả + Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán Đồng Baht lên giá, do tỷ giá hối đoái gần như cố định (25,34 Baht/USD), đồn Baht bị lên giá 25%, thâm hụt tài khoản vãng lai 14,7 tỉ USD.Tương tự, ta cũng có mô hình tương tự cho quá trình khủng hoảng ở Thái Lan: Mô hình: các tiền đề và cơ chế khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan 1997 Khi đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin về các nguy cơ này tất sẽ lo lắng. Lo sợ các ngân hàng và tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi tổ 13 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
  20. Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 chức này. Lo sợ tỉ giá hối đoái tăng, đồng Baht mất giá sẽ khiến họ đổ xô đi mua USD, làm cầu USD tăng. Thực tế ở Thái Lan, từ đầu năm 1997 đến 3.1997, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn của mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hàng và công ty tài chính, buộc chính phủ phải đóng cửa TTCK một ngày 3.3.1997 và yêu cầu mọi tổ chức chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt, và công bố 10 công ty tài chính ở trạng thái không bình thường. Ngày 4 và 5.3.1997, hơn 21.4 tỉ Baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính. Sau đó một tháng, ngày 9.4.1997, tỷ giá hối đoái tăng lên 26,08 baht/USD, mức cao nhất từ 1991. Nếu mức độ giảm sút dự trữ quốc gia của quý 2.1997 kéo dài thêm khoảng 2-3 quý nữa thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỉ USD, bằng 1/3 mức dự trữ ngoại tệ năm 1996 và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối đoái vì hoàn toàn không còn khả năng bán ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái. Có lẽ thấy trước nguy cơ này, ngày 2.7.1007, chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht. Như vậy, cuộc khủng hoảng ở Thái Lan bùng nổ do hoạt động trước hết ở vòng xoáy khủng hoảng số 3 (mô hình ở 2.2.1) khi người dân và nhà đầu tư rút khỏi các ngân hàng, làm phá sản hàng loạt ngân hàng và các công ty tài chính, kế đó là tác động của vòng xoáy khủng hoảng 2 và 1 (mô hình 2.2.1) khi họ đổi đồng baht lấy ngoại tệ USD, làm tỉ giá hối đoái tăng vọt. chỉ trong năm 1997, hơn 22 tỉ USD cho vay ngắn hạn đã được thu hồi và rút ra khỏi Thái Lan. Sự phá sản của các ngân hàng, công ty tài chính và sự tăng vọt của tỉ giá làm cho các doanh nghiệp vốn đã kém hiệu quả bị thua lộ và phá sản. Và trong năm 1998, gần 4000 doanh nghiệp ở Thái Lan bị phá sản, tạo nên vòng xoáy khủng hoảng số 4. Sự phá sản của các doanh nghiệp, tuy tác động chậm hơn, song sẽ lại thúc đẩy quá trình phá sản các ngân hàng,công ty tài chính, còng xoáy khủng hoảng 4. Như vậy, tiến trình bùng nổ khủng hoảng kinh tế- tài chính ở Thái Lan có thể được mô tà như sơ đồ trên. Dưới tác động của vòng xoáy khủng hoảng số 2 và 1, tỉ giá hối đoái sẽ tăng vọt từ khoảng 25 Baht/USD vào tháng 6.997 lên 53 Baht/USD vào 31.12.1997, sau đó tuy có giảm song vẫn ở mức trên 38Baht/USD vào 30.4.1998 Như vậy, với mô hình được dựng nên ta có thể thấy được các mối liên hệ giữa các nguy cơ và các yếu tố để nhìn nhân rõ hơn cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái Lan và lan truyền qua các quốc gia khác. 2.3 Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 2.3.1 Hậu quả tới nền kinh tế: - Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 có thể khiến cho một đất nước từ trạng thái tăng trưởng cao nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái, sụt giảm kinh tế trầm trọng. Không chỉ có vậy, đồng tiền trong nước mất giá liên tục làm cho tình trạng vay nợ, xét trên góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sảncủa họ không hề thay đổi. Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi suất trên thị trường cũng tăng chóng mặt. Doanh nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu cực đến bảng cân đối tài sản của họ. 14 Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2