intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ CỦA C.MÁC VÀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:137

101
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: quan niệm duy vật về lịch sử của c.mác và công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ CỦA C.MÁC VÀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ CỦA C.MÁC VÀ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Trên cơ sở làm rõ những nội dung căn bản trong quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác với tư cách học thuyết về con đường lịch sử – tự nhiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra và luận giải giá trị gợi mở của quan niệm này đối với con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đề xuất một số quan điểm định hướng cho quá trình tiếp tục đổi mới tư duy qua thực tiễn đổi mới đất nước những năm vừa qua. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - đó là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn. Sự lựa chọn này không phải là ngẫu nhiên, mà được xây dựng trên cơ sở di sản lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin và dựa trên tính chất đặc thù của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, khi vận dụng một cách không giáo điều, máy móc, di sản lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã có những đổi mới căn bản trong quan niệm về quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và con đường đã lựa chọn, một mặt, chúng ta cần phải bám sát thực tiễn thế giới và đất nước; mặt khác, phải hiểu cặn kẽ và vận dụng sáng tạo những di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là quan niệm duy vật về lịch sửcủa C.Mác. 1. Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác và con đường lịch sử - tự nhiên trong sự phát triển của xã hội loài người Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời đã có nhiều cách lý giải khác nhau về sự phát triển của xã hội loài người. Song, những quan niệm này, về thực chất, đều đứng trên lập trường duy tâm trong việc xem xét xã hội, nên không thể phát hiện ra các quy luật khách quan trong sự phát triển của xã hội loài người. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra
  3. đời, mà một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác là quan niệm duy vật về lịch sử, mới đem lại một công cụ khoa học để nghiên cứu về các hiện tượng xã hội nói chung, về con đường phát triển của xã hội loài người nói riêng. Đánh giá về vị trí, vai trò của phát minh này, Ph.Ăngghen đã viết: “Hai phát hiện vĩ đại ấy - quan niệm duy vật lịch sử và việc bóc trần bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nhờ giá trị thặng dư - là công lao của Mác. Nhờ hai phát hiện ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ tương hỗ của nó”(1). Việc C.Mác phát minh ra quan niệm duy vật về lịch sử, hay nói chính xác hơn, việc C.Mác áp dụng triệt để chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc xem xét các hiện tượng xã hội, theo V.I.Lênin, đã khắc phục được những khuyết điểm căn bản của các lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận này cùng lắm thì cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng trong hoạt động lịch sử của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của những động cơ đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan trong sự phát triển hệ thống các quan hệ xã hội và không nhận thấy trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của các quan hệ ấy. Hai là, những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân. Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác đã giúp chúng ta “nghiên cứu một cách chính xác như khoa lịch sử tự nhiên” những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và sự biến đổi của những điều kiện ấy… Nó mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội. Như vậy, không chỉ khắc phục những hạn chế của các lý luận trước kia, quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác còn trở thành một khoa học có hiệu quả nhất trong việc xem xét các hiện tượng xã hội(2). Đúng như V.I.Lênin đã nhận xét, “Hiện nay - từ khi bộ “Tư bản” ra đời - quan niệm duy vật lịch sử không còn là một giả thuyết nữa, mà là một nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học; và chừng nào chúng ta chưa tìm ra được một cách nào khác để giải thích một cách khoa học sự vận hành và sự phát triển của một hình thái xã hội nào đó… thì chừng đó quan niệm duy vật lịch sử vẫn cứ là đồng nghĩa với khoa học xã hội. Chủ nghĩa duy vật không phải “chủ yếu là một quan niệm khoa học về lịch sử”…, mà là một quan niệm khoa học duy nhất về lịch sử”(3).
  4. Từ những ý kiến của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể khẳng định rằng, cho đến nay, quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác vẫn là một quan niệm duy nhất khoa học về các quá trình xã hội và chính quan điểm này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong khoa học nghiên cứu về xã hội loài người. Cũng từ đây, mọi hiện tượng xã hội cũng như bản thân sự phát triển của xã hội loài người được nghiên cứu trên một cơ sở lý luận khoa học - quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác. Vậy, thực chất của quan niệm duy vật về lịch sử là gì? Về điều này, chính C.Mác đã trình bày một cách rõ ràng và cô đọng trong Lời tựa của Góp phần phê phán khoa học kinh tế - chính trị(4). Trong sự trình bày của C.Mác, chúng ta có thể rút ra một số kết luận có tính chất nguyên lý như sau: 1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. 2. Trong sản xuất, con người có những quan hệ nhất định - quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất đã có. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ấy đã kìm hãm sự phát triển của nó và khi đó, cách mạng xã hội sẽ diễn ra để thay thế xã hội này bằng xã hội khác. 3. Toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội hay cơ sở hạ tầng, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng và khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi “ít nhiều nhanh chóng”. 4. Sự phát triển của xã hội là sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội thấp bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Trong những kết luận trên, cần nhấn mạnh thêm rằng, ý thức xã hội, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vào lực lượng sản xuất và vào cơ sở hạ tầng, song chúng cũng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội có một vị trí đặc biệt. Nó vạch ra phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển này đã được C.Mác chỉ rõ là sự thay thế những hình thái kinh tế – xã hội
  5. thấp bằng những hình thái kinh tế – xã hội cao hơn. Sự thay thế này, theo C.Mác, không phải diễn ra một cách tuỳ tiện, mà diễn ra như một quá trình lịch sử – tự nhiên. C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”(5). Sau này, V.I.Lênin cũng đã khẳng định quan điểm trên đây của C.Mác, khi viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ra mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”(6). Một vấn đề đặt ra là, vậy thì thực chất của quá trình lịch sử – tự nhiên là thế nào? Trước hết, phải thấy rằng, cũng như tự nhiên, sự phát triển của xã hội loài người phải tuân theo các quy luật khách quan. Nếu như các quy luật tự nhiên phản ánh những mối liên hệ khách quan vốn có của tự nhiên, thì các quy luật xã hội phản ánh những mối liên hệ khách quan vốn có của xã hội loài người. Các quy luật này tồn tại và tác động không phụ thuộc vào ý thức của con người. Những quy luật ấy đã được phản ánh trong các luận điểm nói trên của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là trình độ của lực lượng sản xuất quyết định các quan hệ sản xuất và đến lượt mình, các quan hệ sản xuất lại quyết định các quan hệ xã hội và kiến trúc thượng tầng. Nếu muốn có một quan niệm đầy đủ hơn thì cần phải thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người luôn tuân theo các nguyên lý của quan niệm duy vật về lịch sử mà C.Mác đã xây dựng. Hai là, cũng trong những luận điểm trên, chúng ta còn thấy rằng, xét đến cùng, sự phát triển của xã hội luôn phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất có tính chất động, liên tục phát triển và mang tính kế thừa. Do vậy, sự phát triển của xã hội, sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội thấp bằng các hình thái kinh tế – xã hội cao cũng có tính kế thừa. Hình thái kinh tế – xã hội thấp chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, “xã hội mới hình thành trong lòng xã hội cũ”. Ba là, sự phát triển của xã hội loài người vừa có sự tịnh tiến, vừa có bước nhảy vọt; vừa có sự tích luỹ về lượng, vừa có sự nhảy vọt về chất. Các cuộc cách mạng xã hội chính là những bước nhảy vọt như vậy. Và, điều cuối cùng, cần phải nhận thấy rằng, con đường lịch sử – tự nhiên là con
  6. đường phổ biến trong sự phát triển của mọi dân tộc, mọi quốc gia. Các dân tộc, các quốc gia ở những thời đại lịch sử khác nhau có thể có những đặc điểm cụ thể khác nhau trong sự phát triển của mình, song cái lôgíc của sự phát triển ấy chính là quá trình lịch sử – tự nhiên. Chính vì vậy, có thể nói, quá trình lịch sử - tự nhiên là cái phổ biến trong sự phát triển của xã hội. Vậy, theo con đường lịch sử – tự nhiên thì các yếu tố cơ bản cấu thành của một hình thái kinh tế - xã hội, như quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng phải có mối quan hệ với nhau như thế nào? Theo đúng các quy luật khách quan thì khi đó, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất là yếu tố đặc trưng (quyết định) của mỗi loại hình cơ sở hạ tầng. Các yếu tố khác của cơ sở hạ tầng hoặc phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, hoặc không có vai trò đặc trưng. Mặt khác, cũng theo học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội thì tương ứng với mỗi kiểu quan hệ sản xuất nhất định phải có một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chính vì vậy, mối quan hệ thứ hai được thay bằng quan hệ kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với quan hệ sản xuất. Từ đó, có thể khẳng định rằng, nếu sự phát triển của xã hội theo đúng lôgíc khách quan của nó thì suy đến cùng, luôn có sự tương ứng giữa ba bộ phận: kiến trúc thượng tầng, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là cái quyết định. Khái quát lịch sử phát triển của xã hội loài người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nêu lên các thời đại đã thay thế nhau trong lịch sử. C.Mác cho rằng, “về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế - xã hội”(7). Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen cũng đã nêu ra các hình thái xã hội: nô lệ, phong kiến, tư sản(8). Còn V.I.Lênin, trongBàn về nhà nước đã phân chia các hình thái kinh tế - xã hội thành: xã hội nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ nông nô (chế độ phong kiến – TG.), chế độ tư bản(9). Đồng thời, các ông cũng đã dự đoán rằng, xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định phải nhường chỗ cho xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trung thành với tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, sau này, các nhà lý luận mácxít phân chia xã hội theo các hình thái cơ bản sau đây: cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
  7. sản là hình thái kinh tế – xã hội thay thế cho chủ nghĩa tư bản. Nhìn một cách tổng quát thì sự thay thế này sẽ diễn ra theo con đường lịch sử – tự nhiên, nghĩa là: Một khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên lỗi thời, nó sẽ bị thay thế bằng một phương thức sản xuất khác cao hơn – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. 2. Con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay Trước hết, cần phải khẳng định rằng, con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không hề mâu thuẫn với con đường lịch sử – tự nhiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người mà C.Mác đã đưa ra. Như trên đã trình bày, con đường lịch sử – tự nhiên là con đường phát triển phổ biến của xã hội loài người. Bên cạnh con đường phát triển phổ biến ấy, các quốc gia, dân tộc trong sự phát triển của mình còn có những biểu hiện đặc thù riêng; hơn nữa, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử – cụ thể mà có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội cụ thể. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã chỉ ra điều này và các ông cũng đưa ra những dự báo về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuân theo di sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, sau cách mạng dân tộc dân chủ, một loạt nước đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong thời gian đầu, Việt Nam đã thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Về đại thể, mô hình này có những đặc trưng cơ bản, như: - Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dưới hai hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. - Sản xuất, phân phối và giá cả được quyết định từ bên trên, từ Nhà nước với một kế hoạch tập trung và mang tính pháp lệnh. - Phân phối mang tính bình quân thông qua hệ thống tem phiếu, cửa hàng mang tính ước lệ, xem nhẹ quan hệ hàng hoá - tiền tệ. - Nhà nước, các cấp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, ít chú ý tới các liệu pháp kinh tế. Mô hình trên, trong thời gian đầu, đã thể hiện một số ưu điểm của nó, như:
  8. - Về mặt xã hội, nó đã giải quyết khá tốt các nhu cầu dân sinh vốn khá yếu kém ở các nước chậm phát triển. - Về mặt nhà nước, nó đã giúp cho việc huy động sức người, sức của cho công cuộc bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, cùng với thời gian, mô hình đó càng ngày càng tỏ ra hạn chế và dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Và, chính sự khủng hoảng ấy đã dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, trong đó có cả những luận điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định với tính khoa học của nó, đặc biệt là quan niệm duy vật về lịch sử, nhiều Đảng Cộng sản và các nhà nghiên cứu mácxít, khi phân tích tình hình thực tiễn thế giới và đất nước, so sánh với di sản của các nhà kinh điển, đã đi đến kết luận: Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ chứng tỏ sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình kế hoạch hoá tập trung chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cũng từ đó, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới. Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới toàn diện đất nước. Để tiến hành đổi mới đúng hướng, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có các bài học: 1. Chống chủ quan duy ý chí; 2. Phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Trước hết, cần phải nói rằng, sự thất bại của mô hình cũ xuất phát từ sự chủ quan duy ý chí. Trong một thời gian dài, chúng ta đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội theo ý muốn chủ quan, khi nghĩ rằng, với nhiệt tình, với “tấm lòng người cộng sản” là có thể nhanh chóng xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Với suy nghĩ sai lầm đó, chúng ta đã nhanh chóng thiết lập một quan hệ sản xuất có quá nhiều yếu tố vượt xa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đã đặt ra quá nhiều mục tiêu, nhiệm vụ (theo ước muốn chủ quan) mà trên thực tế, chưa có điều kiện để giải quyết chúng. Chính cách làm như vậy đã trở thành một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự khủng hoảng, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan
  9. hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng xã hội cũ. Cho nên nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được…”(10). Rõ ràng là, việc thiết lập một quan hệ sản xuất vượt quá xa so với thực tế của xã hội, việc thủ tiêu những thành tựu của văn minh tư sản mà chúng vẫn còn giá trị cho phát triển… là xuất phát từ sự chủ quan duy ý chí. Nhận rõ sai lầm đó, để công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Đảng ta đặt ra yêu cầu: Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan mà quan niệm duy vật về lịch sử đã đặt ra. Dựa trên các quy luật khách quan trong sự phát triển của xã hội loài người, căn cứ vào điều kiện đặc thù của Việt Nam và tính chất của thời đại – quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục lựa chọn con đường phát triển: đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn đúng đắn và nhất quán. Tuy nhiên, khác với trước đây, khái niệm “bỏ qua” đã được xác lập một cách cụ thể và chuẩn xác hơn, đó là “… bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(11). Khẳng định con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã chỉ rõ: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(12). Ở đây, cần phải nhấn mạnh rằng, con đường phát triển bỏ qua không được phép mâu thuẫn với con đường lịch sử – tự nhiên, nghĩa là không được phép vi phạm các quy luật khách quan. Cũng chính vì vậy, cùng với việc lựa chọn con đường phát triển bỏ qua, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành đổi mới căn bản mô hình phát triển kinh tế trong suốt quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp
  10. tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn”(13). Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới này, chúng tôi cho rằng, trong quá trình tiếp tục đổi mới tư duy ở Việt Nam, chúng ta cần chú ý tới các quan hệ sau: 1. Phải đổi mới tư duy một cách toàn diện và đồng bộ các mặt của đời sống xã hội đất nước. - Cùng với đổi mới tư duy kinh tế, phải đổi mới tư duy toàn diện các mặt khác, như chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học…, trước hết là đổi mới tư duy chính trị theo kịp với đổi mới kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. - Cùng với đổi mới tư duy lý luận, phải đổi mới tư duy thực tiễn. Chúng ta phải đổi mới hệ thống chính trị một cách phù hợp với cơ sở kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Phải xây dựng một cách đồng bộ các loại thị trường, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường. 3. Phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trong từng bước và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 4. Phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển nền khoa học, giáo dục, văn hoá tiên tiến. * * * Tính khoa học của quan niệm duy vật về lịch sử đã được khoa học và thực tiễn chứng minh. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn giá trị khoa học của nó vào công cuộc đổi mới đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Những ý kiến trên chỉ là những suy nghĩ bước đầu nhằm góp phần nhỏ vào việc nhận thức và vận dụng một quan niệm khoa học vào đời sống xã hội và chắc sẽ còn nhiều khiếm khuyết mong độc giả chia sẻ. r (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Lôgíc học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.45.
  11. (2) Xem: V.I.Lênin. Toàn tập, t.26. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.68 - 69. (3) V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.166. (4) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.13 – 18. (5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.21. (6) V.I.Lênin. Sđd., t.1., tr.163. (7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.16. (8) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.389-390. (9) Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.39, tr. 81-82. (10) C.Mác và Ph.Angghen. Sđd., t.13, tr.15. (11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 84 - 85. (12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70. (13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.75. UAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NỀN ĐẠO ĐỨC MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NGUYỄN VĂN PHÚC (*) Bài viết trình bày và phân tích quan niệm của C.Mác về bản chất của đạo đức, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, tiến bộ đạo đức, dự báo về sự hình thành nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa (thông qua sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giáo dục đạo đức). Đối chiếu với các quan niệm tương ứng trong lịch sử, tác giả khẳng định tính khoa học, cách mạng, ý nghĩa và giá trị trường tồn trong quan niệm của C.Mác về đạo đức. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vấn đề đặt ra là cần đẩy mạnh hơn nữa việc vận dụng và phát triển một cách sáng tạo quan niệm đó trong xây dựng đạo đức. Với việc phát hiện chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác không chỉ tạo ra bước ngoặt
  12. cách mạng trong quan niệm về sự phát triển xã hội nói chung mà còn đặt cơ sở khoa học cho tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội, trong đó có đạo đức học. Trước C.Mác, tất cả các nhà triết học, do duy tâm trong quan niệm về lịch sử, nên mặc dù có những tư tưởng hợp lý nhất định về đạo đức, nhưng nhìn chung, họ không giải quyết được một cách thật sự khoa học những vấn đề căn bản của đạo đức học. Vấn đề căn bản nhất của đạo đức học là vấn đề bản chất của đạo đức. Các tôn giáo cũng như các nhà triết học trước Mác thường quy đạo đức về một cội nguồn, một bản nguyên phi lịch sử. Bản nguyên đó hoặc là Thượng đế (tôn giáo), hoặc là một nguyên lý tiên thiên (I.Cantơ), một ý niệm tuyệt đối tự phát triển (G.Hêghen), một bản tính người trừu tượng (L.Phoiơbắc), một quyền uy nào đó (đạo đức học tán đồng), các quy luật của vũ trụ (đạo đức học mục đích luận vũ trụ),… Xuất phát từ vai trò của lao động sản xuất đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển con người, C.Mác đi đến quan niệm về tính quy định của phương thức sản xuất đối với toàn bộ hoạt động của con người, xã hội loài người.Một mặt, ông cho rằng, xã hội là một hệ thống sinh động các hiện tượng, các yếu tố đa dạng. Mỗi yếu tố, mỗi hiện tượng xã hội đều có những đặc trưng, những quy luật phát triển nội tại thuộc bản chất của chúng. Mặt khác, C.Mác lại khẳng định rằng, không thể nhận thức được một cách đúng đắn các hiện tượng đó, nếu chỉ xuất phát từ những đặc trưng, những quy luật nội tại của chúng. Những hiện tượng xã hội, như nhà nước, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức,… dù có tính đặc thù, nhưng xét đến cùng, cũng đều bắt nguồn từ cơ sở vật chất và bị quy định bởi cơ sở vật chất của xã hội. Trong Lời tựa viết cho Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị, C.Mác đã viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”(1). Luận điểm này chính là chìa khoá để nhận chân bản chất của mọi hiện tượng xã hội, trong đó có đạo đức. Với việc phát hiện ra tính quy định của phương thức sản xuất đời sống vật chất, đạo đức (và các hiện tượng tinh thần khác) không còn là biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ người, cũng không phải là sự biểu hiện của những năng lực tiên thiên, nhất thành bất biến của con người. Đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy định bởi tồn tại xã hội.
  13. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các lý tưởng, niềm tin và tình cảm đạo đức,… tức toàn bộ ý thức đạo đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Như vậy, đạo đức có bản chất xã hội. Tiếp tục và cụ thể hoá tư tưởng của C.Mác về tính quy định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ph.Ăngghen đã luận chứng cho bản chất xã hội của đạo đức bằng việc chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức. Trong Chống Đuyrinh, cùng với việc phê phán quan niệm của Ơ.Đuyrinh về những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, về thực chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua chỉ là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Đồng thời, ông cũng cho thấy, cùng với tính quy định của yếu tố thời đại, đạo đức còn bị chi phối bởi những yếu tố mang tính dân tộc. Nhìn nhận tính khác biệt và sự chuyển đổi giá trị trong cặp khái niệm cơ bản nhất của đạo đức học, cặp khái niệm Thiện - Ác, Ph.Ăngghen viết: “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về Thiện -Ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”(2). Cùng với tính thời đại và tính dân tộc, Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến tính giai cấp của đạo đức. Ông cho rằng, trong xã hội có phân chia giai cấp, mỗi hệ thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Không có đạo đức chung chung, đứng trên mọi sự phân biệt giai cấp. Phê phán những mưu toan biện hộ cho tính phi giai cấp của đạo đức, Ph.Ăngghen đã chỉ ra một cách cụ thể rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nghĩa là trong các nước tiên tiến ở châu Âu thế kỷ XIX, có ít nhất ba hệ thống đạo đức. Đó là đạo đức phong kiến Thiên chúa giáo, đạo đức tư sản và đạo đức vô sản của tương lai. Mỗi hệ thống đạo đức ấy phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xã hội tương ứng. Từ đó, ông khẳng định: “Con người, dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”(3). Nói rút cuộc có nghĩa đạo đức không trực tiếp phản ánh cơ sở kinh tế, mà nó quan hệ với kinh tế qua khâu trung gian là lợi ích. Trong suốt tiến trình lịch sử đạo đức
  14. học, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức hiện ra như một nghịch lý không khắc phục được. Ở phương Đông, Nho giáo cho rằng, quân tử cầu nghĩa, tiểu nhân cầu lợi. Nghĩa có thể hiểu là đạo lý, là nghĩa vụ phục vụ cộng đồng, phục vụ xã hội, còn lợi là lợi ích vật chất tầm thường. Như vậy, đối với Nho giáo, con người có đạo đức là con người nhận thức và thực hiện được những nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Và vì vậy, Nho giáo đã xác lập cả một hệ thống những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu, kính, tiết,…) để ràng buộc con người vào việc phục vụ lợi ích của xã hội (cố nhiên, lợi ích này trước hết là lợi ích của giai cấp phong kiến). Trong đạo đức Nho giáo không có chỗ cho lợi ích cá nhân. Ở phương Tây, những người theo nghĩa vụ luận cũng chủ trương rằng, không phải hạnh phúc cá nhân (tức lợi ích cá nhân) mà sự thực hiện nghĩa vụ mới là lý tưởng tối cao. Đối với nghĩa vụ luận, hành vi đạo đức là hành vi thực hiện nghĩa vụ, đem lại lợi ích cho người khác, cho xã hội; hành vi đem lại lợi ích cho cá nhân không có tư cách của hành vi đạo đức. Điều này được thể hiện tập trung nhất trong đạo đức học của I.Cantơ. Ngược lại, những người theo hạnh phúc luận lại coi xu hướng tự nhiên của con người là vươn tới hạnh phúc. Hạnh phúc cá nhân được coi là lý tưởng tối cao, mục đích và ý nghĩa cuộc sống. Hạnh phúc của người khác, của xã hội chỉ là phương tiện để thực hiện hạnh phúc cá nhân. Tính vị kỷ của quan điểm hạnh phúc luận thể hiện ở sự coi trọng lợi ích cá nhân và xem nhẹ nghĩa vụ đạo đức. Những nhà Khai sáng, đặc biệt là C.Henvêtiuýt đã kết nối đạo đức với lợi ích và cho rằng, lợi ích cá nhân được hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức. Cố nhiên, đối với C.Henvêtiúyt và những nhà Khai sáng, lợi ích cá nhân hiểu một cách đúng đắn là lợi ích được thực hiện trong khuôn khổ của các quan hệ tư bản, pháp luật và công lý của xã hội tư bản. Lợi ích ấy, trong nhiều trường hợp, đối lập với lợi ích của nhân dân lao động. Đạo đức được rút ra từ nguyên tắc lợi ích đó là thứ đạo đức bị giới hạn bởi lợi ích giai cấp. Mặc dù vậy, việc thừa nhận mối liên hệ giữa lợi ích và đạo đức được xem là một bước tiến trong nhận thức về đạo đức. Nó cho thấy, đạo đức có cơ sở ở đời sống hiện thực của con người. Kế thừa và phát triển tư tưởng này, C.Mác viết: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”(4). Đối với ông, vấn đề không phải ở chỗ đối lập một cách
  15. tách rời giữa lợi ích và đạo đức, mà là giải quyết như thế nào quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội để hành vi thực hiện lợi ích của con người trở thành hành vi đạo đức. Lợi ích cá nhân, khi phù hợp với lợi ích xã hội thì trở thành một bộ phận của lợi ích xã hội; và trong trường hợp đó, hành vi thực hiện lợi ích cá nhân là chính đáng về mặt đạo đức. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội còn phân chia giai cấp thì lợi ích cá nhân khó có thể phù hợp với lợi ích xã hội một cách phổ biến. Vì vậy, ra sức làm cho lợi ích của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người có nghĩa là, ra sức đấu tranh cho sự hình thành xã hội cộng sản chủ nghĩa, nơi mà lợi ích cá nhân hoàn toàn thống nhất với lợi ích của toàn thể xã hội, của loài người. Một trong những vấn đề căn bản khác của đạo đức học được C.Mác rất quan tâm là vấn đề tiến bộ đạo đức. Các học thuyết đạo đức trước Mác không nhận thấy hoặc không thừa nhận tiến bộ đạo đức. G.Hêghen cho rằng, ý niệm đạo đức là kết quả và là hình thái cao nhất trong sự phát triển của ý niệm pháp lý. Điều đó có nghĩa là, ở một chừng mực nhất định, G.Hêghen không chỉ nhận thấy mối liên hệ giữa ý niệm đạo đức và ý niệm pháp lý, mà còn nhận thấy sự phát triển của ý niệm từ hình thái pháp lý sang hình thái đạo đức. Tuy vậy, tính duy tâm và thần bí trong quan niệm về phát triển và hệ thống triết học khép kín của ông đã không dẫn đến một sự lý giải thoả đáng về tiến bộ đạo đức. Trái lại, G.Hêghen đã biện hộ một cách siêu hình cho sự tồn tại của nhà nước Phổ với tư cách hình thái phát triển cao nhất và do đó, là sự thể hiện đầy đủ nhất ý niệm đạo đức. Mặc dù xuất phát từ con người, coi đạo đức là quan hệ giữa người và người, nhưng lại không thấy được bản chất xã hội của con người, nên L.Phoiơbắc đã nhìn nhận đạo đức như những quan hệ, những đức tính trừu tượng, bất biến mang tính nhân bản thuần tuý. Chủ nghĩa nhân bản đã khiến ông không biết đến tiến bộ đạo đức. Trong nửa sau thế kỷ XIX, quan niệm siêu hình về những nguyên tắc đạo đức trừu tượng, bất biến được thể hiện rất cực đoan trong hệ thống của Ơ.Đuyrinh. Xuất phát từ tính quy định của tồn tại xã hội đối với đạo đức, Ph.Ăngghen đã phê phán một cách xác đáng quan điểm của Ơ.Đuyrinh và khẳng định: “Đối với đạo đức cũng như đối với tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại, nói chung người ta thấy có một sự tiến bộ”(5). Tuy nhiên, theo C.Mác, đạo đức không phải là sự phản ánh trực tiếp cơ sở kinh tế, và
  16. quan hệ giữa kinh tế với đạo đức không phải là quan hệ đơn trị, một chiều. Vì vậy, không phải mọi biến đổi nào đó trong cơ sở kinh tế cũng đều nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đạo đức. Nhìn nhận đạo đức như một hình thái ý thức xã hội, C.Mác không những đã chỉ ra tính quy định của kinh tế đối với đạo đức, mà còn cho thấy những ảnh hưởng của triết học, chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,… nghĩa là của toàn bộ đời sống tinh thần đối với đạo đức. Đồng thời, ông cũng chỉ ra sự kế thừa như một quy luật của quá trình hình thành, phát triển đạo đức và đạo đức học. Trong điều kiện xã hội phân chia giai cấp, sự kế thừa đó lại bị quy định bởi lợi ích của giai cấp đang tiến hành xây dựng hệ thống đạo đức của mình. Vì vậy, tiến bộ đạo đức, theo C.Mác, không trùng khít với sự tăng trưởng kinh tế - kỹ thuật. Sự tăng trưởng kinh tế - kỹ thuật trong những điều kiện nhất định có thể dẫn đến sự thoái bộ trên một số phương diện nào đó của đạo đức. Chẳng hạn, C.Mác cho rằng, sự không tương đồng này thể hiện rõ nét nhất trong điều kiện cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự chạy đua áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm mục đích duy nhất là thu thật nhiều lợi nhuận. Về điều này, ông viết: “Mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh phục được tự nhiên nhiều hơn thì con người lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình”(6). Cội nguồn của tình trạng này, như C.Mác đã chỉ rõ, nằm ngay trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phương thức dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự khắc phục triệt để tình trạng không tương đồng giữa đạo đức và tiến bộ kỹ thuật chỉ có được trong điều kiện của chủ nghĩa cộng sản dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Khẳng định tiến bộ đạo đức, chỉ ra tính quy luật của sự phát triển đạo đức, các nhà
  17. sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra dự báo về sự xuất hiện một nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nền đạo đức này là sự tiếp tục và phát triển của đạo đức vô sản xuất hiện cùng với giai cấp vô sản trong lòng xã hội tư bản. Mặc dù xuất hiện trong lòng xã hội tư bản, song đạo đức vô sản chứa đựng một “số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” và tiêu biểu cho tương lai. Cùng với thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, đạo đức cộng sản sẽ được xác lập như một nền “đạo đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những đối lập ấy”(7). Đối với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, sự hình thành đạo đức cộng sản không chỉ gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và là một bộ phận của cuộc đấu tranh ấy, mà còn gắn liền với sự nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nói cách khác, các ông đã chỉ ra mối liên hệ, tính quy định của cơ sở kinh tế - xã hội đối với sự hình thành nền đạo đức mới. Sau này, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin đã khẳng định: “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”(8); và do đó “đạo đức là những gì góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới”(9). Sự hình thành nền đạo đức mới, suy cho cùng, phải thể hiện ở những nhân cách đạo đức, tức những chủ thể của các quan hệ, các hoạt động người. Chính các chủ thể đạo đức thể hiện giá trị, vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội. Vì thế, giáo dục đạo đức nhằm hình thành và phát triển những năng lực đạo đức cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội luôn là mối quan tâm của các học thuyết đạo đức. Coi bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, C.Mác còn chỉ ra tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội, và cùng với điều đó là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành nhân cách và nhân cách đạo đức. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác đã đem lại cho khái niệm giáo dục đạo đức một phạm vi khái quát rộng lớn với tư cách quá trình hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm chất đạo đức của con người; do đó, làm cho nó có nội dung đầy đủ và phong phú hơn. Giáo dục đạo đức, theo nghĩa rộng là sự hình thành đạo đức, không quy giản chỉ về việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội, những cách thức
  18. ứng xử giữa người và người theo những yêu cầu nhất định (các hệ thống giáo dục đạo đức trước C.Mác chỉ dừng lại ở quá trình này). Tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự hình thành nhân cách đạo đức khiến C.Mác đặc biệt chú ý đến việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng đáng nhất, hợp với bản chất người nhất”, coi đó là cơ sở, đồng thời là một phương diện hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện tối hậu quyết định sự phát triển đạo đức con người. Trong giáo dục đạo đức, C.Mác chủ trương phải kết hợp hai phương diện:truyền đạt và nêu gương. Những tấm gương đạo đức là hiện thân sinh độngcủa các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Nhờ vậy, chúng có sức cảm hoá, có khả năng thâm nhập một cách tự nhiên vào ý thức con người. Điều đó đòi hỏi nhà giáo dục đạo đức phải là tấm gương về đạo đức. Nhưng để trở thành tấm gương, họ cần phải có những phẩm chất đáp ứng các yêu cầu của giáo dục. Vì vậy, C.Mác cho rằng, bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục. Như vậy, tất cả những vấn đề căn bản nhất của đạo đức học: từ bản chất của đạo đức, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, tiến bộ đạo đức, đến những dự báo về sự hình thành nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa (thông qua sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản và giáo dục đạo đức) đều được C.Mác lý giải một cách khoa học. Những tư tưởng đó đã thực sự tạo nênbước ngoặt cách mạng trong đạo đức học và làm nên giá trị trường tồn của học thuyết Mác về đạo đức. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang xây dựng nền đạo đức mới; nền đạo đức này chính là một bộ phận và là khởi đầu của nền đạo đức cộng sản mà C.Mác đã dự báo. Bởi thế, quan niệm về đạo đức của C.Mác vẫn còn nguyên giá trị với tư cách cơ sở lý luận, phương pháp luận của sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta. Thực vậy, nếu đạo đức, xét đến cùng, bị quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội, thì sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới hiện nay gắn liền và là một bộ phận của sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chịu sự chi phối của sự nghiệp đổi mới. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng thể của sự nghiệp đổi mới. Do vậy, mục tiêu ấy cần được quán triệt không chỉ trong quá trình đổi mới nói chung, mà cả trong sự nghiệp xây dựng đạo đức nói riêng. Đạo đức phải góp phần thực hiện những mục tiêu đó và là động lực của sự
  19. nghiệp đó. Tất cả những gì góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước cần được coi là hợp đạo đức. Với quan điểm có tính phương pháp luận đó, chúng ta sẽ có cách nhìn nhận và giải quyết những vấn đề đạo đức một cách cụ thể, thực tế và hiệu quả hơn; khắc phục được cách nhìn nhận giáo điều về những giá trị đạo đức tuyệt đối, thiếu cơ sở thực tế. Điều đó có nghĩa là, chúng ta phải lấy những yêu cầu, những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới làm căn cứ để xác lập các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; đồng thời, làm tiêu chí để đánh giá, kế thừa, đổi mới các giá trị truyền thống, cũng như tiếp thu những giá trị văn hoá, đạo đức của nhân loại trong quá trình hội nhập quốc tế. Nếu đạo đức có cơ sở ở sự thống nhất và chuyển hoá giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thì có thể thấy, kinh tế thị trường không đối lập với đạo đức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong việc giải quyết những vấn đề thực tế, cũng như lý luận, nhiều khi, chúng ta vẫn còn lúng túng bởi sự chi phối của quan điểm truyền thống in đậm dấu ấn Nho giáo với sự lựa chọn: hoặc là lợi ích, hoặc là đạo đức. Nhưng nếu nhìn nhận quan hệ giữa lợi ích và đạo đức theo tinh thần của C.Mác, thì con người mưu lợi cá nhân trong hoạt động thị trường không hoàn toàn là con người ích kỷ. Họ vẫn có thể là con người có đạo đức nếu lợi ích mà họ theo đuổi không cản trở lợi ích của người khác, của xã hội; bởi lợi ích ấy cũng chính là một bộ phận của lợi ích xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, quan điểm đó sẽ khuyến khích con người có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giầu cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Đồng thời, thông qua những hoạt động năng động của mình, con người khẳng định nhân cách đạo đức một cách tích cực, lấy hiệu quả của hoạt động đảm bảo cho đạo đức. Tuy nhiên, dưới tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân trong trường hợp không được kiểm soát (cả về mặt pháp lý lẫn mặt đạo đức) sẽ có thể đối lập với lợi ích xã hội. Vì vậy, để lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của xã hội, tiến tới phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người như C.Mác khẳng định, thì định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường là giải pháp tất yếu và tối ưu trong điều kiện hiện nay. Tư tưởng của C.Mác về khả năng không tương đồng giữa phát triển kinh tế - kỹ thuật và tiến bộ đạo đức có ý nghĩa cảnh báo đặc biệt trong phát triển nói chung và trong xây dựng đạo đức nói riêng. Những yêu cầu của bản thân kinh tế thị trường theo
  20. hướng kinh tế tri thức cũng như những yêu cầu của hội nhập đang thúc đẩy mạnh mẽ việc áp dụng tiến bộ công nghệ. Nếu không lường trước, chúng ta sẽ phải đối mặt với những nguy cơ về đạo đức. Đó là sự gia tăng tính vô cảm, tính ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, tệ sùng bái vật chất, chủ nghĩa hư vô về giá trị, thói phô trương, hãnh tiến,… trong điều kiện kinh tế thị trường gắn liền với việc đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ công nghệ. Chính vì vậy mà Đảng ta chủ trương: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(10). Chủ trương đó nhằm đảm bảo ổn định, bền vững cho phát triển, trong đó có việc khắc phục sự không tương đồng giữa phát triển kinh tế - kỹ thuật với tiến bộ đạo đức. Đối với vấn đề giáo dục đạo đức, quan niệm của C.Mác về việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”, tức những điều kiện xứng đáng với bản chất con người cũng đang được quán triệt bởi quan điểm lấy con người làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách xã hội và chủ trương đưa văn hoá vào phát triển, “làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người… Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”(11). Cùng với điều đó, công tác giáo dục đạo đức cũng đang được tiến hành theo tinh thần kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa truyền đạt và nêu gương với tiêu điểm là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cuộc vận động này đang được triển khai sâu rộng trên phạm vi toàn quốc thông qua nhiều hình thức hoạt động sinh động đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đồng thời khẳng định ý nghĩa trong quan niệm của C.Mác về giáo dục đạo đức. Quan niệm về đạo đức của C.Mác đang được vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Điều đó thể hiện ý nghĩa và giá trị trường tồn của những tư tưởng khoa học, cách mạng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Vấn đề đặt ra là, cần đẩy mạnh hơn nữa việc vận dụng và phát triển một cách sáng tạo những tư tưởng đó, đồng thời khắc phục những bất cập hiện nay trong xây dựng nền đạo đức mới.r
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2