intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 22 - Tri thức trong đời sông-xã hội

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

58
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, tri thức trong đời sống xã hội, hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế tri thức,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 22 - Tri thức trong đời sông-xã hội

  1.   LỜI NÓI ĐẦU          Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng   trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ  ba ­văn minh trí tuệ. Trong nền văn   minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức ­  có thể nói là hết sức  cơ  bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về  công nghệ  thông tin như: công nghệ  Web, Internet, thực tế   ảo, thương mại tin   học.... Cùng với những thành tựu về  công nghệ  sinh học: công nghệ  gen, nhân   bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ  nền kinh tế  thế  giới và toàn bộ  xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế  tri   thức.Rất nhiều nước trên thế  giới đều có tăng trưởng kinh tế  từ  tri thức.Việt   Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực   và trên thế  giới.Do đó phát triển kinh tế  là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn  nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất  nước nên không thể không đặt  mình vào tri thức, phát triển tri thức để  đưa nền  kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.      Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công  nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng   đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp   với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát  triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy em quyết định chọn  đề tài  này để làm đề tài nghiên cứu của mình.
  2.   CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG 1.1  Khái niệm về tri thức.       Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư  duy thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho   đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự  phát triển kinh   tế­xã hội mới được đề cặp nhiều.Vậy tri thức là gì?    Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “ Tri thức là sự hiểu   biết, sáng tạo và những khả  năng, kỹ  năng để  ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo)   vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế ­xã hội.        Tri thức bao gồm tất cả  những thông tin,số  liệu,bản vẽ,tưởng tượng(sáng  tạo),khả năng,kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng   trưng xã hội khác.Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã hội.   Kinh tế  thế giới đang bước vào một thời đại mới,một trình độ mới.Đó là trình  độ  mà”nhân tố  quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và  việc sáng tạo,phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí  chủ yếu của nó là lấy tri thức,trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và  tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên.Đó là thời đại  mà “Tri thức đã trở  thành động lực chủ  yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức  là tài nguyên là tư  bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực   dẫn dắt cho sự  tăng trưởng dài hạn..dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ  chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…       1.2 Vai trò của tri thức trong đời sông­xã hội   Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác   động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội :kinh tế,chính trị,văn hoá giáo dục.. 1.2.1 Vai trò của tri  thức đối với Kinh tế­Kinh tế tri thức
  3.       Nền kỉnh tế  tri thức là nền kinh tế  trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử   dụng, khai thác,sáng tạo tri thức trở  thành thành phần chủ  đạo trong quá trình   tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước   đó:   ­Tri thức khoa học­công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ  sỏ chủ  yếu   và phát triển rất mạnh   ­Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ.   ­Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát   triển.   ­Nền kinh tế mang tính học tập.   ­Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.   ­Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng  vô tận và năng động là tri thức.     Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng khoa   học –công nghệ  và toàn cầu hoá,kinh tế  tri thức đang hình thành  ở  nhiều nước  phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một,hai thập niên tới.     Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.    Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội   dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ  thuộc   vào việc sử  dụng tiền bạc, nguyên vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết   bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông  tin từ  môi trường kinh doanh.Cách tốt nhất để  tăng năng suất là tìm hiểu kiến  thức chuyên môn mà hãng có được,sử  dụng vì mục đích thương mại và những   kiến thức này cần được phát triển không ngừng.     Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm  và các công ty công nghệ  sinh học không chỉ  nằm trong những tài sản vật chất  hữu hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình,như tri thức và các bằng sáng  chế.Để  trở  thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết   nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị  kinh doanh.Vốn  
  4.   trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công   nhân cũng như  khả  năng của công ty để  liên tục hoàn thiện phương pháp sản   xuất là  một nguồn lợi thế cạnh tranh.Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra  phần giá trị  vô hình của các công ty  công nghệ  cao và dịch vụ  đã vượt xa phần  giá trị  hữu hình của các tài sản vật thể  của các công ty đó,như  các toà nhà hay   thiết bị.Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần  rất nhỏ trong tổng giá trị  được vốn hoá trên thị truờng của công ty này.Phần lớn   là vốn trí tuệ.Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần,  thu nhập tăng 370 nghìn lần,1/10 số nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con  người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.       Nền  kinh  tế   tri   thức   sẽ   ngày   càng  làm  xuất  hiện  nhiều   sản   phẩm   thông  minh.Đó là những sản phẩm có khả  năng gạn lọc và giải thích các thông tin để  người sử  dụng có thể  hành động một cách hiệu quả  hơn.Ngay cả  một chiếc   bánh kẹp thịt cũng có thể  trở  thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng   cách làm cho khách hàng biết cách sử  dụng những thông tin về  dinh dưỡng.Số  lượng ka­lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó   trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể  truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình  vừa được thông tin.   Vốn tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thức   Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục   đích sinh lợi(tăng thêm giá trị). Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh nông   nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những   yếu tố  của sản xuất công   nghiệp,vốn,đất đai và nhất là sức lao động trở  thành hàng hoá với tư  cách là  những yếu tố  quan trọng trong sự phát triển kinh tế­xã hội,góp phần chuyển xã  hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong kinh tế tri thức,yếu tố  của sự  phát triển nền kinh tế­xã hội không chỉ  bao gồm vốn tiền tệ,đất đai và   dựa trên lao động giản đơn mà chủ  yếu dựa trên lao động trí tuệ  gắn với tri  
  5.   thức.Như vốn tri thức  trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu   tố sức lao động vốn tiền tệ và đất đai.    Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế­xã  hội.Nước Mỹ  nói riêng và các nước thuộc tổ  chức OECD nói chung nhiều năm  qua tăng trưởng  ổn định với tốc độ  cao là nhờ  có sự  phát triển của các   ngành   kinh   tế   dựa   trên   tri   thức   như   các   ngành   công   nghệ   thông   tin,viễn   thông,   vũ   trụ,đầu tư,ngân hàng,tài chính,chứng khoán,bảo   hiểm…Đồng thời chuyển đầu  tư  vốn tri thức từ  các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức  cao.ở các nước có nền kinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì  mang lại giá trị gia tăng cang lớn,tỷ xuất lợi nhuận càng cao.   Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất   bại của doanh nghiệp.Vốn tri thức  ở đây bao gồm các công nhân tri thức,các nhà  quản lý có trình độ cao,các công nghệ mới.   Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa   các nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa  là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển,trong đó có  Việt Nam.Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với  kinh tế  tri thức,thông qua tri thức hoá các ngành công nghiệp,nông nghiệp,dịch  vụ,đặc biệt sớm hình thành các công nghệ  cao để  nhanh chóng đưa nền kinh tế  đất nước đuổi kịp các nước  phát triển.      1.2.2  Vai trò tri thức đối với chính trị    Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức  là có khả  năng tư  duy lý luận,khả  năng phân tích tiếp cận vấn đề  một cách sát   thực,đúng đắn.Điều này rất quan trọng,một đất nước rất cần những con người   như vây để điều hành công việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một   quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự  chuyển hướng mạnh mẽ  trong nhận thức về  nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố  con người và lấy việc phục vụ  con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt  
  6.   đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần   có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :      Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã   hội chủ  nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ  những tri  thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối  chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ  thể  về  chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.       Sắp xếp các cơ  quan nghiên cứu khoa học –công nghệ  và giáo dục­đào tạo   thành một hệ  thống có mối liên hệ  gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều   kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và  ứng dụng kết quả  nghiên cứu  vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và   gắn kết trường đại học và các công ty,xí nghiệp.Các cơ  quan nghiên cứu và đào  tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa   trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.       Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng   trách và các nhà khoa học đầu  nganh của các cơ quan giáo dục­đào tạo và trung   tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ  tri của đồng trí chủ  tịch,sự  tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục ­đào   tạo và khoa học­công nghệ  quốc gia về  những ý kiến tư  vấn,khuyến nghị  của  tập thể  các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về  định hướng phát triển giáo   dục­đào tạo.Phát triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương   trình   đề   tài,giới   thiệu     những   nhà   khoa   học   tài   năng   để   viết   giáo   khoa,giáo  trình,làm chủ nhiệm chương trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm  định nghiệm thu các chương trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.    Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của   các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư  vấn,những   khuyến nghị  xác thực có giá trị  với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực   lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ  vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ  mà đất nước đang mong chờ  để  sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát   triển.
  7.   1.2.3  Vai trò tri thức đối với văn hoá­giáo dục     Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá ­giáo dục của một quốc gia. Nó   giúp con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của   con người được nâng  cao.Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh.Có những  hiểu biết về tầm quan  trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,phồn vinh.
  8.   CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆT NAM 2.1 Những cơ hội và thách thức   2.1.1  Cơ hội đối với Việt nam        Việt nam đang đứng trước cơ  hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, nếu bỏ lỡ  không biết tận dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của   thời đại, đi tắt vào những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức  thì sẽ tụt hậu. Đại hội VIII đã khẳng định phải:  "đi tắt đón đầu" nếu không làm  được thế thì sự tụt hậu là rất dễ xảy ra.       Có ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc   độ: ­ Vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những   ngành công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của   người dân. ­ Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công   nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh   tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề  mới, việc làm mới, đạt tốc độ  cao, hội   nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. ­ Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mô hình công  nghiệp hoá của các nước khác. Và cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là xây   dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự  chuyển nền kinh tế  từ  tình trạng lạc   hậu, năng suất chất lượng thấp kém, phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao   động thủ  công là chính sang nền kinh tế có năng suất chất lượng hiệu quả cao,   phương pháp sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới  nhất. Vì vậy công nghiệp hoá phải đi đôi với cơ giới hoá. Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước   ta không thể  bỏ  lỡ  cơ  hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền kinh tế  tri thức, rút  ngắn khoảng cách với các nước, như  vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng 
  9.   thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang  công nghiệp và từ công nghiệp sang tri thức. Cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm  bắt kịp thời các tri thức và công nghệ  mới nhất để  hiện đại hoá nông nghiệp,   đồng thời phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ  dựa vào tri thức và công   nghệ mới nhất. Về công nghệ thông tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong   các động lực chủ  yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế  tri thức và xã hội   thông tin. Công nghệ thông tin phát triển không những góp phần giải phóng năng  lực vật chất, trí tuệ  của cả  dân tộc mà còn có trình độ  trực tiếp đến việc nâng  cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu hoá, toàn  cầu hoá lại tạo ra các cơ  hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu tư  nước   ngoài để  giải quyết tình trạng thiếu vốn từ  nội bộ  nền kinh tế:  Ở  Việt nam   trong 13 năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đã có gần 3000 dự án được   đăng ký với số vốn đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ USD. Mặc dù còn ít về số lượng, nhỏ bé về quy mô, nhưng chúng ta cũng có được  khoảng vài chục dự  án và khoảng nửa tỷ  USD được đầu tư  nước ngoài. Điều  này thúc đẩy quá trình hội nhập của chúng ta vào khu vực toàn cầu.   2. 1.2  Những thách thức Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin và tri thức. Nói về  tri thức khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 19, cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế  kỷ  20: 10 năm, hiện nay là 3­5 năm. Một số  nước phát triển sớm bước vào xây   dựng kinh tế  tri thức đã đặt ra các nước đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài  nguyên và sức lao động bị giảm rõ rệt dẫn đến làm giảm thu nhập quốc dân.        Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn chất xám đã làm cho các nước đã nghèo   lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi cái nghèo. Trên thế  giới khoảng 20% dân số  giàu  ở  các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong   khi 20% dân số  nghèo nhất chỉ  chiếm 1% GDP, tương tự  ở công nghiệp là  44, 
  10.   5% và 8%. Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang là một  thách thức đối với các nhà hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.        Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt nam công nghệ thông tin được coi là một   trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên  công nghệ  thông tin của nước ta vẫn còn đang  ở  tình trạng lạc hậu kém hơn  nhiều các nước trong khu vực. Để  hội nhập thành công Việt nam cần tiếp tục chính sách đối ngoại đa  phương, giảm và tiến tới hàng rào bảo hộ  và nâng cao năng lực cạnh tranh của  doanh nghiệp, đồng thời cần đổi mới tư  duy về  công tác cán bộ  có khả  năng  thích ứng với cơ chế thị trường và hội nhập ngày nay. 2.2  Doanh nghiệp Việt Nam       Thực tế hiện nay  ở các doanh nghiệp nước ta,tỷ lệ lao động qua đào tạo rất   thấp.Trong các doanh nghiệp Việt Nam,số lao động có trình độ  cao đẳng trở  lên  chiếm 32%,trong khi đó con số  này  ở  Hàn Quốc là 48%,Nhật Bản 64,4%,Thái  Lan58,2%.       Trình độ  công nghệ   ở  các doanh nghiệp nhìn chung cong lạc hậu,ứng dụng   công nghệ  thông tin còn yếu.Theo kết quả khảo sat 42 cơ sở của một ngành do  Viện khoa học bảo hộ  lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến   hành gần đây,có đến 76% thiết bị,máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm  50­60.Xét về  trình độ  công nghệ  thông tin,Việt Nam chỉ   đứng thứ  7/10 trong  ASEAN(Báo đầu tư,số 23,22/2/2001).Theo diễn đàn kinh tế thế giới(1/2001),năm  1999,Việt Nam đứng thứ  48/59 nước  về  khả  năng cạnh tranh của nền kinh tế  nhưng đứng thứ  59/59 về  sử  dụng thư  điện tử.Thương mại điện tử  còn là khái   niêm tương đối xa lạ với nhiều doanh nghiệp.  
  11.  
  12.   CHƯƠNG III GIẢI PHÁP CHO VIỆC ỨNG DỤNG TỐT HƠN NỮA TRI THỨC VÀO  ĐỜI SỐNG XàHỘI. 3.1 Phát huy nguồn lực con người là yếu tố  cơ  bản cho sự  phát triển   nhanh và bền vững.   Con người được đặt vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược,được khẳng định  vừa là mục tiêu,vừa là động lực chính của sự  phát triển kinh tế  –xã hội.Quan   niệm coi con người là  nguồn lực của mọi nguồn lực,coi chiến lược phát triển  kinh tế xã hội thực chất là chiến lược con người,đó là những quan niệm tích cực  hình thanh từ  thực tiễn đổi mới của nước ta trong những năm qua.Vởy làm thế  nào để phát huy nguồn lực con ngườiNhững năm tới,chiến lược con người của   Đảng cần hướng vào:        Thứ  nhất,Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo,khẩn trương đổi mới giáo  dục và đào tạo.   Nếu  nguồn lực con người là động lực trực tiếp của sự phát triển thì giáo duc­ đào tạo là nền tảng của chiến lược con người.Coi trọng công tác giáo dục và  đào tạo cũng chính  là coi trọng nhân tố con người.Giáo dục­đào tạo phải được  coi là cái gốc của sự  phát triển.Bản thân giáo dục là một quá trình văn hoá,là   một tác nhân văn hoá để  phát triển con người. Vì vậy,giáo dục và đào tạo phải  là một bộ phận của kế hoạch kinh tế­xã hội,gắn liền với sự phát triển  kinh tế­ xã hội.   Chất lượng của một quốc gia sẽ được đánh giá theo các tiêu chí:dân cư  được   giáo dục tốt,nguồn nhân lực dựa vào trí tuệ,sự  dồi dào của quỹ  trí thức,sự  linh   hoạt,hiệu quả  của cơ  cấu tài chính,đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài giỏi..mà  giáo dục ­đào tạo lại có ảnh hưởng then chốt đến các vấn đề  trên,tức là có vai   trò làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế.      Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục­đào tạo.
  13.       Gắn chất lượng đào tạo với yêu cầu thực tế: Trước hết phải nâng cao chất  lượng   giảng   dạy   của   đội   ngũ   giáo   viên,giáo   viên   thường   xuyên   được   bồi  dưỡng.được   đào  tạo  lại,được   áp  dụng  những  phương   pháp  giảng  dạy  hiện   đại,và phaỉ  luôn trau dồi ngoại ngữ,biết sử  dụng những thiết bị  hiện đại.Nội  dung giảng dạy cần đạt sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành,cần cập kịp thời   nội  dung tri   thức  hiện   đại của   thế   giới  và  những vấn  đề   bức   xúc   của   đất  nước,cần chú ý tới yếu tố  kỹ  năng,kỹ  thuật,công nghệ  và thực nghiệm…để  cung  cấp  cho  xã   hội  một   đội   ngũ    lao  động  lành  nghề,các   chuyên  gia   công  nghệ,những nhà quản lý có khả năng sáng tạo và làm chủ  tri thức hiện đại,hoà  nhịp được với yêu cầu khắt khe của kinh tế thị trường.Khắc phục phương pháp  giảng dạy”chay”,dạy áp đặt,thày đọc,trò chép,sinh viên chỉ  biết vâng lời người  dạy,thay bằng phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm”đòi hỏi khả  năng làm  việc tích cực  ở cả thày và trò.Nội dung và phương pháp giáo dục­đào tạo ở  tất   cả các cấp phải định hướng thoát ra khỏi những gì là khuôn cứng.Tĩnh lại,mang   tính thừa nhận sáng tạo điều khiển cho phát triển tư  duy một cách cởi mở,tìm  tòi,sáng  tạo:phải  giúp   cho  người   học   có   tính   cơ   động   cao,để   thích   ứng  với  những chuyển  biến nhanh chóng của  kinh tế  thị  trường,của  thị  trường việc   làm,thị trường sức lao động.    Thay thế quan niệm”đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng”đào tạo theo   nhu cầu xã hội”. Điều chỉnh cơ cấu tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tê­xã hội,nhanh  chóng khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề  và  giữa các cấp đào tạo hiện nay.Trong một thế giới diễn ra sự đua tranh,cạnh tranh   mạnh mẽ hiện nay giáo dục­đào tạo cần định hướng tới tính tái sản xuất của lực  lượng lao động,tính hướng tới tính sản xuất của lực lượng lao động    3.2  Hướng đi cho doanh nghiệp Việt Nam. Để  doanh nghiệp Việt Nam thích  ứng với   nền kinh tế  tri thức cần có những  biện pháp đồng bộ  về  chính sách của Nhà nước (như  hỗ  trợ  nghiên cứu phát   triển,xây dựng hệ  thông thông tin,phát triển  giáo dục…)và các động thái tích  cực,chủ động của từng doanh nghiệp.
  14.         Đầu tư  cho nhân lực.Những cá nhân xuất sắc sẽ  là vốn quí cho từng doanh   nghiệp.Với   tri   thức,họ   sẽ   tạo   ra   thành   công   cho   doanh   nghiệp,làm   tăng   hàm   lượng chất xám trong sản phẩm. Các doanh nghiệp nước ta nên áp dụng mô hình   đào tạo và phát triển nhân sự theo nguyên tắc trách nhiệm từ dưới lên.Trước hết  từng nhân viên phải chịu trách nhiệm cho sự  phát triển con người của chính   mình,sau đó   trách nhiệm  thuộc  về   cấp  trên trực  tiếp  với  vai  trò   huấn luyện   viên,tiếp theo là cấp trên gián tiếp với vai trò người  cố vấn,và sau cùng vai trò   người ủng hộ của lãnh đạo hàng đầu doanh nghiệp.Khi đó trưởng bộ phận nhân  sự  hoạt động như  là người xây dựng phát triển mô hình, người điều phối và tư  vấn bên canh việc xây dựng và áp dụng mô hình này, doanh nghiệp nên chú trọng   vào hình thức đào tạo tại nơi làm việc”(hơn là đào tạo ngoài nơi làm việc).Như  vậy  doanh  nghiệp  sẽ   nâng  cao  chất  lượng  đội   ngũ   lao  động  thông  qua   việc  khuyến khích và động viên toàn thể  nhân viên hướng tới học tập suốt đời với  mức chi phí hợp lý.      Đổi mới và cải tiến công nghệ,áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt độn g   sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao khả  năng cạnh tranh,thích  ứng của doanh   nghiệp với thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam nên  tận dụng năng lực công nghệ hiện có,thực hiện   chuyển giao công nghệ  bằng nhiều hình thức khác nhau như  mua,hợp tác liên   doanh,truy cập thông tin…Đồng thời chủ động áp dụng công nghệ thông tin trong  sản xuất kinh doanh như áp dụng phần mềm,xây dựng trang web quảng cáo,giới  thiệu sản phẩm và cung cấp các dịch vụ  hỗ  trợ  trực tuyến nhằm gắn kết chặt   chẽ  hơn với khách hàng,tạo cơ  hội tiếp cận với thị  trường thế  giới…Đó sẽ  là  bước   đi   đầu   tiên   của   doanh   nghiệp   hướng   tới   thương   mại   điện   tử.Tuy  nhiên,điều quan trọng là lựa chon và đổi mới công nghệ  không chỉ  dựa trên ý  muốn chủ quan của doanh nghiệp mà còn phải xuất phát từ nhu cầu,thị hiếu của  khách hàng.       Chú trọng đến quản trị tri thức trong phạm vi doanh nghiệp.Đây là một khái   niệm tương đối mới,bao hàm nội dung tiếp cận tri thức và thông tin,sử dụng chia   sẻ  tri thức và thông tin giữa các thành viên   trong doanh nghiệp.Nhiệm vụ  của  
  15.   quản trị  gia là tạo môi trường,xác lập cơ  cấu tổ  chức quản trị  phù hợp   để  khuyến khích sự sáng tạo trong doanh nghiệp,chia sẻ thông tin,tri thức giữacác cá   nhân và bộ  phận.Điều này liên quan đến việc hình thành văn hoá doanh nghiệp  hệ thống thông tin trong doanh nghiệp rõ ràng… Doanh nghiệp là một tổ chức giáo dục Kinh tế tri thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao lực lượng trong việc hấp   thụ  tri thức,vận dụng tri thức và tự  mình đổi mới tri thức.Điều đó dẫn đến các  hãng cũng phải trở  thành các tổ  chức học hỏi.Thông tin và lao động di chuyển   ngày càng nhanh buộc các công ty phải nhậy bén hơn,đòi hỏi mọi người   phải   luôn tiếp tục học tập.Học tập bao gồm cả trao đổi các thông tin,tri thức và kỹ  thuật có sẵn và phát hiện ra các nguyên tắc và tri thức mới.Một số phương pháp   sau:         Học   tập   qua   công   việc,học   tập   tại   nơi   làm   việc:công   nhân   đào   tạo   lẫn  nhau,luân chuyển công việc,trả  lương căn cứ  vào kỹ  năng,những nhóm chính  thức hoặc không chính thức  và chế độ góp ý cải tiến    Doanh nghiệp đặt  ở  các trường học:Đây là tổ  chức “lai tạo” kết hợp học tập  và sản xuất,gọi là”doanh nghiệp nhà trường”.Các doanh nghiệp nhà trường được  sử  dụng như  là một bộ  phận của hệ thống học nghề để  cung cấp kinh nghiệm  sản xuất cho học sinh đang chờ  ký hợp đồng đào tạo với các doanh nghiệp.Nó  cũng có thể được sử dụng để cung cấp sự học tập dựa trên công việc cho những  học sinh chưa được chuyên môn hoá về  một nghề  hay ngành cụ  thể.Trong các  doanh nghiệp này,học sinh sản  xuất hàng hoá và dịch vụ cho người khác với tư  cách là một bộ phận của việc học tập của các em tại trưòng.Thậm chí có những  doanh nghiệp tự  gọi mình là “một nhà máy dạy học” về  một số  mặt, những   doanh nghiệp này đươcj tổ  chức như  công ty chứ không phải là một nhà trường  với một chế  dộ  làm việc,trả  lương như  một doanh nghiệp thực  thụ.Một số  doanh nghiệp đi xa hơn bằng cách lập ra trường hợp  riêng của doanh nghiệp.   Cộng tác với các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu: Sự nương tựa này   một nhiều vào những tiến bộ  trong kiến thức và khoa học, công nghệ  sẽ  tận   dụng những cơ hội trợ  cho các doanh nghiệp thành công.Muốn vậy,các công ty 
  16.   phải cộng tác với các trưòng đại học và các trung tâm nghiên cứu.Sự hợp tác giữa  các trường đại học và giới kinh doanh được nhiều tầng lớp  ủng hộ.Cho nên chi  phí cho đào tạo, GD rất cao.
  17.   KẾT LUẬN Xu hướng xây dựng và phát triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử,   không riêng gì CNTB. Vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân   chủ, văn minh" Việt nam không thể đi ngược xu hướng đó. Nước ta đã nắm bắt   được rất nhiều cơ  hội và từ  đó có thể  phát triển nền tri thức, theo kịp nền kinh  tế  của các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn mà  chúng ta phải vượt qua. Nước ta phải vận dụng những điều kiện thuận lợi để  đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến vào thời kỳ  công nhiệp hoá, hiện  đại hoá đất nước. Tăng cường mở  rộng các mối quan hệ  ngoại giao, tìm hiểu   kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo   đến cải cách giáo dục về con người và vật chất nước nhà. 
  18.   MỤC LỤC Lời nói đầu       Chương1   Lý luận chung     1.1 Khái niệm tri thức    1.2 Vai trò của tri thức đối với đời sống xã hội   1.2.1   Kinh tế tri thức                                    1.2.2   Vai trò của tri thức đối với chính trị            1.2.3  Vai trò của tri thức đối với văn hoá­giáo dục        Chương 2  Thực trạng Việt Nam  2.1 Những cơ hội và thách thức  2.1.1 Cơ hội đối với Việt Nam    2.1.2 Những thách thức   2.1 Doanh nghiệp Việt Nam   Chương3 Giải pháp cho việc ứng dụng tốt                             3.1 Phát huy nguồn lực con người                                          3.2 Hướng đi cho doanh nghiệp Việt Nam                          Kết Luận                                                                                                                                                                                                                    
  19.  
  20.   TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.  Tạp chí kinh tế  và phát triển ­ Số  chuyên đề  của kinh tế  Mac­Lênin  (Tháng 11/2001) 2.  Tạp chí Kinh tế và Phát triển ­ Số 48/2001 3.   Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX 4.  Tạp chí Khoa học xã hội 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0