intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 56 - Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

130
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 56 - Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế

  1. ĐỀ TÀI: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN  DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ  ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ Chương I: Hội nhập kinh tế một xu hướng tất yếu của nước ta trên  con đường tiến lên CNXH  1. Xu h   ướng hội nhập thế giới xu hướng của thời đại:  Như  chúng ta đã biết, cách đây hàng nghìn năm đã có sự  trao đổi hàng  hoá trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, suốt thời  gian dài dưới thời kì chiếm hữu nô lệ  và thời kì phong kiến quan hệ  trao  đổi hàng hoá phát triển không đáng kể. Về  mặt cơ  bản, nền kinh tế  của   từng quốc gia vẫn mang tính tự  cung tự  cấp. Với sự  xuất hiện của chủ  nghĩa tư  bản, quan hệ  trao đổi hàng hoá đã có sự  thay đổi về  chất. Trong  từng quốc gia, nền kinh tế với một thị trường thống nh ất được hình thành,   các loại hàng hoá và số  lượng hàng hoá trao đổi được tăng lên rất nhiều,  đặc biệt sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Chủng loại hàng hoá và số  lượng hàng trao đổi giữa các quốc gia cũng tăng lên nhanh chóng. Chủ nghĩa  tư  bản ngày càng phát triển thì lượng hàng hoá trao đổi giữa các quốc gia  càng lớn, chính vì vậy sự phụ thuộc về mặt kinh tế giữa các quốc gia càng   chặt chẽ hơn. Vào những năm 80 của thế  kỉ  XX, khoa học kĩ thuật phát triển như  vũ  bão, con người đang dùng khối óc vĩ đại mà tự  nhiên ban cho để  khám phá  và chinh phục thế  giới. Chính nhờ  sự  phát triển như  vậy của khoa học kĩ  thuật mà sự  giao lưu giữa các nước, các cá nhân, các nhà kinh doanh với  nhau trở  nên dễ  dàng. Các nước có thể  học tập, trao đổi với nhau tạo nên   1
  2. sự đan xen đa chiều, vừa ảnh hưởng, vừa tuỳ thuộc vào nhau. Dần dần, trên  thế giới hình thành một xu thế đó là: xu thế “Toàn Cầu Hoá”. Hiện nay, xu   thế này đang ngày càng lan rộng thu hút hầu hết các nước trên thế giới tham  gia. Việt Nam cũng là một thành viên trong ngôi nhà chung của thế  giới nên  cũng không thể đứng ngoài vòng xoáy trên. Từ lâu nay, Đảng và Nhà Nước  ta đã xác định rất rõ thái độ của chúng ta với “Toàn Cầu Hoá”:  “ Việt Nam luôn ủng hộ quá trình hội nhập và hợp tác mọi bên cùng  có lợi” Điều này đã được các nhà lãnh đạo Đảng ta khẳng định rất rõ ràng trong   các kì đại hội. Việt Nam đã có tới 10 năm đổi mới và mở cửa để hội nhập  và đang tiếp tục cố gắng để hoà nhập vào xu thế chung của thế giới. Từ 10 năm nay, Việt Nam không ngừng xây dựng đất nước vững mạnh  và tăng tốc hội nhập để  theo kịp các nước trên thế  giới. Chúng ta đã có   được một số  thành tựu nhất định nhưng cũng còn rất nhiều thiếu sót. Tuy  nhiên, nhân dân ta quyết một lòng xây dựng đất nước nhanh chóng trở thành  một nước phát triển và hội nhập thật tốt.  2. Ý nghĩa c   ủa việc nghiên cứu đề tài này:  Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định, Việt Nam luôn muốn   hoà nhập thật tốt vào hội nhập thế  giới. Nhưng làm sao vừa hội nhập cho   thật tốt lại vừa đảm bảo được chủ quyền. Trên thực tế đã có rất nhiều bài  học cay đắng của các nước đi trước, do hội nhập không đúng đã dẫn tới   mất chủ quyền phụ thuộc vào bên ngoài. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề  tài này sẽ  giúp tôi và các bạn hiểu rõ thêm về  “Toàn Cầu Hoá” đồng thời  biết được những bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bản tiểu   2
  3. luận này sẽ  giúp chúng ta hiểu thêm về  những thành tựu của nước ta đã  thực hiện được và những bước đi sắp tới.  Chương II : Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ  biến   ết học Mac­ LêNin:   1.Tri Triết học Mac­ LêNin cũng như  toàn bộ  chủ  nghĩa Mac­ LêNin ra đời  vào những năm 40 của thế kỉ XIX do C.Mac và Ph.Ăngghen sáng lập ra. Sau  đó, V.I.LêNin phát triển nó cao hơn. Triết học Mac­ LeNin ra đời không phải chỉ  do sự  suy tư  cá nhân, sự  tưởng tượng của C.Mac và Ph.Ăngghen mà do những nguyên nhân kinh tế,   xã hội và sự  phát triển của nhân loại trước đó quy định. Triết học Mac­  LêNin ra đời dựa trên 3 cơ sở cơ bản sau: (a) Cơ  sở  về  kinh tế  và xã hội: Vào những năm đầu của thế  kỉ  XIX các cuộc cách mạng công nghiệp đã đem lại cho các nước TBCN sự  phát triển mạnh mẽ. Để  nhận xét về điều này C.Mac đã nói: “ Giai cấp tư  sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những  lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả  các thế  hệ  trước cộng lại”. Sự phát triển  ấy đã chứng minh tính chất tiến  bộ  của phương thức sản xuất TBCN hơn hẳn các chế  độ  khác trước đó.  Tuy nhiên, sự phát triển đó ngày càng làm hằn sâu thêm sự  mâu thuẫn giữa  giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh và  đứng lên đấu tranh giành quyền lợi. Chính vì vậy họ cần một thứ vũ khí lý  luận sắc bén và triết học Mac­ LêNin ra đời đã thoả mãn được yêu cầu đó. 3
  4. (b) Cơ sở lý luận: Triết học Mac­ LêNin dựa trên phép biện chứng  của Hêghen và quan điểm duy vật triệt để  của Phoi­ơ­băc. Hai ông C.Mac   và Ph.Ăngghen đã dựa và đó sáng lập ra phép biệnchứng duy vật. Các ông  đã kế  thừa và phát huy những mặt tích cực của Hêghen và Phoi­ơ  ­băc.  Đồng thời, hai ông cũng dần dần bù đắp những thiếu sót. (c) Cơ sở khoa học tự nhiên: Do sự phát triển mạnh của KH­TN đã   đánh đổ  phương pháp tư  duy đang thống trị  lúc bấy giờ  là: phương pháp  siêu hình. Điều đó mở  đường cho sự  ra đời và phát triển của phép biệ  chứng duy vật. Trong số các phát minh thì có 3 phát minh ảnh hưởng nhiều   nhất tới sự ra đời của triết học Mac: + Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. + Học thuyết về cấu tạo tế bào. + Học thuyết về sự tiến hoá.   2.Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến   2.1 Liên hệ – Liên hệ phổ biến: Liên hệ: là sự quy đinh lẫn nhau, tác động lẫn nhau giữa các yếu   tố trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật hiên tượng với nhau. Liên hệ phổ biến: là những mố liên hệ tồn tại một cách phổ biến  cả  trong TN, XH và cả  tư  duy. Mối liên hệ  phổ  biến mang tính chất bao   quát tồn tại thông qua các mối liên hệ  đặc thù của sự  vật hiện tượng, nó  phản ánh tính đa dạng và đặc thù của thế giới. 2.2  Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Thế  giới được tạo thành từ  những sự  vật, những hiện tượng,   những quá trình khác nhau. Vậy chúng ta đặt ra hai câu hỏi: + Giữa chúng liệu có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn  nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? 4
  5. + Nếu chúng tồn tại trong sự  liên hệ  qua lại, thì nhân tố  gì quy  định sự liên hệ đó? Để trả lời câu hỏi thứ nhất, các nhà triết học theo quan điểm biên  chứng cho rằng thế  giới là một chỉnh thể  thống nhất. Các sự  vật, hiện   tượng và các quá trình cấu thành thế  giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự  liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Khi trả lời câu hỏi thứ  hai, những người theo quan điểm biện chứng cho rằng cơ sở của sự liên hệ  qua lại giữa các sự  vật và hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế  giới. Theo quan điểm này các dự vật, các hiện tượng đa dạng trên thế  giới  chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế  giới duy nhất là thế  giới   vật chất. Ngay cả tư tưởng của con người cũng là một dạng vật chất có tổ  chức cao là bộ óc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh   của các quá trình vật chất khách quan. Ngoài ra, theo quan điểm duy vật  biên chứng còn thừa nhận tính đa dạng của sự  liên hệ: có mối liên hệ  bên   ngoài, mối liên hệ  bên trong; có mối liên hệ  thứ  yếu và mối liên hệ  chủ  yếu... Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự  vận động  vầ  phát triển của các sự  vật hiện tượng. Trong đó, mối liên hệ  bên trong  giữ  vai trò quyết định đối với sự  tồn tại, vân động, phảttiển của sự  vật.  Mối kiên hệ  bên ngoài, nói chung, không có ý nghĩa quyết định và thường  phải thông qua mối liên hệ  bên trong mà phát huy tác dụng.Như  vậy, quan  điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ  đòi hỏi phải thừa nhận tính tương  đối trong sự  phân loại các mối liên hệ. Các mối liên hệ  khác nhau có thể  chuyển hoá lẫn nhau. Trong tính đa dạng của hình thức và các loại liên hệ  tồn tại trong tự  nhiên, trong xã hội và tư  duy con người, phép biện chứng   duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung mang tính phổ biến. 2.3 Yêu cầu của nguyên lý phổ biến: 5
  6. 2.3.1  Quan điểm toàn diện:   Với tư  cách là một nguyên  tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự  vật hiện tượng, quan   điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét nó: + Trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa  các yếu tố,  các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó. + Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác   (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Hơn thế  nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để  nhận thức   được sự vật hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu  cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm  phiến diện không chỉ   ở  chỗ  nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ.  Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến  diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những tính quy  định khác nhau của sự  vật được thẻ  hiện trong những mối liên hệ  khác  nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức  về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát đẻ  rút ra cái  bản chất chi phối sự  tồn tại và phát triển của sự  vật hay hiện tượng đó.   Quan điểm toàn diện khác với chủ  nghĩa chiết trung và thuật nguỵ  biện.   Chủ  nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ  ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau thế  nhưng lại kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ  khác nhau của sự  vật.  Chính vì vậy hoàn toàn bất lực khi phải đưa ra một quyết sách đúng. Còn  thuật nguỵ biện cũng để  ý tới những mặt khác nhau của sự  vật, nhưng lại  đưa cái không cơ  bản thành cái cơ  bản, cái không bản chất thành cái bản   chất. Cả hai đều đưa đến nhứng kết luận sai lầm. 2.3.2  Quan điểm lịch sử cụ thể:  6
  7. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong thời gian, không gian  nhất định và mang dấu  ấn của thời gian, không gian đó. Việc vận dụng  quan điểm đó đòi hỏi phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã  làm phải tính vấn đề, tới sự  ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện   thực   –  cả   khách  quan  và  chủ  quan  –  quy   định  những   giải  pháp,  những   phượng tiện để giải quyết vấn đế nảy sinh. 3. Vậy tại sao khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta phải dùng mối   liên hệ phổ biến: Toàn cầu hoá và việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững   mạnh là hai việc nhìn bề  ngoài là hai việc tách biệt. Thế nhưng, chúng lại  là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau. Chính vì vậy, muốn hiểu được  chúng liên quan với nhau như  thế  nào thì chúng ta phải đi sâu vào nghiên  cứu. Trong khi nghiên cứu chúng ta không thể chỉ nhìn từ  một phía mà cần  có cái nhìn toàn diện. Như  trong mối liên hệ phổ biến đã khẳng định, chúng  ta phải nhìn vào cái bản chất nhất của sự  vật. Mà giữa Toàn cầu hoá và  việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ lại có mối liên hệ  bản chất, cái  này thúc đẩy giúp cái kia trở nên vững mạnh hơn. Nếu chúng ta không dùng   mối liên hệ phổ biến để xem xét sẽ dễ dẫn đến chỉ nhìn thấy sự liên quan   bên ngoài một cách sơ xài. Chương III: Toàn cầu hoá 1. Toàn cầu hoá kinh tế là gì? Những đặc điểm của toàn cầu hoá  kinh tế: Con người là một loài sinh vật đặc biệt, chúng ta có trí thông minh và  có trình độ tổ chức xã hội cao. Con người sống với nhau dựa trên rất nhiều  mối quan hệ, trong đó quan hệ về kinh tế là chủ yếu. Có một số nhà nghiên  cứu cho rằng “ toàn cầu hoá” đã có từ rất lâu và trước đây chính là quá trình  7
  8. quốc tế  hoá. Vậy trong tình hình hiện nay “Toàn cầu hoá” là những mối   quan hệ  kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, với quy mô toàn thế giới, đạt   trình độ  và chất lượng cao hơn các quá trình quốc tế  hoá trước kia. Toàn  cầu hoá kinh tế có một số đặc điểm sau khác với các quá trình quốc tế hoá  trước kia: a)Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ  thì Mỹ  là một siêu  cường lớn nhất thế  giới. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, Mỹ  đang có   chiều hướng chững lại và các nước phát triển khác đang vươn lên, điều đó   tạo nên một thế giới có nên kinh tế không còn một cực như trước kia mà là  đa cực. b)Kinh tế  thị  trường nhiều kiểu, nhiều mức độ  khác nhau đang lan  tràn khắp thế  giới, kéo theo nó là sự  tăng cường tự  do hoá kinh tế  và xu  hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh. c)Cách mạng khoa học kĩ thuật làm cho con người có khả năng thực  hiện rất nhiều việc mà trước đây không thể. Chính điều này đã thúc đẩy sự  toàn cầu hoá một cách nhanh chóng. d)Các mối quan hệ của toàn cầu hoá ngày càng toàn diện chứ không  phải chỉ dừng lại ở thương mại xuất – nhập khẩu. e)Toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi một số nhân tố sau: + Đó là các công ty cực lớn, vừa, nhỏ tới từng cá thể  tích cực  tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Trong hàng triệu, hàng nghìn công ty  trên, có vai trò lớn nhất nằm trong tay khoảng chừng 50.000 công ty xuyên  quốc gia + Đó là do sự thúc đẩy tích cực của các chính phủ. 8
  9. + Đó là do sự tác động của các tổ chức phi chính phủ, họ đang  thành lập ngày càng đông đảo, đa dạng và hoạt động ngày càng có hiệu quả  trong quá trình toàn cầu hoá. + Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại khu vực. + Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế như  WTO, IMF... f)Toàn cầu hoá phải đi đôi với hội nhập khu vực và các quan hệ  song phương g)Toàn cầu hoá, theo các nhà nghiên cứu thì đây là một quá trình   “mở” đang còn vân động và sẽ còn trải qua nhiều giai đoạn. 2.Bản chất của toàn cầu hoá: Hiện nay, nói đến vấn đề này trên thế giới đang có hai thái cực tranh  cãi nhau rất gay gắt:  + Quan điểm thứ  nhất cho rằng: toàn cầu hoá là một điều tất yếu  phải xảy ra. Mọi quốc gia không thể tránh khỏi, chính sách hợp lý nhất mà   các quốc gia phải theo là tham gia và làm theo các quy tắc của cuộc chơi.   Tuy nhiên quan điểm này lại biến con người thành kẻ bị lệ thuộc vào chính  sản phẩm mà họ tạo ra. + Quan điểm thứ  hai cho rằng: toàn cầu hoá là một bước trong kế  hoạch làm bá chủ  thế  giới của Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm này thì người ta  lại quá đè cao sức mạnh của Mỹ, mà trên thực tế không phải vậy. Vậy đúng ra bản chất của toàn cầu hoá kinh tế  là gì? Toàn cầu hoá   kinh tế là một xu hướng lớn của thời đại, nhưng dù nó khách quan đến mấy  cũng do con người tạo ra. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa nhiều yếu tố,   mà các yếu tố ấy đều do con người tạo ra. Trong đó có 3 yếu tố chính:  ­ Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật. 9
  10. ­ Nền kinh tế thị trường hiện đại. ­ Chính sách rất có tính toán của Mỹ và các nước cường quốc khác  mà không phải chỉ riêng Mỹ. + Một bản chất nữa của toàn cầu hoá là tính bất đối xứng của nó.  Điều đó được thể hiện như sau: ­Toàn cầu hoá phân phối thành quả  rất bất công. Người giàu,  nước giàu ngày càng được nhiều lợi, nước nghèo, người nghèo bị  thiệt.  Dần dần một mảng lớn dân cư trên thế giới bị loại khỏi quá trình toàn cầu  hoá. ­Toàn cầu hoá hiện nay, không hài hoà, không đồng bộ, các lĩnh   vực so le, chênh lệch nhiều, cả  về  chiều sâu lẫn chiều rộng. Đặc biệt là:  thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế không đi đôi với sự quan tâm đúng mức về xã   hội và con người. Điều này khiến cho phần thua thiệt về  xã hội và con   người rất nặng nề. Thứ hai, toàn cầu hoá không đi đôi với một cơ  cấu và  cơ  chế  quản lý toàn cầu tương xứng. Điều này dẫn đến toàn bộ  thế  giới   như một con tàu không người lái. + Toàn cầu hoá hiện nay bỏ qua các vấn đề khác, nó chỉ chú trọng tới   thị trường, xem nhẹ nhà nước và nhất là xã hội. 3. Toàn cầu hoá những cơ hội và thách thức (a)  Những cơ hội:  + Thứ nhất, sự  phát triển của toàn cầu hoá kinh tế  phá bỏ  những   cản trở, những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia. Nó mở ra những điều   kiện thuận lợi cho sự  phát triển về  quan hệ  kinh tế  thế  giới. Từ  đó, các   quốc gia có thế lợi dụng để mở rộng thị trường ra bên ngoài quốc gia mình. + Thứ hai, toàn cầu hoá phát triển giúp các nước chậm phát triển  sớm tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Điều này, giúp các   10
  11. nước chậm phát triển hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội hiệu quả, đẩy   nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hoá nền kinh tế. + Thứ ba, toàn cầu hoá phát triển tạo điều kiện cho các nước tiếp   cận với những nguồn vốn và công nghệ kĩ thuật cao cũng như học tập công   nghệ quản lý. + Thứ  tư, toàn cầu hoá phát triển làm cho các nước liên hiệp với   nhau thành những khu vực tự do thương mại. Điều này giúp dỡ bỏ hàng rào   thuế  quan đối với các nước thành viên, dẫn đến hàng hoá có thể  nhanh   chóng tiếp cần với thị  trường thế  giới. Hơn nữa, với các nước đang phát   triển thì việc hội nhập vào các tổ  chức kinh tế thế giới cũng chính là tham   gia vào các diễn đàn kinh tế thế giới cho phép mình quyền bình đẳng bày tỏ  quan điểm, bảo vệ lợi ích của mình. + Thứ  năm, toàn cầu hoá thực chất là quá trình mở  cửa hội nhập   của các quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ hội nhập riêng về kinh tế mà còn về  nhiều vấn đề  khác nữa. Điều  ấy giúp cho các quốc gia nhanh chóng tiếp  cận được các thông tin, tri thức khoa học mới nhất. Nó góp phần nâng cao  trình độ dân  trí, tạo cơ sở cho nền tảng cho dân chủ phát triển.  + Thứ sáu, toàn cầu hoá mở  ra khả năng phối hợp nguồn lực của   các quốc gia trên thế  giới để  giải quyết các vấn đề  có tính toàn cầu như:   môi trường,dân số, chiến tranh và hoà bình... (b)  Những thách thức của toàn cầu hoá:  + Thứ  nhất, do tính bất đối xứng của toàn cầu hoá, nó phân chia  thành quả  rất bất công. Chính vì thế, toàn cầu hoá không phân chia công  bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia và trong môi quốc gia   và từng nhóm dân cư. Trên thực tế, trong toàn cầu hoá thì các nước phát  11
  12. triển và những người giàu có là được lợi nhiều nhất. Vì vậy, toàn cầu hoá   làm tăng thêm tình trạng bất công và gia tăng khoảng cách giàu nghèo. + Thứ  hai, việc mở  cửa  hội nhập một mặt làm cho các nước  chậm phát triển tiếp xúc với các nền kỹ  thuật tiên tiến hiện đại làm tăng  năng xuất, thế nhưng các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt   với dòng sản phẩm công nghệ  cao và các nguồn lực mạnh dễ  dàng lấn át.  Chính vì vậy, nó dẫn đến tình trạng phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng   thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các nước chậm phát triển. + Thứ ba, toàn cầu hoá mở ra cho các nước cơ hội tranh thủ nguồn   vốn bên ngoài. Song chính điều ấy sẽ làm các nước phụ thuộc vào hệ thống  phân công lao động quốc tế. Nếu như không xác định được một đường lối   phát triển nội lực là chính thì các nước rất dễ bị phụ thuộc và mất quyền tự  chủ. + Thứ  tư, toàn cầu hoá cho phép vận dụng nguồn vốn bên ngoài  nhằm rút ngắn quá trình phát triển. Tuy nhiên trong đó cũng ẩn chứa nhiều   nguy hiểm không vững chắc. + Thứ năm, toàn cầu hoá còn đặt ra nhưng hậu quả phi kinh tế. Đó  là vấn đề lan toả các dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS. Ngoài ra, các luồng  văn hoá ngoại lai tác động không nhỏ tới thuần phong mỹ tục làm bại hoại   đạo đức con người. Chính vì vậy, xu hướng toàn cầu hoá đã nổi lên xu   hướng dân tộc, bảo vệ bản sắc dân tộc. Chương IV: Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh   ền kinh tế  như  thế  nào được gọi là một nền kinh tế  độc   1.N lập tự chủ: 12
  13. Thực ra, khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ  đã không ít lần được  nhắc tới. Tuy nhiên, quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ trước đây và  hiện nay có những nét khác nhau. Vậy thế  nào là nền kinh tế  độc lập tự  chủ?: + Nền kinh tế độc lập tự  chủ là nền kinh tế  không bị  lệ  thuộc, phụ  thuộc vào nước khác, hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính  sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính,  thương mại, viện trợ... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc  gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. + Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động   của thị trường, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn   có khả  năng cơ  bản duy trì sự   ổn định và phát triển; trước sự  bao vây, cô  lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững,  không bị sụp đổ, không bị rối loạn. + Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, nói tới độc lập tự  chủ  về  kinh   tế  không ai hiểu đó là nền kinh tế  khép kín, tự  cung tự  cấp, mà đặt trong  mối liên hệ  biện chứng với mở  cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự  giao  lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế  trên cơ  sở  phát huy tốt nhất nội lực và  lợi thế so sánh quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuấtđáp ứng   được cơ  bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả  năng  trang bị lại  ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế , củng cố quốc   phòng – an ninh.   2.Vì sao chúng ta ph ải xây dựng một nền kinh tế  độc lập tự   chủ vững mạnh: Theo như  trên ta đã thấy một nền kinh tế độc lập tự  chủ  là như  thế  nào. Vậy tại sao trong khi hội nhập kinh tế thế giới chúng ta phải xây dựng   13
  14. một nền kinh tế  độc lập như  vậy? Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện   “Toàn cầu hoá” nền kinh tế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng  nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thạm chí là  bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống nhất, cần  thứ gì thì mua, thiếu tiền htì đi vay, sao lại chủ  trương xây dựng nền kinh   tế độc lập tự chủ? Nói như vậy khi nghe có vẻ có lí, nhưng nếu đi sâu vào  thực tế thì thấy hoàn toàn thiếu cơ sở, vì nó quá ư đơn giản và phiến diện.  Thực tiễn cho thấy nếu không có một nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ không  những không thể  có sự  độc lập về  chính trị, không thể  bảo đảm được lợi  ích cơ bản của dân tộc cũng như chủ quyền quốc gia mà bản thân việc mở  cửa, hội nhập kinh tế  quốc tế  cũng không đạt được kết quả  như  mong   muốn. Sự cần thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với   việc đẩy mạnh quá trình chủ  động hội nhập kinh tế  xuất phát từ  một số  luận điểm sau đây: + Tất cả  các nước tham gia hội nhập kinh tế đều xuất phát từ  mục  tiêu bên trong, phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ trong nước. Toàn cầu hoá, tự  do hoá làm cho các nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau. Tuy nhiên sự  ràng buộc về  lợi ích đó không có sự  ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà  chính là vì phải chia sẻ lợi ích một cách hợp lí, nhằm mục đích cuối cùng là  thu được nhiều hơn lợi ích cho đất nước mình, dân tộc mình, giữ được tính  độc lập của nền kinh tế  qua mối quan hệ  ràng buộc, phụ  thuộc lẫn nhau,  một sự ràng buộc đa phương về lợi ích. Tất cả các nước tham gia vào quá   trình tự  do hoá thương mại đều trước hết vì lợi ích của mình, tuyệt nhiên  không vì lợi ích của nước khác. Thế  nhưng, những lợi ích ấy có được hay  không  còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội lực của  nền kinh tế nước đó. Nước nào mạnh thì thu được nhiều lợi hơn. Toàn cầu  14
  15. hóa, thương mại hoá, vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời  cũng tạo nên sự cạnh tranh rất khốc liệt và rất không cân sức giữa các nền  kinh tế. Sự cạnh tranh ấy khốc liệt đến nỗi có thể tạo nguy cơ gây mất ổn   định về  kinh tế  và chính trị. Thậm chí còn có thể  xảy ra xung đột giữa các  nước với nhau. Chính vì lẽ đó, các nước không thể đứng nhìn toàn cầu hoá   tác động tới mình, mà họ  phải chủ  động tham gia, đưa ra các quyết sách   nhằm hội nhập xu hướng của thế  giới, đồng thời làm sao thu lợi nhiều   nhất mà vừa bảo vệ  được nền kinh tế  của mình. Trên thực tế  đã có rất   nhiều nước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế, tham gia vào  các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại thế  giới từ lâu nhưng vẫn trong  tình trạng trì trệ, thậm chí mức độ bị phụ thuộc, mất tự do lại còn tăng hơn.   Như  vậy đủ  thấy là mỗi nước sẽ  không thể  thực hiện được những mục  đích đã định ra nếu không có ọt nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh. + Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự  phát triển  vững chắc và đảm bảo tính an toàn. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay  ẩn chứa rất nhiều những yếu tố  bất  ổn, bất lường, bất công mà mức độ  cũng như  khả  năng phòng tránh, khắc phục nó lại tuỳ  thuộc rất nhiều  ở  trình độ phát triển của các nền kinh tế. Ai cũng rõ, toàn cầu hoá làm lây lan  nhanh chóng những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ...làm trầm  trọng thêm những vấn đề mang tính toàn cầu mà thế giới chưa tìm được lối  thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh tế  trở  nên dễ  biến động, bất  ổn định hơn trước. Ví dụ: Trong những năm 1997 – 1998, Châu Á gặp phải   một cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ  trầm trọng. Tuy nhiên, các nước   này nhanh chóng phục hồi là nhờ  lúc đó nền kinh tế  Mỹ  đang tăng trưởng   khá. Hiện nay, từ  sau ngày 11 – 9, nền kinh tế  Mỹ  đang ngập trong khó  khăn thì người ta dự đoán rằng nền kinh tế  ở một số nước Châu Á khó bề  15
  16. vươn dậy được. Lý do, họ dựa quá nhiều và xuất khẩu mà không tranh thủ  thời cơ để tiến hành cải cách cần thiết trong nước. Rồi đến Châu Phi đang   phải gánh chịu một bài học đắt giá về việc chỉ biết sống dựa vào bên ngoài,   phụ  thuộc hẳn vào bên ngoài thì nền kinh tế  trong nước sẽ  không bao giờ  cất mình lên nổi. +Hiện nay tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật   kinh   tế  đang trở  thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia   vào sân chơi này thì mỗi nước phải tự khẳng định mình, tìm cho mình một   vị  trí đứng. Muốn vậy điều quan trong bậc nhất là tạo ra thật nhiều sản   phẩm mà ai cũng thấy cần và được chấp nhận. Như  vậy, nước nào muốn   thu được nhiều lợi nhuận thì phải nắm công cụ  quan trọng là khoa học  công nghệ  hiện đại. Để  thực hiện việc chuyển giao công nghệ, mỗi nước  phải đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu được công nghệ hiện đại.  Thế nhưng một vấn đề  quan trọng hơn, là phải phá vỡ  bức rào cản do các  công ty xuyên quốc gia đặt ra về  tình trạng độc quyền các công nghệ  hiện   đại. Trong nhiều trường hợp, dựa vào ưu thế công nghệ hiện đại, họ tự cho  mình quyền chi phối các tổ  chức kinh tế, tài chính quốc tế, quyền đưa lợi  ích kinh tế  đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt tư  tưởng. Thậm chí,   một số nước phát triển còn đưa ra quyền trừng phạt các nước dưới nhiều   hình thức. Vì vậy, để  khắc phục đến mức thấp nhất tình trạng bị  rơi vào  thế lệ thuộc, tất cả các nền kinh tế bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội  lực của mình, nâng sức mạnh kinh tế  tring nước, chống sự  can thiệp quá   sâu từ bên ngoài. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn như đã phân tích,  đối với đất nước ta, việc xây dựng một nền kinh tế  độc lập, tự  chủ  càng   cần thiết hơn bởi nó là điều kiện quyết định giữ  vững được định hướng  16
  17. phát triển mà chúng ta đã lựa chọn. Nói một cách khác, có xây dựng được  một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ  sở  kinh tế, cơ  sở  vật   chất – kĩ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh   tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ  về các mặt   khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia.   Tóm lại, chỉ có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta mới có  cơ  sở  và điều kiện để  chủ  động hội nhập kinh tế  quốc tế, đẩy mạnh sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,  nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. 3. Làm như thế nào đẻ đảm bảo được một nền kinh tế độc lập   vững mạnh: Một là, phải có đường lối chính sách đúng đắn, chính sách độc lập tự  chủ. Độc lập tự  chủ về  đường lối, chính sách kinh tế  có nghĩa là chúng ta   tự  lựa chọn định hướn phát triển, tự  mình xác định chủ  trương chính sách  và mô hình kinh tế, không bị động và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép  của bất cứ ai vì mục đích không lành mạnh của họ. đại hội IX của Đảng đã   xác định đường lối kinh tế  của nước ta: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện  đại hoá, xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ, đưa nước ta trở  thành một  nước công nghiệp;  ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây   dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy  cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội  nhập kinh tế  quốc tế  để  phát triển nhanh, có hiệu quả  và bền vững; tăng  trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống   vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,   bảo về  và cải thiện mội trường; kết hợp phát triển kinh tế  – xã hội với  tăng cường quốc phòng – an ninh. 17
  18. Hai là, Chúng ta phải có một nền kinh tế đủ mạnh: ­ Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng đủ nhu cầu tiêu  dùng của nhân dân và có tích luỹ cần thiết từ nội bộ nền kinh tế quốc dân  để tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế.  ­ Phải có thể chế kinh tế – xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế gắn  bó với cơ cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh có đủ khả năng tạo   ra sức cạnh tranh và hiệu quả, trả  được nợ, tạo được tích luỹ, đáp  ứng  được   nhu   cầu   của   thị   trường   trong   nước,   chiếm   lĩnh     và   giữ   được   thị  trường ngoài nước; bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền  vững. ­ Phải có một năng lực nội sinh về  khoa học và công nghệ  để  làm  chủ  công nghệ  nhập khẩu và sáng tạo công nghệ  mới của Việt Nam, bảo   đảm cho sự trao đổi bình đẳng về kinh tế và công nghệ với bên ngoài, nhất   là trong điều kiện ngày nay, khi sức mạnh kinh tế  ngày càng dựa vào thế  mạnh và khả năng  về khoa học, công nghệ.  ­ Phải luôn luôn giữ được sự ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài   chính, tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và cán cân  thanh toán, có dự trự ngoại tệ cần thiết, có chiến lược vay và trả nợ hợp lý,  không để bị động và lệ thuộc.  ­ Phải có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cơ  bản cho phát triển. Trước hết là các yếu tố: an ninh lương thực, an toàn  năng lượng, an toàn môi trường, kết cấu hạ  tầng kinh tế  và xã hội được  xây dựng đồng bộ và tương đối có chất lượng. Đồng thời có một số ngành  và cơ  sở  công nghiệp nặng, công nghiệp có tính chất nền tảng để  tạo sức   mạnh công nghiệp quốc gia, đặc biệt là nếu phải đương đầu với các tình  huống gay cấn, phức tạp(như bị bao vây cấm vận, chiến tranh xâm lược...) 18
  19. ­ Muốn có thực lực kinh tế  đủ  mạnh thì phải nhất thiết phải đẩy  nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi đây là nhiệm vụ  trung  tâm của toàn Đảng toàn dân ta trong suốt thời kì quá độ  lên chủ  nghĩa xã  hội. Có công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới tạo ra cơ  sở  vật chất, kĩ  thuật cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra thực lực của đất nước, nâng cao đời sống   của nhân dân. Chương V: Việt Nam sau 10 năm đổi mới 1.Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập: +) Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ  với các tổ  chức tài  chính, tiền tệ  quốc tế  như  IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ  trợ  chúng ta   thông qua chương trình tín dụng trung hạn: Chương trình điều chỉnh cơ cấu  (SAC) cuẩ  WB và chương trình điều chỉnh cơ  cấu mở  rộng (ESAF) của  IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với các điều   kiện của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trong quan hệ với các tổ  chức này, chúng ta chỉ  chấp nhận sự  hỗ  trợ  tài chính nếu yêu cầu của hộ  không trái với đường lối chính sách của chúng ta; có năm họ  đưa ra điều  kiện vi phạm chủ quyền lợi ích quốc gia nên ta không chấp nhận. +) Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN,   đồng thời tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). T ừ ngày 01   tháng01 năm 1996, chúng ta bắt đầu thực hiện các cam kết và các nghĩa vụ  trong Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cuẩ AFTA.   Theo quy định của CEPT, tới năm 2006 chúng ta có nghĩa vụ  phải giảm  thuế nhập khẩu xuống còn o – 5% ( trừ một số hàng nông sản nhạy cảm sẽ  thực hiệ tới năm 2010). Tới năm 2010 sáu nước thành viên cũ của ASEAN  19
  20. sẽ thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế suất bằng 0%, với Việt Nam là  2015. +) Tháng 3 năm 1996, nước ta đã tham gia Diễn Đàn Hợp Tác Á  ­ Âu (ASEM) với tư  cách là thành viên sáng lập. Nội dung thảo luận chủ  yếu tập trung vào thuận lợi hoá thương mại và đầu tư và hợp tác giữa các  nhà doanh nghiệp Á ­ Âu. Cam kết tự  do hoá thương mại, đầu tư  chưa   được đặt ra. +) Ngày 15 tháng 6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập  Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu Á ­ Thái Bình Dương (APEC) lúc bấy giờ  gồm 18 nước và lãnh thổ  (ngày nay là 21) và tháng 11 năm 1998 đã được   công nhận là thàng viên chính thức của tổ  chức này. APEC quyết định hội  nhập đầy đủ  vào năm 2010 đối với các thành viên phát triển, và 2020 đối  với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam). +) Tháng 12 năm 1994, chúng ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ  chức Thương Mại Thế  Giới (WTO). Cho tới nay chúng ta đã thực hiện  được 4 phiên đàm phán. Để gia nhập được vào WTO chúng ta cần đàm phán  đa phương với WTO và song phương với  khoảng 30 nước, Việt Nam đang  rất nỗ lực để hoàn thành. 2.Những thành tựu và hạn chế: (a) Những thành tựu: + Chúng ta đã làm thất bại âm mưu bao vây, cấm vận, cô lập  về kinh tế của các nước đối địch. Chúng ta đã tạo được môi trường quốc tế  và khu vực thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ  Tổ  Quốc, nâng cao vị  thế của nước ta trên chính trường quốc tế. +  Không  những   chúng  ta  khắc  phục  được  tình  trạng  khủng   hoảng kinh tế do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, mà còn mở  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2