intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 58 - Đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

116
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 58 - Đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước

  1. LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình đổi mới đất nước, theo Hiến pháp 1992 thể chế hành   chính của các cơ  quan Nhà nước đã được thay đổi khá nhiều phù hợp với   việc quản lý xã hội, đáp  ứng được công cuộc xây dựng đất nước XHCN.  Cơ  cấu quản lý hành chính đã được điều chỉnh, giảm bớt sự  cồng kềnh   giảm thiểu sự  quan liêu để  tiến tới sự  một xã hội công bằng văn minh và  phát triển. Việc xây dựng cơ  cấu của các cơ  quan hành chính mới không  làm thay đổi hoặc suy giảm quyền lực và nhiệm vụ của các cơ  quan quản  lý nhà nước. Mặt khác địa vị  pháp lý của cơ  quan được đề  cao và tăng   cường kiểm tra giám sát đối với từng bộ  phận, hiểu được đường lối chỉ  đạo hợp lý của Nhà nước và vai trò tích cực của các cơ  quan quản lý Nhà  nước. Chính vì vậy, quyền và nghĩa vụ  đây chính là địa vị  pháp lý của cơ  quan quản lý Nhà nước. Mặt khác, địa vị pháp lý của các cơ quan được đề  cao và tăng cường kiểm tra giám sát đối với từng bộ phận, từng lĩnh vực xã  hội phát triển không thể  thiếu được đường lối chỉ  đạo hợp lý của Nhà   nước và vai trò tích cực của các cơ  quan trong Bộ  máy hành chính Nhà   nước và điạ vị đó được thể hiện trong việc ban hành văn bản vi phạm pháp   luật. Mong thày cô, bạn bè đóng góp ý kiến để tiểu luận được đầy đủ  và  hoàn thiện hơn.
  2. I.   KHÁI   NIỆM   VÀ   ĐẶC   ĐIỂM   ĐỊA   VỊ   PHÁP   LÝ   CỦA   CÁC   CƠ  QUAN TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm:  Bộ máy quản lý Nhà nước theo hiến pháp 1980 cũng như hiến pháp  1992 là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước. Như vậy, đứng về mặt  hệ thống, các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta gồm: ­ Cơ quan quyền lực ­ Cơ quan quản lý ­ Cơ quan kiểm sát ­ Cơ quan xét xử Trong đó, các cơ quan quản lý Nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ  quan quyền lực, được tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ từ Trung ương   đến địa phương và cơ  sở  đẻ  trực tiếp quản lý, điều hành các mặt hoạt  động của đời sống xã hội. Như  vậy, trong mối quan hệ  và mối phân định  với hoạt động của cơ quan quyền lực, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử thì  khái niệm quản lý Nhà nước (hoạt động chấp hành và điều hành, hoạt  động hành pháp). Vì vậy, chúng là chủ thể cơ bản của luật hành chính. 2. Đặc điểm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ  quan hành chính Nhà nước là các cơ  quan chủ  thể  chủ  yếu  của quan hệ pháp luật hành chính. Là một bộ  phận hợp thành của bộ  máy  Nhà nước, cơ  quan quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ  Nhà nước đó là: a. Là một tổ chức (tập hợp những con người) b. Có tính độc lập tương đối về tổ chức ­ cơ cấu:  Có cơ  cấu bộ máy và quan hệ công tác bên trong của cơ  quan được   quy định trước hết bằng nhiệm vụ, chức năng thể hiện vai trò độc lập của 
  3. nó, nhưng đồng thời nó có những quan hệ đa dạng về tổ chức và hoạt động   với cơ quan khác trong hệ thống bộ máy quản lý và bộ  máy Nhà nước nói   chung mà quan hệ đó được quy định chính bởi vị trí của từng cơ quan trong   hệ thống chung đó. c. Có  thẩm  quyền  do pháp luật quy  định,  đó  là tổng thể  những  quyền, nhiệm vụ  chung và những quyền hạn cụ  thể  mang tính quyền lực  pháp lý mà Nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ chức năng Nhà nước.   Các quyền hạn đó ­ yếu tố  quan trọng nhất của thẩm quyền, có hiệu lực   "ra bên ngoài" nghĩa là có hiệu lực bắt buộc đối với các đối tượng ngoài   phạm vi cơ  quan. Sở dĩ như  vậy vì cơ  quan nhà nước nhân dân Nhà nước   thực hiện quyền lực nhân dân vì lợi ích của Nhà nước. Đây là đặc điểm cơ  bản để  phân biệt cơ  quan Nhà nước với các cơ  quan, tổ  chức không phải   của Nhà nước, vì những cơ  quan tổ chức đó không có thẩm quyền (ví dụ:  cơ quan tổ chức xã hội, tổ chức tư nhân…) Thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước có những giới hạn về không  gian (lãnh thổ) về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động của  nó. Đó là những giới hạn phap lý vì được quy định trong luật pháp. Trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan Nhà nước thì quyền quan   trọng nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Mỗi cơ  quan có hình  thức và phương pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể cả việc áp  dụng các biện pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định, kể  cả  việc áp  dụng các biện pháp cưỡng chế  Nhà nước. Quyền thực hiện các hình thức   và phương pháp hoạt động đó cũng là yếu tố  quan trọng của thẩm quyền  cơ quan Nhà nươc. Các cơ quan Nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của   mình và trong phạm vi đó nó hoạt động độc lập, chủ  động và sáng tạo,  thẩm quyền của cơ  quan Nhà nước là nghĩa vụ  không phụ  thuộc vào ý 
  4. muốn, sự xét đoán riêng của bản thân cơ quan cũng như của bất cứ người   lãnh đạo nào. Ngoài các đặc điểm chung của cơ  quan Nhà nước, cơ  quan quản lý  Nhà nước có đặc điểm riêng, quyết định bởi chính bản chất của hoạt động   chấp hành và điều hành. Thông qua các đặc điểm riêng này mà chúng ta  phân biệt rõ cơ quan quản lý Nhà nước với các cơ quan Nhà nước khác (cơ  quan quyền lực, viện kiểm sát, toà án). Các đặc điểm riêng cơ  bản của địa vị  pháp lý của cơ  quan quản lý   Nhà nước là: 1. Nhìn tổng thể, bộ máy hành chính Nhà nước là bộ máy chấp hành  của các cơ  quan quyền lực Nhà nước. Các cơ  quan đầu não của bộ  máy  hành  chính do các cơ quan quyền lực Nhà nước thành lập (Chính phủ, Bộ  và các cơ  quan, cơ  quan ngang Bộ  và các cơ  quan khác thuộc Chính phủ,  UBND các cấp). Do đó, chúng trực thuộc, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm  tra của các cơ  quan quyền lực Nhà nước tương  ứng và chịu trách nhiệm  báo cáo công tác trước cơ  quan đó. Có những cơ  quan quản lý Nhà nước   không do các cơ  quan quyền lực Nhà nước trực tiếp lập ra mà do các cơ  quan quản lý cấp trên thành lập, nhưng về  nguyên tắc cũng chịu sự  giám  sát, lãnh đạo của các cơ quan quyền lực tương ứng. 2. Các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên thực hiện hoạt động chấp  hành và điều hành tức là hoạt động mang tính dưới luật ­ hoạt động tiến  hành trên cơ  sở  và để  thi hành luật. Đó là hình thức chủ  yếu để  đưa các   đạo luật và các văn bản pháp luật khác … của các cơ quan quyền lực Nhà  nước vào thực tiễn cuộc sống. 3. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ giới hạn trong   phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành, chủ  yếu được quy định trong 
  5. các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước hoặc các điều lệ, quy   chế…. Những quyền và nghĩa vụ  phát sinh từ  quan hệ  dân sự  mà cơ  quan   quản lý Nhà nước có thể  tham gia tương tự  như  tất cả  các chủ  thể  khác   của pháp luật dân sự không phải là yếu tố của thẩm quyền của các cơ quan  Nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, của các cơ  quan quản lý  Nhà nước có trách nhiệm hoạt động thường xuyên hàng ngày một cách chủ  động và sáng tạo để  đáp ứng nhu cầu diễn biến nhanh chóng, phức tạp và  đa dạng của hoạt động quản lý. 4. Tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với  nhau (quan hệ  trực thuộc trên ­ dưới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo  thành một hệ thống thống nhất có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ đảm bảo   thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành một cách mau lẹ, nhất quán và   hiệu quả. Nhưng hệ thống quản lý bộ máy rất phức tạp, nhiều về số lượng cơ  quan  ở  tất cả  các cấp từ  trung  ương đến cơ  sở  cũng như  sô nhiều về  số  biên chế. Số lượng cơ quan và biên chế này bằng gấp nhiều lần số lượng   cơ  quan và biên chế  của tất cả  các cơ  quan Nhà nước khác cộng lại. Hạt   nhân của các cơ quan quản lý Nhà nước là công chức. 5. Hoạt động chấp hành và điều hành của bộ  máy quản lý hoàn toàn  khác với hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử  của toà án. Tuy nhiên,   chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bộ máy quản lý, toà án viện kiểm sát là những hệ thống độc lập với   nhau, không có quan hệ trực thuộc. Nhưng hoạt động của các cơ quan quản   lý chịu sự giám sát của viện kiểm sát (trừ hoạt động của Chính phủ) và toà   án. Các cơ  quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm xem xét và trả  lời các 
  6. yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị  của viện kiểm sát và toà án trong thời hạn   do luật định. Ngược lại, các văn bản pháp luật của các cơ  quan Nhà nước là một   trong những căn cứ  để  toà án và viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm  sát và xét xử. Một số vấn đề  tổ  chức nội bộ của Toá án và Viện kiểm sát   so văieọt nam bản pháp luật của các cơ quan quản lý điều chỉnh (ví dụ: về  chính sách cán bộ, về quản lý cán bộ của toà án) Bộ  máy quản lý được giao nhiệm vụ  quản lý các ngành và lĩnh vực  quản lý hành chính ­ chính trị, kinh tế, văn hoá ­ xã hội chủ  yếu bao gồm   rất nhiều các cơ  quan, các tổ  chức, xí nghiệp trực thuộc và chịu sự  lãnh  đạo của nó. Toá án và viện kiểm sát nhân dân không có các đối tượng quản  lý này. II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ VỚI VIỆC BAN   HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT. Như phần trên đã trình bày trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan  Nhà nước thì quan trọng nhất là quyền ban hành quyết định pháp luật. Đối   với các cơ  quan quản lý Nhà nước thì việc ban hành văn bản quy phạm  pháp luật nhằm thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Những văn  bản này đều có những đặc điểm của văn bản Nhà nước nói chung, đặc biệt  là tính chất pháp lý của nó tuy nhiên là những văn bản hành chính Nhà nước   bao giờ cũng là những văn bản dưới luật được ban hành trên cơ sở để chấp  hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của các cơ quan quyền   lực. Thực tiễn việc ra các văn bản quy định pháp luật đã được quy định   đầy đủ  trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa  đổi bổ  sung 2002) của Quốc hội. Tuỳ vào vị  trí, tính chất pháp lý và hoạt 
  7. động của từng cơ  quan quản lý trong bộ  máy hành chính Nhà nước để  ra  các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau. 1. Chính phủ Theo hiến pháp 1992 ­ Điều 109 quy định:"Chính phủ là cơ quan chấp  hành  của   Quốc  hội,   cơ   quan   hành  chính   Nhà   nước   cao  nhất   của  nước  CHXHCNVN" Như  vậy Hiến pháp 1992 đã khẳng định rằng về  hoạt động chính  Nhà (hoạt động hành pháp) thì Chính phủ  là cơ  quan cao nhất của Nhà   nước ta, tức là cơ  quan đứng đầu hệ  thống hành pháp. Địa vị  pháp lý của  chính phủ  còn được thể  hiện các nhiệm vụ  chính trị, kinh tế, văn hoá xã  hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của Nhà nước, bảo đảm hiệu lực của   bộ  máy Nhà nước từ  Trung  ương đến cơ  sở, bảo đảm việc tôn trọng và  chấp hành hiến pháp và pháp luật, phát huy quyền làm chủ  của nhân dân  trong sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc, bảo đảm  ổn định và nâng   cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. (Điều 109 khoản 2) Xuất phát từ  địa vị  pháp lý, từ  vai trò nhiệm vụ  của Chính phủ"căn   cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị  quyết   của Uỷ  ban thường vụ  Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ  tịch nước,   Chính phủ ban hành Nghị quyết, Nghị định"(Điều 15. Luật ban hành văieọt  nam bản quy định phạm pháp luật). Các văn bản của Chính phủ có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc và là  cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của cả hệ thống bộ máy quản lý là  phương tiện chủ  yếu đảm bảo việc thi hành các nhiệm vụ, chức năng  quản lý trên phạm vi cả nước. Chế  độ  Thủ  tướng thể  hiện cụ  thể  và rõ nét nhất trong các quyền   hạn cụ thể của Thủ tướng. Điều 114 ­ Hiến pháp 1992 đã quy định cụ thể  cho   Thủ   tướng   một   số   quyền   hạn   rất   quan   trọng   mà   trước   đây   thuộc 
  8. quyền hạn của Hội đồng bộ trưởng hoặc của Hội đồng nhân dân dân tỉnh.  Đặc biệt thủ tướng chính phủ  còn có thẩm quyền ban hành quyết định và  chỉ thị. (Điều 15 ­ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp lý). Các văn bản  của Thủ  tướng chính phủ  có hiệu lực trong toàn quốc trên cơ  sở  văn bản  của các  cơ quan Nhà nước cấp trên và kiểm tra việc thi hành các văn bản  đó (Điều 115 ­ Hiến pháp 1992). Như vậy theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996  (sửa đổi bổ sung năm 2002) thì hệ thống văn bản pháp luật của Chính phủ  đã đơn giản và khoa học hơn trước. Theo hiến pháp mới tập thể Chính phủ  và Thủ  tướng chính phủ  ban hành 4 loại văn bản (Nghị  định, Nghị  quyết,  Quyết định, Chỉ thị) và chúng phân biệt rõ ràng với nhau về tên gọi, trình tự  ban hành. Điều đó chứng tỏ  địa vị  pháp lý của Chính phủ    cũng đã được   thay đổi so với trước kia. 2. Các cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương. "Bộ, chính quyền ngang bộ là chính quyền của Chính phủ, thực hiện   chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành  hoặc lĩnh vực công tác trong  phạm   vi   cả   nước"   (Điều   22   Luật   tổ   chức   Chính   phủ,   thông   qua   ngày  30/9/1992, Điều 1 Nghị  quyết số  15 Công ty cổ  phần vật liệu và xây lắp  Nghĩa Hưng của Chính phủ  ngày 2/3/1993 về  nhiệm vụ, quyền hạn và   trách nhiệm quản lý Nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ). Các cơ  quan quản lý Nhà nước  ở  Trung  ương (sau đây gọi chung là   "Bộ" thực hiện chức năng "quản lý Nhà nước của bộ và hoạt động của các  tổ chức kinh doanh sự nghiệp "Điều 2 Nghị định số 15/CP). Đặc biệt, Hiến   pháp 1992 quy định rõ trách nhiệm của Bộ  trưởng và các thành viên khác   của Chính phủ  phải "bảo đảm quyền tự  chủ  trong hoạt động sản xuất,  kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật" (Điều 116) Như vậy vị trí và tính chất pháp lý của Bộ được quy định khá rõ ràng  
  9. trong các văn bản luật của Nhà nước. Để  có những quyền hạn cụ  thể  để  quản lý được tốt, Luật ban hành văn bản quy định pháp luật đã trao thẩm  quyền cho Bộ  trưởng, Thủ  tướng chính quyền ngang Bộ, Thủ  tướng cơ  quan thuộc Bộ, Thủ tướng cơ quan Chính phủ"căn cứ vào Hiến pháp, Luật,  Nghị  quyết  của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị  quyết của Uỷ  ban thường vụ  Quốc hội, Lệnh, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,  Thủ  tướng cơ  quan ngang Bộ, Thủ  tướng cơ  quan thuộc Chính phủ  ban  hành Quyết định, Chỉ thị, Thông tư". Để  thực hiện các quyền hạn của mình ngoài việc ban hành văn bản  thì việc đồng thời với nó là Bộ  trưởng và Thủ  tướng các cơ  quan quản lý  ngành và lĩnh vực thuộc Chính phủ phải kiểm tra việc thi hành các văn bản   đó với tất cả  các ngành, các địa phương và cơ  sở. Những Quyết định, Chỉ  thị, Thông tư  trái pháp luật của Bộ  trưởng và Thủ  trưởng các cơ  quan   thuộc Chính phủ thì bị Thủ tướng đình chỉ hoặc bãi bỏ. 3. Các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương. Hiến pháp 1992 quy định "UBND do Hội đồng nhân dân bầu là chính   quyền chấp hành Hội đồng nhân dân, chính quyền hành chính Nhà nước ở  địa phương chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của  các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều   123)" UBND là cơ quan quản lý thẩm quyền chung đứng đầu bộ máy quản  lý thuộc đơn vị  hành chính ­ lãnh thổ  của mình. Như  tiểu Chính phủ   ở  địa  phương, UBND thực hiện chức năng quản lý tổng thể  theo tổng lãnh thổ  đối với mọi ngành, lĩnh vực trực thuộc địa phương mình, bảo đảm việc thi  hành pháp luật, văn bản của cấp trên và của Hội đồng nhân dân cấp mình ở  địa phương, giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan cấp trên ở điạ  phương trong phạm vi những vấn đề  thuộc quyền quản lý theo lãnh thổ, 
  10. củng cố theo pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền tự do và lợi  ích hợp pháp của công dân, của các cơ quan tổ chức. Để   thực   hiện   nhiệm   vụ,   chức   năng,   các   quyền   chung   của   mình,  UBND được quyền ra Quyết định, Chỉ  thị  trong phạm vi thẩm quyền và   kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC BAN   HÀNH CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ  NHÀ NƯỚC. Theo Hiến pháp năm 1992 đã có nhiều điểm thay đổi, tiến bộ  phù  hợp với công tác quản lý của các cơ  quan quản lý Nhà nước. Song riêng  vấn đề ban hành các văn bản pháp lý thì cong nhiều chỗ bất cập đó là: Hiến pháp 1992 đã bỏ qua những khía cạnh quan trọng trong quan hệ  giữa văn bản của Chính phủ và Chủ tịch nước. Theo điều 115 văn bản của   Thủ  tướng Chính phủ  vẫn phải phù hợp với văn bản của Chủ  tịch nước,  nhưng khi nó không phù hợp thì lại không quy định cơ  quan nào có thẩm  quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ. Chủ tịch nước không có quyền này (điều 113). Mặt khác, tương quan về  hiệu lực pháp lý giữa văn bản của Chính  phủ và Thủ tướng lại không rõ. Đây cũng là điểm mắc mớ quan trọng trong   "bước chuyển" sang nguyên tắc kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ  Thủ trưởng đối với Chính phủ trong hiến pháp 1992. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương thì Bộ, các cơ  quan chuyên môn của Bộ  và các cơ  quan khác trực thuộc Bộ  đặt tại địa   phương phải chấp hành các quy định của UBND các cấp về vấn đề  thuộc  chức năng quản lý theo lãnh thổ  như: an ninh, trật tự  an toàn công cộng,  bảo vệ môi trường đất đai… nhưng trong thực tiễn quản lý vẫn còn nhiều  mâu thuẫn giữa Bộ và UBND rất phức tạp, khó giải quyết. Các cơ  quan quản lý Nhà nước  ở  địa phương thì việc ban hành văn  bản pháp luật thì cả  Hiến pháp 1992 và luật ban hành văn bản quy phạm 
  11. pháp luật 1996 (sửa đổi bổ  sung 2002) chưa quy định rõ ràng văieọt nam  bản nào là của tập thể UBND và văn bản nào là của Chủ tịch UBND. Trên đây là những điểm hạn chế  với việc ban hành và thực thi các  văn bản pháp luật của các cơ  quan Nhà nước ­ đây cũng chính là những   kiến nghị với các cơ quan quyền lực Nhà nước cần xem xét và quy định sao   cho phù hợp với từng chức năng, nhiệm vụ  của từng cơ  quan để  các cơ  quan quản lý xã hội được tốt trong thời gian tới.
  12. IV. KẾT LUẬN Địa vị  pháp lý của các cơ  quan Bộ  máy hành chính Nhà nước đó là  tổng hợp những quyền và nghĩa vụ  trong từng lĩnh vực quản lý của mình.  Địa vị  pháp lý rất quan trọng đối với từng cơ  quan vì nó đã thể  hiện chỗ  đứng, vị  tró, quyền hạn đối với lĩnh vực mà mình điều chỉnh. Có những   quyền và nghĩa vụ  cụ  thể  thì các cơ  quan quản lý mới góp phần và đảm  bảo cho xã hội được tốt hơn.
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO ­ HP 1992 ­ Luật tổ chức Chính phủ ­ Luật tổ chức Quốc hội ­ Luật ban hành văn bản vi phạm pháp luật 1996 (sửa đổi bổ  sung  2002) ­ Nghị  định số  15/Công ty cổ  phần vật liệu và xây lắp Nghĩa Hưng  của Chính phủ  ngày 2/3/1993 về  nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm  quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ. ­ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND các cấp. ­ Giáo trình pháp luật đại cương của trường Đại hoc kinh tế  Quốc   dân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1