intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 69 - Vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

112
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 69 - Vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thế giới đã bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ của khoa   học ­ công nghệ  (KH ­ CN). Ngày nay KH ­ CN được  ứng dụng rất nhiều  vào cuộc sống của con người. Đặc biệt,  ứng dụng tri thức KH ­ CN trong   phát triển kinh tế là một hướng đi đúng. Ở  các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển có ứng dụng   tri thức KH ­ CN. Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh   tế  theo định hướng XHCN, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn   trong 15 năm đổi mới vừa qua, song nền kinh tế vẫn còn kém phát triển so  với các nước khu vực và thế  giới, đồng thời đang gặp phải những thách  thức không nhỏ: đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước   trong khu vực do xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển trong   môi trường cạnh tranh quyết liệt. Sự khác biêt về  trình độ  công nghệ  của  Việt Nam so với các nước phát triển là rất lớn, nhìn chung công nghệ nước   ta tục hậu so với trình độ chung của thế giới khoảng 3, 4 thập kỷ. Quá trình CNH ­ HĐH dẫn đến sự  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, cơ  cấu   lao   động   giữa   các   ngành,   đặc   biệt   là   sự   chuyển   lao   động   từ   nông   nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Mục tiêu trong chiến lược   phát triển kinh tế  ­ xã hội đến năm 2010 là đẩy mạnh nhanh quá trình đổi   mới kỹ thuật công nghệ trong sản xuất, mở rộng các khu công nghiệp, khu   chế suất đưa Việt Nam trở thành một nước có trình độ  KTCN ở trung bình  tiên tiến so với các nước trong khu vực. Chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo   hướng tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp   trong GDP, đồng thời điều chỉnh cơ  cấu lao động đến năm 2010 chỉ  còn   khoảng 50% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Hội nhập nền kinh tế  thế  giới đang là một xu thế  tất yếu của thời   đại. Vì vậy bên cạnh sử  dụng năng lực nội sinh, các nước đang phát triển  1
  2. như  Việt Nam, không có con đường nào khác phải biết vận dụng những   thành tựu của khoa học công nghệ và phải bắt kịp tri thức mới để phát triển  nhanh nền kinh tế. Vì vậy vấn đề  đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phát   triển nguồn nhân lực có tri thức, trình độ, tay nghề  cho sjư  phát triển nền   kinh tế Quá trình phát triển nền kinh tế  nước ta đầu thế  kỷ  XXI trong điều  kiện của kinh tế  tri thức theo tinh thần Đại hội Đảng IX là “Công nghiệp   hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ bây giờ và trong suốt các giai đoạn. Nâng  cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố  phát triển kinh tế  ­ xã hội, từng   bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”. [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn  quốc lần thứ IX]. Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã đưa ra chiến lược phát triển kinh  tế nêu rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để  đạt trình độ  công nghệ  tiên tiến, đặc biệt là công nghệ  thông tin và công  nghệ  sinh học, tranh thủ   ứng dụng ngày càng nhiều hơn,  ở  mức cao hơn,   phổ  biến hơn những thành tựu mới về  khoa học và công nghệ, từng bước   phát triển kinh tế tri thức”. [Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ  IX ­ NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001]. Do đó KH ­ CN được coi là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH   ­ HĐH ở Việt Nam. Nhiệm vụ phát triển tri thức KH ­ CN là một nhiệm vụ  cấp thiết hiện nay, và gắn chặt hơn nữa KH ­ CN với kinh tế xã hội. 2
  3. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Nội dung lý luận triết học a. Ý thức Trong lịch sử  triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một  thực thể độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của  ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự  phản ánh  của vật chất. Còn các nhà triệt học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại   khách quan và ý thức là sự  phản ánh sự  vật đó. Tuy nhiên, do  ảnh hưởng  bởi quan niệm siêu hình ­ máy móc nên họ đã coi ý thức là sự  phản ánh sự  vật một cách thụ động, giản đơn, máy móc, mà không thấy được tính năng  động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh. Khách với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên   cơ sở lý luận phản ánh coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào   trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Ý thức theo nghĩa thông thường theo một số quan niệm của khoa học  chuyên ngành, ý thức thờng được hiểu là tính có chủ  ý. Nhưng theo nghĩa  triết học được hiểu theo nghĩa là toàn bộ những sự phản ánh tinh thần của   con người về thế giới khách quan. Phản ánh là năng lực, khả năng của một  hệ  thống vật chất ghi nhận và tái hiện những đặc điểm, những tính chất   của một hệ thống khác. Phản ánh là nhiệm vụ phổ biến của một tổ chức. Xét về cấu trúc ý thức bao gồm những yếu tố; tri thức, sự hiểu biết,   tâm lý, tình cảm, ý chí con người, lý tưởng,  ước mơ  con người. Trong đó   nhân tố  tri thức là trung tâm bao hàm biểu hiện nhất định. Tri thức là nhân   tố  quan trọng nhất của ý thức, bất cứ  một hình thức phản ánh của ý thức   chỉ là tồn tại một khi trong nó có tri thức. b. Bản chất của ý thức. 3
  4. Theo Mac nói: “Ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào   bộ óc con người và cải biến đi ở trong đó”. Còn theo Lênin: “Ý thức là hình   ảnh chủ quan”. Để  hiểu bản chất của ý thức, trước hết, chúng ta thừa nhận cả  vật  chất và ý thức đều là “hiện thực” nghĩa là đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có  sự khác nhau mang tính đối lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn  vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh ­ tức là vật chất ­ tồn tại   khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái phản ánh   ­ tức là ý thức ­ là hiện thực chủ quan, là hình  ảnh chủ  quan hay hình ảnh   tinh thần của sự  vật khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị  cái   khách quan quy định, không có tính vật chất. Vì vậy không thể  đồng nhất,   hoặc tách rời cái được phản ánh ­ tức vật chất, với cái phản ánh ­ tức ý  thức. Nếu coi cái phản ánh ­ tức ý thức ­ là hiện tượng vật chất thì sẽ  lẫn   lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh ­ tức lẫn lộn giữa vật chất và ý  thức, làm mất ý nghĩa của đối lập giữa vật chất và ý thức, từ  đó dẫn đến   làm mất đi sự đối lập giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thứ hai, khi nói cái phản ánh ­ tức ý thức ­ là hình ảnh chủ quan của  thế giới khách quan, thì nó không phỉa là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý  động vật về sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể  xã hội năng động sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt  động cải tạo thé giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng   tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo C.Mac, ý thức “chẳng  qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được   cải biến đi trong đó”(1). Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những  cái đã có trước, ý thức có khả  năng tạo ra tri thức mới về  sự  vật, có thể  tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể  tiên đoán, dự  báo tương    C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. t.23, tr. 35 (1) 4
  5. lai, có thể tạo ra những  ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý  thuyết khoa học hết sức trìu tượng và khái quát cao. Những khả  năng  ấy   càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý ­ ý thức ở  con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ  bản chất của những hiện tượng ấy. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế  giới,   cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ  óc người là quá  trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao  đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin  cần thiết. Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình  ảnh tinh  thần. Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo  nghĩa: mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật  chất. Ba là, chuyển mô hình từ  tư  duy ra hiện thức khách quan, tức quá   trình hiện thực hóa tư  tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan  niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư  duy thành  các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn  những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách  quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ  ra vật chất.   Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự  phản ánh, theo quy luật và trong  khuôn khổ  của sự  phản ánh mà kết quả  bao giờ  cũng là những khách thể  tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức. Ý thức là  sjư  phản ánh vào chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự  phản ánh   phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc. 5
  6. Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự  ra đời, tồn tại của ý thức gắn  liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật   sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và  các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Ý thức mang  bản chất xã hội. c. Nguồn gốc của ý thức  Nguốc gốc tự nhiên Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức   sinh ra vật chất, chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Học   thuyết triết học duy tâm khách quan và triết học duy tâm chủ quan có quan  niệm khác nhau nhất định về  ý thức, song về  thực chất họ  giống nhau  ở  chỗ  tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức làm điểm xuất phát để  suy ra   giới tự nhiên. Các nhà duy vật trước Mác đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên  của chủ nghĩa duy tâm, không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức,  đã chỉ ra mối liên hệ khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất   có trước ý thức, ý thức phụ  thuộc vào vật chất. Do khoa học chưa phát  triển, do  ảnh hưởng của quan điểm siêu hình ­ máy móc nên họ  đã không  giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý  học thần kinh, chủ  nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải  có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các  nhà thần học và duy tâm khách quan đã khẳng định mà ý thức là một thuộc   tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ  là   thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người . Bộ óc  người là cơ  quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ  óc con   người. Ý thức phụ  thuộc vào hoạt động bộ  óc người, do đó khi óc bị  tổn  6
  7. thương thì hoạt động của ý thức sẽ  không bình thường. Vì vậy, không thể  tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách   rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình  phát triển từ  thấp đến cao, từ  đơn giản đến phức tạp của vật chất vận  động, đồng thời đã xác định bộ  óc của con người là một tổ  chức sống đặc  biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp bao gồm khoảng 14­15 tỷ tế  bào thần   kinh. Các tế  bào này có liên hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô   số  những mối liên hệ  thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ  thể  trong  quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều  kiện. Quá trình ý thức và quá trình sinh lý trong bộ  óc không đồng nhất,  không tách rời, không song song mà là hai mặt của một quá trình sinh lý  thần kinh mang nội dung ý thức. Khi khoa học ­ kỹ thuật tạo ra những máy  móc thay thế cho một phàn lao động trí óc của con người thì không có nghĩa   là máy móc có ý thức như con người. Máy móc là một kết cấu kỹ thuật do   con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy không thể thay  thế cho hoạt động trí tuệ  của con người, không thể  sáng tạo lại hiện thức   dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như  con người. Do đó chỉ  có con   người với bộ óc của nó mới có ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người ­ một tổ chức vật chất cao ­ lại có thể  sinh ra được ý thức? Để  trả  lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối   liên hệ vật chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật  chất  ấy hình thành nên quá trình phản ánh thế  giới vật chất vào óc con   người. Phản ánh là thuộc tính phổ  biến trong mọi dạng vật chất.  Phản ánh   là sự  tái tạo những đặc điểm của một hệ  thống vật chất này  ở  hệ  thống   vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng . Kết quả  của sự  7
  8. phản ánh phụ  thuộc vào cả  hai vật. (vật tác động và vật nhận tác động).   Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật  tác động. Đây là điều quan trọn để  làm sáng tỏ  nguồn gốc tự  nhiên của ý  thức. Trong quá trình tiến hóa của thế  giới vật chất. Các vật thể  càng  ở  bậc thang cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy   nhiêu. Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự  nhiên vô  sinh là những phản ánh vật lý, hóa học. Những hình thức phản ánh này có   tính chất thụ  động, chưa có định hướng sự  lựa chọn. Hình thức phản ánh   sinh học đặc trưng cho giới tự  nhiên sống là bước phát triển mới về  chất   trong sự  tiến hóa của các hình thức phản ánh. Hình thức phản ánh của các  cơ  thể  sống đơn giản nhất là biểu hiện  ở  tính kích thích, tức là phản ứng  trả  lời tác động của môi trường  ở  bên ngoài có  ảnh hưởng trực tiếp đến  quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức phản ánh tiếp theo của các  động vật chưa có hệ  thần kinh là tính cảm  ứng, tính nhạy cảm đối với sự  thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thống  thần kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ  thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Như vậy, phản ánh sinh học trong  các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sinh vật thích  nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học được  thực hiện thông qua các hình thức kích thích ở thực vật, các phản xã ở động   vật có hệ  thống thần kinh và tâm lý  ở  động vật cấp cao. Tâm lý động vật   chưa phải là ý thức, nó mới là sự  phản ánh có tính chất bản năng do nhu   cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Ý thức là hình thức cao nhất của sự  phản ánh thế  giới hiện thức. Ý   thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với  sự  xuất hiện con người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người,   8
  9. không thể tách rời con người. Ý thức bứt nguồn từ một thuộc tính của vật  chất ­ thuộc tính phản ánh ­ phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả  phát  triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Nội dung của ý thức là   thông tin về thế  giới bên ngoài, về  vật được phản ánh. Ý thức là sự  phản  ánh thế  giới bên ngoài và đầu óc con người. Bộ  óc người là cơ  quan phản   ánh, song chỉ  có riêng bộ  óc thôi thì chưa thể  có ý thức. Không có sự  tác   động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt  động ý thức không thể xảy ra. Như  vậy, bộ  óc người [cơ quan phản ánh về  thế  giới vật chất xung   quanh] cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc ­ đó là nguồn gốc tự   nhiên của ý thức. Những điều đã trình bày về  nguồn gốc tự nhiên của ý thức cho thấy  “sự  đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ  có nghĩa tuyệt đối trong những  phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề  nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có  sau? Ngoài giới hạn đó ra, sự đối lập đó là tương đối(1). Ý thức chính là đạc  tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao mà thôi.  Nguồn gốc xã hội  Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan   trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra   đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với  quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan   hệ xã hội. Lao động theo C.Mác, là một quá trình diễn biến giữa người và tự  nhiên, một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới,  điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao    V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.173 (1) 9
  10. động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung   cấp cho con người những phương tiện cần thiết  để  sống, đồng thời lao   động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con người tác ra  khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con người   với động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự  nhiên, còn con người thì nhờ  lao động mà bắt giới tự  nhiên phục vụ  mục   đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng những nhu cầu của mình.  Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà  con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về  thế giới đó. Sự  hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ  động, mà   đó là kết quả  hoạt động chủ  động của con người. Nhờ  có lao động, con  người  tác động và thế  giới khách quan, bắt thế  giới khách quan bộc lộ  những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành   những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng  ấy tác động vào bộ  óc   người, hình thành dần những tri thức về  tự nhiên và xã hội. Nếu không có  lao động thì hoàn cảnh vẫn bí  ẩn, vẫn xa lạ  đối với con người, con người  không có cách nào khác ngoài lao động đẻ  óc thể  phản ánh đúng đắn thế  giới khách quan. Như  vậy, ý thức được hình thành chủ  yếu do hoạt động  cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. Ý thức  với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài  quá trình con người lao động làm biến đổi thế  giới xung quanh. Vì thế  có   thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc nguồn gốc cơ  bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan và đầu óc con   người trong quá trình lao động của con người. Lao động không xuất hiện  ở  trạng thái đơn nhất, ngay từ  đầu nó đã  mang tính tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu  10
  11. trao đổi tư tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi phải xuất  hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ  do nhu cầu của lao động và nhờ  lao động mà hình thành.   Ngôn ngữ  là hệ  thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có   ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao  tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu   tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn,  trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế  hệ  khác. Ý thức   không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội,  do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về  mặt ngôn ngữ  thì ý thức  không thể hình thành và phát triển được. Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nấht quyết định sự  ra đời và  phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện  thức khách quan vào bộ  óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ  và các  quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. 2. Vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển   kinh tế ở Việt Nam hiện nay a. Quan niệm về KH ­ CN  Quan niệm về khoa học Trong lịch sử  phát triển tư  duy của nhân loại có rất nhiều các quan   niệm khác nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển  của xã hội; mặt khác phụ  thuộc vào trình độ  nhận thức. Xét về  phương  diện xã hội, khoa học là một hiện tượng xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu  hiện sự thống nhất giữa những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần.  Về phương diện triết học, khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biêt.  Đặc biệt, bởi vì khoa học không chỉ phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào   11
  12. tồn tại xã hội, những chân lý của nó được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm mà  khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài.  Còn bởi vì, khoa học (cùng với công nghệ) là những yếu tố ngày càng có vai   trò đặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ  phát   triển của lực lượng sản xuất nói riêng, của phương thức sản xuất và của xã   hội nói chung. Về  phương diện nhận thức luận, khoa học là giai đoạn cao  của nhận thức ­ giai đoạn nhận thức lý luận. Ngày nay, quan niệm về  khoa học được phổ  biến với những  đặc  trưng cơ bản sau dây: ­ Khoa học là một hệ  thống tri thức về  tự  nhiên, về  xã hội, về  con  người và về  tư  duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối  quan hệ nội tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ đó chỉ ra   những quy luật khách quan của sự  vận động và phát triển của tự  nhiên, xã  hội và tư duy. ­ Hệ  thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận  thức của con người từ  trực quan sinh động, đến tư  duy trừu tượng, từ  tư  duy trừu tượng đến thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý  thuyết,... Như vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện  thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn. ­ Hệ thống tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ trực giác  hoặc tuân theo những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét   cho đến cùng cũng là sự  phản ánh thế  giới hiện thực và được thực tiễn   kiểm nghiệm. Do đó, một hệ  thống tri thức được coi là tri thức khoa học   phải bảo đảm tính đúng đắn, tính chân thực. ­ Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh  liệt, được phổ  biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ  lan   truyền đó đã tăng lên rất nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu hóa và công  12
  13. nghệ thông tin. Nó không chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là   biểu hiện sự giàu có, thịnh vượng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân. ­ Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu  dài, liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay   nó đang trở thành tài sản chung của xã hội loài người. Như vậy, qua một số những đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm  khoa học, ta thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học ­ đó là hệ  thống tri thức  chân thực về tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học là hệ thống tri thức chân  thực, nhưng có phải mọi tri thức chân thực đều là khoa học hay không? Để  hiểu rõ điều này, chúng ta phải đi tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của tri   thức, con đường từ tri thức đến khoa học.  Quan niệm về công nghệ Công nghệ  theo nghĩa chung nhất có thể  coi đó là tập hợp tất cả  những sự hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm   đáp  ứng nhu cầu sống của con người, sự  tồn tại và phát triển của xã hội.   Công nghệ  trong sản xuất là một tập hợp các phowng tiện vật chất, các  phương pháp, các quy tắc, các kỹ  năng được con người sử  dụng để  tác  động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản phẩm nào đó cần thiết  cho xã hội. Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện   nay: Một là, công nghệ  được coi như  một bộ  môn khoa học  ứng dụng,   triển khai (trong tương quan với khoa học cơ bản), trong việc v ận d ụng các   quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật   chất và tinh thần ngày càng cao của con người. Hai là, công nghệ  được hiểu với tư cách như  là các phương tiện vật   chất ­ kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được   13
  14. vật thể hóa thành các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất   và đời sống. Ba là, công nghệ  bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ  thuật, các kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử  dụng vào sản xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra các sản phẩm. Ngày nay, trong thời địa của cuộc cách mạng khoa học công nghệ  mới, hay cách mạng thông tin công nghệ lần thứ năm, khi mà khoa học đang   trở  thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí tuệ  con người đang giữ  vai trò  động lực trực tiế và quyết định sự phát triển của công nghệ nói riêng, và xã  hội nói chung thì quan niệm về  công nghệ, các thành phần cấu trúc của nó  lại một lần nữa có sự mở rộng và phát triển rất cơ bản. b. Vai trò của tri thức KH ­ CN trong việc phát triển kinh tế ở Việt   Nam hiện nay Công nghiệp hóa là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước   trên thế giới. Bởi vì, mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hóa là phát  triển sản xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất, nhằm  thỏa mãn các nhu cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự  phát  triển của xã hội. Ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sự  gắn   kết chặt chẽ giữa công nghiệp hóa với hiện đại hóa hiện nay là sự đổi mới  về  chất, là nhu cầu mới của sự  phát triển xã hội và cũng là quy định mới  của thời đại. Điều này, trước tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh  mẽ, nhanh chóng của khoa học và công nghệ và vai trò ngày càng tăng của  chúng đối với nền sản xuất xã hội nói riêng, đối với toàn bộ  đời sống xã  hội nói chung. Trong những giai đoạn phát triển trước đây của xã hội loài  người, sản xuất còn tách rời khoa học và công nghệ  và thường là vượt   trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Mói quan hệ giữa khoa học  14
  15. và công nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước công   nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học. Nói cách khác, sản xuất chưa thật sự  gắn kết với khoa học và công  nghệ, chưa được hiện đại hóa. Ngày nay trong điều kiện của cuộc cách  mạng khoa học và công nghệ  hiện đại, trong lĩnh vực này đang hình thành  một quy luật mới: Những phát minh khoa học trở thành nền tảng cho những   sáng chế  công nghệ  và đến lượt mình, công nghệ  này được trực tiếp đưa   vào sản xuất. Điều đó chỉ  có thể  có được khi khoa học trở  thành lực lượng sản  xuất trực tiếp, nghĩa là những tri thức khoa học nhanh chóng được vật thể  hóa thành công cụ, phương tiện sản xuất, thành hệ  thống công nghệ  trực   tiếp tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Nhờ đó, ngày nay, sản xuất xã  hội đã gắn liền với những phát minh, sáng chế  trong khoa học và công  nghệ; nó luôn được đổi mới và hiện đại hóa cùng với sự  phát triển của  khoa học và công nghệ. Hiện đại hóa nền sản xuất xã hội là nền tảng để  thực hiện sự hiện đại hóa toàn bộ đời sống xã hội. Hiện đại hóa nền sản xuất trước hết là hiện đại hóa trong lực lượng   sản xuất để đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm nâng cao  năng suất lao động, từ  đó làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh  tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội của một đất  nước. Khoa học và công nghệ là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.   Tuy nhiên, nếu như trong những giai đoạn phát triển trước đây, khoa học và   công nghệ  là những yếu tố  gián tiếp của lực lượng sản xuất, đứng ngoài  quá trình sản xuất trực tiếp theo nghĩa là từ  khoa học, công nghệ  đến sản  xuất phải trải qua một thời gian biến đổi lâu dài, tới hàng chục năm, thậm  chí hàng trăm năm thì ngày nay, nhìn chung, khoa học và công nghệ  đã và  15
  16. đang   trở   thành   lực   lượng   sản   xuất   trực   tiếp.   Trong   một   số   nước   công   nghiệp phát triển, tri thức của những phát minh mới nhất ở một số lĩnh vực  khoa học như  tin học, điều khiển học, sinh vật học v.v... đã nhanh chóng  được đưa vào công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu   mới... và từ đó, trực tiếp đi vào sản xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách   này, lực lượng sản xuất xã hội không ngừng được bổ sung và đổi mới theo  hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. Ngày nay xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại  là không ngừng thay thế  dần các trang thiết bị  kỹ  thuật, các quy trình, hệ  thống   công   nghệ   chưa   hoàn   thiện   (cho   năng   suấtt   thấp,   tiêu   hoa   nhiều  nguyên, nhiên vật liệu, thải bỏ  nhiều các chấy gây ô nhiễm môi trường   v.v...) bằng những thiết bị, những hệ  thống công nghệ  cao, công nghệ  làm  sạch, mang nhiều hàm lượng tri thức. Điều này chỉ  có thể  thực hiện được   bằng con đường phát triển khoa học và công nghệ. Như  vậy, khoa học và   công nghệ  đã thúc đẩy sự  phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng   hiện đại, và đó là tiền đề, là cơ sở của hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, vì  lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định trong một phương thức sản xuất. Con người với tri thức nghề nghiệp, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm  sản xuất là một yếu tố  cực kỳ  quan trọng của lực lượng sản xuất. Khoa   học và công nghệ cũng có vai trò to lớn, quyết định trong việc biến đổi yếu   tố  con người trong lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện  đại. Khoa  học và công nghệ  đã đến với con người thông qua quá trình giáo dục, đào  tạo và hoạt động thực tiễn, đã trang bị cho con người những tri thức lý luận  và kinh nghiệm cần thiết để  họ  có thể  nhanh chóng vận hành tốt và thích   nghi với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng   như có đủ năng lực giải quyết những tình huống phức tạp, có vấn đề trong   sản xuất và đời sống. Mặt khác, sự thường xuyên đổi mới theo hướng hiện   16
  17. đại dần của các trang thiết bị  kỹ  thuật, công nghệ  trong sản xuất và đời  sống đã buộc con người ­ với tư  cách là yếu tố  của lực lượn sản xuất ­   phải luôn nỗ  lực học tập, thường xuyên trau dồi kiến thức, nghiệp vụ,   chuyên môn để khỏi bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, để có thể  nhanh chóng thích ứng với cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình độ  và chất lượng của đội ngũ những người lao động không ngừng được nâng  cao và được hiện đại hóa theo đà phát triển của khoa học và công nghệ. Ngoài ra, nếu theo cách hiểu mới về  công nghệ  thì sự  phát triển của  khoa học và công nghệ ngày nay còn liên quan rất chặt chẽ, thậm chí còn có   vai trò rất to lớn đối với quan hệ sản xuất. Công nghệ, theo cách hiểu mới,   bao gồm 4 yếu tố: trang thiết bị, máy móc kỹ  thuật... (là phần cứng của   công nghệ); con người; thông tin; tổ chức và quản lý (ba yếu tố này là phần   mềm của công nghệ). Như  đã biết, trang thiết bị, máy móc kỹ  thuật... và  con người là thuộc về  lực lượng sản xuất. Hai yếu tố  thông tin, tổ  chức   quản lý, theo nghĩa chung, vừa là những yếu tố  của lực lượng sản xuất,   vừa là những yếu tố của quan hệ sản xuất. Thậm chí, bản thân con người,  xét theo các mối quan hệ  của nó trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, là   yếu tố  chủ thể  của quan hệ sản xuất. Do vậy, sự phát triển của khoa học  và công nghệ  không chỉ  có tác động mạnh mẽ  đến sự  phát triển của lực   lượng sản xuất, mà còn có  ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ  sản xuất theo  chiều hướng hiện đại. 3. Tương tự  như  nhiều nước khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện  đại hóa  ở  nước ta cũng có mục đích và nhiệm vụ  trước tiên là phải phát   triển sản xuất. Tuy nhiên, từ  một nước nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc   hậu, để  có thể  đi vào nền sản xuất hiện đại, chúng ta cần phải tiến hành  một quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các hoạt động xã hội,   trước tiên là hoạt động sản xuất ­ từ  chủ  yếu là lao động thủ  công, sang   17
  18. chủ yếu là lao động có kỹ thuật ­ nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội.  Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị  lần thứ  bảy Ban chấp hành  Trung  ương khóa VII, khi Đảng ta chủ  trương gắn quá trình công nghiệp   hóa với hiện đại hóa “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển   đổi căn bản, tàon diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản  lý kinh tế ­ xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một   cách phổ  biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương  pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự  phát triển của công nghiệp và tiến bộ  khoa học ­ công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”(1). Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học và công nghệ  đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, đối với sự  phát  triển xã hội Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên những mặt cụ thể sau  đây: Một là, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang   bị và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại,   tiên tiến  cho nền sản xuất xã hội nói riêng, cho tất cả  các ngành kinh tế  quốc dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản   phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa Việt Nam  trên thị  trường thế  giới, v.v... với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng   cao mức sóng của người dân, sự  phồn vinh và sức mạnh của xã hội Việt  Nam. Đó là nhiệm vụ  đầu tiên, quan trọng nhất của sự  nghiệp đẩy mạnh   công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Trên thực tế, nước ta đã  tiến hành công nghiệp hóa từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên,  do nhiều nguyên nhân chủ  quan và khách quan, đặc biệt là chưa gắn kết   được công nghiệp hóa với hiện đại hóa, mà cho đến nay, lực lượng sản   xuất của nước ta chủ yếu vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, các trang thiết bị,    Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành TW khóa  (1) VII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.42 18
  19. máy móc phần lớn là thủ  công, thủ  công bán cơ  giới. Nhìn chung, trình độ  phát triển công nghệ  nước ta, về  cơ  bản, chỉ  mới đạt  ở  giai đoạn 1 và 2  trong 7 giai đoạn phát triển công nghệ  mà các nước công nghiệp phát triển  đã trải qua ­ đó là nhập công nghệ  để  thỏa mãn nhu cầu tối thiểu (nhập   toàn bộ hoặc nhập phụ tùng các trang thiết bị và cả dây chuyền lắp ráp), và  mới chỉ có tổ  chức hạ tầng kinh tế  ở mức tối thiểu để  tiếp thu công nghệ  nhập. Do vậy, cả  năng suất lao động và chất lượng các sản phẩm do nền  sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất thấp so với mặt bằng chung của thế  giới, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và toàn cầu. Việc trang bị và trang bị lại công nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên  tiến, còn nhằm một mục đích và nhiệm vụ  quan trọng nữa là làm thay đổi   cơ  cấu chung của toàn bộ  nền kinh tế  quốc dân từ  nông nghiệp ­ công   nghiệp ­ dịch vụ  sang công nghiệp ­ nông nghiệp ­ dịch vụ. Bước chuyển  dịch cơ cấu này sẽ tạo tiền đề và nền tảng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp   hóa, hiện đại hóa, để  đến năm 2020, đưa nước ta cơ  bản trở  thành một  ưnứoc công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu chiến lược   này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận được nền khoa học và công nghệ  hiện đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt là các ngành công nghệ mũi nhọn:   công nghệ  thông tin, công nghệ  sinh học, công nghệ  vật liệu mới và công   nghệ năng lượng mới... Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy   những lợi thế  của đất nước, tận dụng mọi khả  năng để  đạt trình độ  công  nghệ tiên tiến, đặc biệt là ôcng nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh  thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những   thành tựu mới về  khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế  tri   thức”(1).  Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb  (1) Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2001, tr.91 19
  20. Hai là, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong   việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con   người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ  ­ một nguồn lực to lớn, có tính chất  quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở  nước ta. Có  nhiều cách thức để  chúng ta thực hiện việc trang bị  và trang bị  lại công  nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dù bằng  cách thức nào đi chăng nữa, điều quan trọng và có tính chất quyết định nhất   ở đây là cần phải có những con người có đủ tri thức và năng lực để  có thể  khai thác, sử dụng một cách hiệu quả  các trang thiết bị hiện đại. Điều này  chỉ có khoa học và công nghệ tiên tiến mới làm được. Con người là chủ  thể  sáng tạo ra khoa học và công nghệ. Đến lượt   mình, khoa học và công nghệ  trở thành phương tiện, công cụ  và đồng thời   là cơ  sở  để  con người vươn lên tự  toàn thiện về  mọi mặt, đặc biệt là về  năng lực trí tuệ. Trước hết, thông qua quá trình giáo dục, đào tạo, khoa học  và công nghệ  sẽ  trang bị  cho con người những tri thức khoa học và công  nghệ  cần thiết để  một mặt, giúp họ  có thể  am hiểu, sử  dụng và khai thác   một cách tích cực, có hiệu quả  những trang thiết bị  kỹ  thuật hiện đại, và  mặt khác, có thể sáng tạo ra công nghệ mới. Trong   điều   kiện   nước   ta   hiện   nay,   tuy   đã   qua   hơn   40   năm   công   nghiệp hóa, nhưng nhìn chung, nền sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản  xuất vẫn còn rất lạc hậu. Với gần 80% dân số là nông dân, 70% lao động là   lao động nông nghiệp, với cơ  cấu nền kinh tế  quốc dân đang hiện hành   “nông nghiệp ­ công nghiệp ­ dịch vụ”, với một truyền thống xã hội ít   “trọng nông”, “trọng thương”, v.v. đã và đang là những rào cản rất lớn đối  với con người Việt Nam trong việc tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên  tiến của thời đại. Hơn nữa, tư  duy kinh nghiệm ­ một lối tư  duy truyền   thống phổ  biến ­ đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam từ  bao đời nay. Không ai   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2