intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 79 -Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

129
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 79 -Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay

  1. Tiểu luận Triết học PHẦN MỞ ĐẦU Từ  khi xuất hiện con người trên hành tinh này đến ngày nay đã trải   qua 5 phương thức sản xuất tồn tại trong 5 chế độ xã hội: công xã nguyên  thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến tập quyền, tư bản chủ nghĩa và xã hội  chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà   ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự  thay đổi phát triển  lực lượng sản xuất cũng như  quan hệ  sản xuất. Từ  hái lượm săn bắt để  duy trì  cuộc sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu và đến ngày nay   trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất  xã   hội chính là sự  thống nhất biện chứng   giữa quan hệ  sản xuất với lực   lượng sản xuất, như Mác và Ăngen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa   quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ  quan điểm này của chủ  nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã   vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn từ  đổi mới đến nay. Biện chứng quan hệ  sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện   cho chúng ta có được nhận thức về sản xuất xã hội và kinh tế. Thấy được   ý nghĩa đó, tôi xin bày tỏ một vài ý kiến bản thân về  vấn đề: " Vận dụng   quan điểm triết học Mác xít về  quy luật quan hệ  sản xuất phải phù   hợp với trình độ  lực lượng sản xuất để  phát triển những thành tựu,   hạn chế  trong phát triển kinh tế  xã hội của Việt Nam trong giai đoạn   từ đổi mới đến nay" 1
  2. Tiểu luận Triết học PHẦN NỘI DUNG I. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ­ QUAN HỆ SẢN XUẤT ­ QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ   HỢP   CỦA  QUAN   HỆ   SẢN  XUẤT VỚI   TRÌNH  ĐỘ   PHÁT  TRIỂN   CỦA  LỰC   LƯỢNG SẢN XUẤT  1. Lực lượng sản xuất  Lực lượng sản xuất biểu hiện giữa con người với tự nhiên trong quá   trình sản xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong  quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: người   lao động  với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất(trước hế là công  cụ lao động) kết hợp với nhau thành lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố  của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng  đầu là người công nhân, người lao động. Chính người lao động là chủ  thể  của quá trình  lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ  năng lao động của   mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào  đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao  động sản xuất, sức mạnh và kỹ  năng lao động của con người này càng   được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ  của con người không ngừng phát triển,  hàm lượng trí tuệ  của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách  mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ  ngày càng đóng vai trò chủ  yếu. Cùng với người lao động công cụ  lao động cũng là một yếu tố  cơ  bản trong lực lượng sản xuất đóng vài trò quyết định trong tư  liệu sản   xuất. Công cụ lao động do con người tạo ra, nó "Nhân" sức mạnh của con   người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ  lao động là yếu tố động  nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với  những phát minh và sáng chế  kỹ  thuật, công cụ  lao động không ngừng  2
  3. Tiểu luận Triết học được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự  cải tiến và hoàn thiện không ngừng  công cụ  lao động đã làm biến đổi toàn bộ  tư  liệu sản xuất. Xét đến cùng   đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ  phát triển của  công cụ lao động là thước đo trình độ  chinh phục tự nhiên của con người,  là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự  phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò  ngày càng to lớn. Sự phát triển khoa học gắn liền với sản xuất và là động  lực mạnh mẽ  thúc đẩy sản xuất phát triển.   Ngày nay, khoa học đã phát   triển đến mức độ  trở  thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to  lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở  thành "lực lượng sản xuất trực   tiếp". Những phát minh khoa học trở  thành điểm xuất phát ra đời những  ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ  mới, nguyên   vật liệu mới, năng lượng mới. Sự  thâm nhập ngày càng sâu của khoa học  vào sản xuất, trở  thành 1 yếu tố  không thể  thiếu được của sản xuất của  sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo  thành cuộc cách mạng khoa học và cách mạng hiện đại. Yếu tố  trí lực  trong sức lao  động đặc trưng cho lao  động hiện  đại không còn là kinh  nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể  nói: khoa học   và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Nước ta từ  trước tới nay nền kinh tế  lấy nông nghiệp là chủ  yếu,  trình độ  khoa học kỹ  thuật kém phát triển. Công cụ  sản xuất của ta vừa  nhỏ, vừa lạc hậu so với trình độ  phát triển chung trên thế  giới. Thực tế  trong nhiều ngành sản xuất thủ  công vẫn là chủ  yếu, lao động thủ  công  chiếm tỉ lệ cao, cơ giới hoá vẫn còn chưa phát triển. Mặt khác, trong 1 thời   gian khá dài, lực lượng sản xuất bị kìm hãm  trong lối suy nghĩ bảo thủ, trì  trệ. Chính bởi vậy, Đại hội Đảng 6 đặt ra nhiệm vụ "Giải phóng mọi năng  lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả  năng tiềm tàng của đất nước, sử  3
  4. Tiểu luận Triết học dụng có hiệu quặ  giúp đỡ  của quốc tế  để  phát triển mạnh mẽ  lực lượng  sản xuất". Chúng ta đang  ở  trong giai đoạn mà cách mạng khoa học kỹ  thuật trên thế  giới phát triển một cách mạnh mẽ, nó đòi hỏi chúng ta tiếp  thu cái mới một cách nhanh chóng để phát triển nguồn lực bên trong. Hiện  nay nước ta đang tiến dần lên với tự động hoá, lực lượng lao động có trình  độ, có khả năng vận hành máy móc, tay nghề thành thạo, được đào tạo căn   bản đang dần tăng lên. Cùng với sự đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, Việt   Nam hy vọng có thể thay đổi căn bản trình độ lực lượng sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất  Quan hệ  sản xuất là quan hệ  giữa người với người trong quá trình  sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể  tách  khỏi cộng đồng nên trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ  với nhau. Vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã  là một vấn đề  có tính quy luật. Nhìn tổng thể, quan hệ  sản xuất gồm 3   mặt. ­ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người  với tư liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai? ­ Quan hệ trong tổ chức quản ly sản xuất, tức là quan hệ giữa người   với người  trong sản xuất và trao  đổi của cải vật chất như: phân công   chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ  giữa người quản lý và  công nhân… ­ Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt   chẽ  giữa sản xuất vsà sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử  dụng  hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách  khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ  thuộc theo ý muốn chủ  quan của con người. Quan hệ  sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất,   4
  5. Tiểu luận Triết học giữa 3 mặt của quan hệ  sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ  thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không   ngừng  của lực lượng sản xuất. Trong 3 mặt của quan hệ  sản xuất, quan hệ sở hữu với tư liệu sản   xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất  trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ  về  tổ  chức quản lý sản xuất,   quah  hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ sản xuất khác (sự phát   triển của nhân loại  đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu   sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình  sở hữu trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít người, còn đại   đa số không có hoặc có rất ít  tư liệu sản xuất. Vì vậy quan hệ giữa người   với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ  thống trị  và bị  trị, bóc lột và bị  bóc lột. Sở  hữu công cộng là loại hình sở  hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng.   Nhờ đó, quan hệ người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác và giúp đỡ  nhau. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình  sản xuất, đến tổ  chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể  thúc đẩy   hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do  quan hệ  sở  hữu quyết định và nó phải thích  ứng với quan hệ  sở  hữu. Tuy  nhiên, cũng có quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở  hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu  tư  liệu sản xuất và quan hệ  tổ  chức quản lý sản xuất chi phối, song nó  kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, tác động đến thái độ của con   người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản   xuất phát triển. 5
  6. Tiểu luận Triết học Ở nước ta vừa tồn tại quan hệ sản xuất mởi của quá trình đi lên chủ  nghĩa xã hội vừa tồn tại quan hệ sản xuất tàn dư  của xã hội cũ. Chúng ta   quan niệm chưa đúng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý  sản xuất và phân phối sản phẩm chưa hợp lý. Điều đó khiến nền kinh tế  nước ta chưa thực sự  phát triển. Muốn phát triển, Đảng và Nhà nước cần   xác định rõ quan hệ  sở  hữu cần thiết của quá trình đổi mới, tổ  chức quản   lý sản xuất (đặc biệt là sự  phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao  động) một cách khoa học, phân phối sản phẩm mở  rộng. Đó chính là xây  dựng một quan hệ sản xuất lý tưởng trong tình hình hiện tại của nước ta. 3. Quy luật quan hệ  sản xuất phải phù hợp với trình độ  phát   triển của lực lượng sản xuất    Lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất là hai mặt của phương   thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau  một cách biện chứng, tạo thành quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản  xuất với trình đọ  phát triển của lực lượng sản xuất. Từ  đó tạo nền quy  luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển sản xuất xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vận chuyển là không ngừng phát  triển. Sự  phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ  sự  biến đổi và phát   triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển  của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ  của lực lượng sản   xuất. Trình độ  lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử  thể  hiện   trình độ  chinh phục thiên nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử  đó.  Trình độ  lực lượng sản xuất biểu hiện  ở  trình độ  của công cụ  lao động,  trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ  tổ chức   và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất. Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm  thay đổi quan hệ  sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản   6
  7. Tiểu luận Triết học xuất mới ra đời thì yêu cầu quan hệ  sản xuất phải phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này tạo điều kiện sử  dụng   và kết hợp một cách tối  ưu giữa người lao động với tư  liệu sản xuất để  lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hoàn thiện. Sự phát triển của lực   lượng đến một mức nhất định sẽ làm quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở  thành không phù hợp với sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này  dẫn đến quan hệ  sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và yêu  cầu khách quan tất yếu là phải thay thế quan hệ sản xuất. Như  Các Mác đã viết; "Tới 1 giai đoạn phát triển nào đó, các lực   lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất   hiện có… trong khi đó từ  trước đến giờ  các lực lượng sản xuất vẫn phát  triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những   quan hệ   ấy trở  thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt  đầu thời đại 1 cuộc cách mạng xã hội" Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản   xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở  lại sự  phát triển của   lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất,  tác động đến thía độ  của con người trong lao động sản xuất, đến tổ  chức  phân công lao động xã hội, đến phát triển và  ứng dụng khoa học công  nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ  sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, ngược   lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ  sản xuất kìm hãm sự phát triển lực lượng   sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ  sản xuất cũ sẽ  được thay thế  bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để  thúc đẩy lực lượng sản xuất phát   triển  Quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất vừa tác động cho nhau lại  vừa mâu thuẫn với nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn này là yêu cầu cần có.   7
  8. Tiểu luận Triết học Nó phải thông qua nhận thức và cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội  có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, quan cách mạng xã hội. II. SỰ  VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG  TA TRONG ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH  TẾ ­ XàHỘI NƯỚC TA TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY Đối với nước ta để  phù hợp giữa lao động sản xuất và quan hệ  sản  xuất, Đảng nêu ra công nghiệp hoá đi đôi hiện đại hoá. Mặt khác chúng ta   phải chú trọng xây dựng và phát triển kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần,   vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, định hướng   xã hội chủ  nghĩa. Đây là 2 nhiệm vụ  thực hiện đồng thời chúng luôn tác   động thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ "Công nghiệp hoá  ­ hiện đại hoá" tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế  độ  xã hội  mới thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường   định hướng xã hội chủ nghĩa chính là xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp   đưa đất nước ta tiến lên từng ngày. 1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành  phần Sau khi độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói   quen lao động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém  phát triển, đời sống xã hội vo cùng khó khăn… Với hoàn cảnh mới đất  nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế  phù hợp, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thời gian qua, chúng đã quá coi trọng  vài trò của quan hệ sản xuất,   cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường san đất, thúc   đẩy lực lượng sản xuất phát triển, quan niệm  ấy là sai lầm, sự  phát triển  của lực lượng sản xuất trong thời gian qua là minh chứng cho điều  ấy và  do đó gây ra sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với   hình thức kinh tế ­ xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta.  8
  9. Tiểu luận Triết học Mối mâu thuẫn ấy đem theo nhiều kết quả ngoài ý muốn: kinh tế kém phát  triển, xã  hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình độ  quản lý yếu kém…  yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng   sản xuất ­ quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của nền   kinh tế  ­ xã hội. Thiết lập quan hệ  sản xuất mới với những bước đi phù  hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất để  thúc đẩy sản xuất   phát triển với hiệu quả  kinh tế  cao. Đó là sự  cho phép phục hồi và phát  triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi, nang cao đời sống xã hội, … Như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu nói: … không chấp nhận Việt Nam   theo con đường chủ  quan của tư  bản nhưng không phải triệt tiêu tư  bản  trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có  lợi. Cho đôi bên và như  vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế  tư  bản là sáng suốt. Hay quan điểm từ  Đại hội Đảng VI cũng khẳng định:   Không những khôi phục thành phần kinh tế  tư  bản tư  nhân và kinh tế  cá   thể mà còn phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà  nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành  phần kinh tế nhà nước trng thời kỳ quá độ. Ngoài ra nền kinh tế  nhiều thành phần này còn được vận hành theo  cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế theo hướng: xoá bỏ cơ chế tập   trung quan liêu bao cấp hình thành cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý  của Nhà nước theo định hướng XHCN khẳng định việc thay đổi quan hệ  sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới được tạo ra bởi nền kinh tế nhiều   thành phần. 9
  10. Tiểu luận Triết học 2. Quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển   của lực lượng sản xuất được vận dụng trong quá trình CNH­ HĐH  đất nước CNH­HĐH được xem xét từ  tư  duy triết học là thuộc phạm trù của  lực lượng sản xuất trong mối quan hệ  biện chứng của phương thức sản   xuất. Muốn CNH­ HĐH đất nước cần phải có tiềm lực về  kinh tế, con   người, trong đó lực lượng lao động là yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài ra   phải có sự  phù hợp giữa quan hệ  sản xuất với trình độ  phát triển của lực   lượng sản xuất. Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ  lao động lại hết sức thô  sơ, lạc hậu, CNH­ HĐH đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng khắc  phục. Đảng ta đã thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền v ới   một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý, và trong thời cơ cũng như thách thức  to lớn hiện nay, đất nước ta đang có rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt   lõi của sự  phát triển cũng vẫn là quy luật quan hệ  sản xuất phải phù hợp  với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu của CNH­HĐH đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã  đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với nó vẫn là những khó khăn,   hạn chế  song tương lai phát triển đất nước vẫn mang nhiều yếu tố  chủ  quan. III. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ­ XàHỘI CỦA   VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 1. Thành tựu đạt được Trong Đại hội Đảng VI (121986) là mốc thời gian quan trọng, đánh  dấu bước chuyển mình phát triển của đất nước ta: xoá bỏ chế  độ  bao cấp  sản phẩm, bãi bỏ  sự cấm đoán phát triển kinh tế  thị trường, sự  phát triển  10
  11. Tiểu luận Triết học yếu  ớt của đời sống xã hội thay thế  bằng sự  hội nhập với thế giới, quan   tâm và chú trọng phát triển đời sống của người dân… Đại hội VII (6/1991), Đại hội VIII (61996), Đại hội IX (4/2001) đã  tiếp tục khẳng định bổ  sung và hoàn thiện các chủ  trương, chính sách đổi  mới kinh tế  ­ xã hội: phát triển nền kinh tế  nhiều thành phần, điều chỉnh  cơ cấu các ngành kinh tế, đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới về  công cụ  lao  động và chính sách quản lý kinh tế ­ xã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả  kinh tế đối ngoại (cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân). Sau 16 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt  được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng. ­ Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ  cao và trong   5 năm đầu đổi mới (86­90), khi chế  độ  bao cấp bị  xoá bỏ  dần, các doanh  nghiệp nhà nước và hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế  tư  nhân và cá thể  chưa phát triển, nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn, bình   quân chỉ  đạt 3,9%/năm (riêng 1986: 0,3%) và lạm phát cao kéo dài. Nhưng   đầu thập kỷ  90, nền kinh tế liên tục tăng trưởng  ổn định và đạt đến đỉnh  cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991 ­ 1995) ta   đã hoàn thành vượt mức vì chỉ tiêu chủ yếu đưa nước ta thực sự thoát khỏi   khủng hoảng kinh tế  ­ xã hội, chuyển sang thời kỳ  đẩy mạnh CNH­HĐH  đất nước. Toàn bộ  các mục tiêu chuyển kế  hoạch 5 năm 1996­2000 và   chiến lược 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này tăng  bình quân 7,56%/năm, GDP năm 2000 gấp 2,07 lần năm 1990. Đến năm  2000­2002 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt ổn định 6,7%; 6,8% và 7,0%. Nông nghiệp phát triển toàn diện cả  trồng trọt và chăn nuôi, nghề  rừng và thuỷ  sản. Sản lượng lương thực tăng nhanh từ  21,5% triệu tấn   (1990) lên 27,5 triệu tấn (1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000), gần 36 triệu   tấn (năm 2002), bình quân mỗi năm tăng 1,4% triệu tấn. Tốc độ tăng lương  11
  12. Tiểu luận Triết học thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ  tăng dân số  (1,8%) nên sản lượng   lương thực bình quân đầu người  tăng từ 304 kg (1985) lên 364 Kg (1995);  4448 Kg (2000) và 450 Kg (2002). Việt Nam từ một nước thiếu lương thực   đến 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Sở dĩ nông nghiệp  tăng nhanh là nhờ  những đổi mới trong cơ  chế  chính sách quản lý nông  nghiệp: nhân dân được giao ruộng đất để  sử  dụng lâu dài, phát triển trang   trại, khuyến khích khai hoang mở  rộng diện tích canh tác, nâng cao năng   suất cây trồng. Những thành tựu trên mặt trận lương thực đã góp phần   quan trọng vào sự ổn định đời sống nhân dân. Trong 10 năm 1991­ 2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng  7,6%, cao su tăng 12,4%, cà phê tăng 17,7%, rau quả  tăng 10,8%, hạt tiêu   24,8%, hạt điều tăng 37,5%. Tổng giá trị  nông sản xuất khẩu chiếm 40%  tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành   phần gắn với thị trường quốc tế. Công nghiệp tăng liên tục, bình quân trong thời kỳ  1991­1995 tăng  13,7%; 1996­2000 tăng 13,2%. Công nghiệp tăng nhanh là do đầu tư  lớn  của nhà nước trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như  dầu khí, điện, xi măng, thép, giấy, đường.. nhưng quan trọng hơn là có sự  đổi mới cơ  chế, chính sách quản lý của nhà nước, xóa bỏ  bao cấp, nhận   vốn đầu tư nước ngoài. Hệ thống đường giao thông, bưu điện xây dựng mới và nâng cấp trên  khắp mọi miền của tổ  quốc: quốc lộ  1A, 5, 18, sân bay, bến cảng được   nâng cấp và xây dựng, thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc. ­ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu v ực   I (Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (Công nghiệ ­ xây   dựng) và khu vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã  12
  13. Tiểu luận Triết học sang đa thành phần và chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế  trọng  điểm ở 3 miền Bắc ­Trung ­ Nam. ­ Đẩy lùi lạm phát: 1986: 774,7%; 1990: 67,4%; 1994L 12,7%; 1997:  3,7%; 1999: 0,1%. ­ Kinh tế  đối ngoại phát triển nhanh: Xuất khẩu: kim ngạch xuất   khẩu năm 1996: 822,9 triệu USD; năm 2001: 15,027 tỉ  USD. Nhập khẩu:  2,16 tỉ USD (1986); 16,16 tỉ USD (2001). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ nét:  lao động có việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo 1,3 triệu việc làm mới, thu  nhập bình quân đầu người đạt gần 400 USD/năm. Số  hộ giàu tăng > 10%;  số hộ nghèo giảm từ 55% (1989) xuống 11,4% (2000). Nhờ  những thành tựu tăng trưởng  ổn định hoá kinh tế, tình hình xã  hội đã được cải thiện rất nhiều. Tỉ lệ tăng dân số  tự nhiên giảm mỗi năm   1%  và giữ  mức bình quân 2,1%/năm, giảm so với thời kì  trước  (2,3%)   nhưng vẫn cao hơn mục tiêu đề  ra (1,9%). Số người đi học bình quân tính  trên 1 vạn dân, tăng từ 1834 người (1990) tăng lên 2171 (1995). Tỉ trọng cho các lĩnh vực xã hội chiếm từ 24,4 ­ 28,4% tổng ngân sách   nhà nước và có xu hướng tăng lên. Hệ thống y tế được cải thiện, đặc biệt  là hệ thống bảo hiểm y tế. Tình   hình   nông   thôn   được   cải   thiện   thêm   một   bước.   Có   khoảng  60,2% số  xã có điện, 86,4% số  xã có đường ô tô, 91,6% xa có trạm xá và  97,7% số xã có trường tiểu học; 76,2% số xã có trường PTCS. Những thành tựu đạt được là kết quả  của con đường đổi mới do  Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy   luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  lực lượng sản xuất để  phát  triển kinh tế ­ xã hội này. Ngoài ra, cũng không thể  không kể  đến một số  nguyên nhân khách  quan quan trọng, đó là: 13
  14. Tiểu luận Triết học ­ Quá trình CNH­HĐH ở  Việt Nam được tiến hành muộn, đi sau các   nước phương tây và một số nước châu Á. Do bắt đầu muộn nên Việt Nam   có thể  học hỏi được nhiều kinh nghiệm, cả  kinh nghiệm thành công lẫn  không thành công của các nước đi trước, để trên cơ sở đó, rút ra bài học bổ  ích cho cách đi riêng của bản thân mình. ­ Trong quá trình CNH­HĐH, Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội đi tắt  đón đầu bằng việc nhập các thiết bị kĩ thuật tiên tiến để đổi mới thiết bị kĩ   thuật đã lạc hậu. ­ Quá trình CNH­HĐH ở Việt Nam được tiến hành trong môi trường   hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế. Nhờ vậy, nước ta mở  rộng quan hệ  bạn bè và hợp tác với nhiều nước nhằm tranh thủ  sự  viện   trợ, giúp đỡ  của các nước trên thế  giới. Đồng thời xu hướng quốc tế  hoá   đời sống kinh tế thế giới đã tạo điều kiện và thời cơ cho Việt Nam có thể  sử  dụng khoa học, công nghệ  mới, nguồn vốn của các nước giàu vào sự  nghiệp CNH­HĐH, trên cơ  sở  đó, tham gia vào quá trình phân công và hợp   tác quốc tế. Có   thể  nói,  môi  trường  quốc  tế  và  xu  hướng  phát  triển  mới  của  thếgiới đang tạo tiền đề  bên ngoài thuận lợi cho quá trình CNH­HĐH  ở  Việt Nam. Việc Việt Nam gia nhập các tổ  chức quốc tế  như  ASEAN,   OPEC, việc quốc hội Mĩ thông qua hiệp dịnh thương mại Việt ­ Mỹ  gần   đây… là những bằng chứng khẳng định điều đó. 2. Hạn chế Do nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp chủ yếu vẫn là nông   nghiệp, công nghiệp còn nhỏ  bém, kết cấu hạ  tầng kém phát triển, cơ  sở  vật chất kỹ  thuật chưa xác định được nhiều. Mặc dù cơ  cấu các ngành   GDP có chuyển dịch rõ rệt những cơ  hội nhưng cơ  cấu lao động chậm  biến đổi. Hiện nay hơn 75% dân số  vẫn sống  ở  nông thôn, lao động nông   nghiệp vẫn chiếm > 60% tổng số lao động xã hội. 14
  15. Tiểu luận Triết học Nền kinh tế  có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng   hiệu quả còn thấp. Đất nước Việt Nam vẫn thuộc 20 nước nghèo nhất thế  giới. Đây là thách thức cực kỳ  to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để  giải  quyết. Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế  ­ xã hội còn yếu:   khả năng kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ  chi, tỉ lệ bội chi ngân sách còn cao. Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương   còn nặng và phổ biến. Nạn buôn lậu và tệ quan liêu được coi là quốc nạn,   được đưa vào chương trình nghị  sự  quan trọng hàng đầu của Việt Nam.   Song hiện vẫn chưa khắc phục được, thậm chí còn có phần nghiêm trọng  hơn. Ngoài ra, sự  thiếu hụt nguồn lực tài nguyên và nạn ô nhiễm môi  trường cũng gây khó khăn cho quá trình CNH­HĐH  ở  nước ta. Hạn chế  trong nền kinh tế  ­ xã hội nước ta còn nhiều. Nhưng nguyên nhân của  những yếu kém đó là do hậu quả  của nhiều năm trước để  lại khi không  hiểu rõ mối quan hệ  biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản  xuất, sự phù hợp mang tính tất yếu của chúng, đồng thời những bất lợi của   tình hình thế giới hiện nay và những khuyết điểm còn mang tính chủ quan  duy ý chí trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ta, tạo  ra một đội ngũ cán bộ  hạn chế  về  trình độ, thiếu sự  năng động trong làm  ăn và quản lý kinh tế. 15
  16. Tiểu luận Triết học PHẦN KẾT LUẬN Quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực  lượng sản xuất là quy luật phổ  biến trong toàn bộ  tiến trình lịch sử  của  nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ  chế  độ  công xã  nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kién và đến xã hội  cộng sản là do sự tác dộng của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy   luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản   xuất là quy luật cơ bản nhất. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải hiểu và vận dụng tốt  quy luật này để  phát triển kinh tế. Trên thực tế  không thể  có sự  phù hợp   tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Song phải tuỳ theo   tình hình thực tế  mà chọn giải pháp phù hợp. Sự  vận dụng đúng đắn của   Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu vô cùng to lớn cho nền kinh tế ­ xã   hội nước ta ta hoàn thành tốt mục tiêu CNH­HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn   chế, yếu kém còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực hết sức, phát huy mọi  tiềm năng vốn có để khắc phục. Chỉ  tính từ  đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước chuyển  mình lớn lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận thức và vận   dụng kịp thời quy luật về sự phù hợp quan hệ  sản xuất và lực lượng sản  xuất, mở ra con đường đầy hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước. Trong  tương lai, chúng ta sẽ là những người gánh vác nhiệm vụ xây dựng và phát  triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn  mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, như  quan điểm triết học Macxit thì đó là quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 16
  17. Tiểu luận Triết học DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Triết học Mác ­ Lênin NXB Chính trị Quốc gia 2. Giáo trình Lịch sử kinh tế 3. Văn kiện Đại hội Đảng 4. Một số bài báo, bài luận khác. 17
  18. Tiểu luận Triết học MỤC LỤC 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1