intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 94

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

48
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình hội nhập ở Việt Nam, kinh tế độc lập tự chủ,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 94

  1. MỤC  LỤC: TT Trang I Mở đầu 1 II Nội dung 3 Chương 1: Nguyên lý về  mối liên hệ  phổ  biến trong phép biện   3 chứng duy vật 1.1 Các định nghĩa 3 1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế 6 Chương 2: Mối liên hệ  giữa xây dựng nền kinh tế  độc lập tự  6 chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ 6 2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 8 2.3 Mối quan hệ  biện chứng giữa xây dựng kinh tế  độc lập tự  chủ  8 với hội nhập kinh tế quốc tế 2.4 Những lợi ích và hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế  11 2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam  12 2.5. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập 12 1 2.5. Quá trình hội nhập ở Việt Nam  14 2 2.5. Những lợi ích và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập 15 3 2.5. Một số ý kiến và giải pháp cho quá trình hội nhập ở Việt Nam  16 4 III. Kết luận 1
  2. I. Mở Đầu Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một  xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể  các  nước đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó  quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ  mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang   lại kết quả  xấu. Để  có thể  tranh thủ  các nguồn lực từ  bên ngoài đặc biệt là   nguồn vốn, tiến bộ  khoa học công nghệ... đòi hỏi các nước phải có sự  mở  cửa, sự  giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế  giới mà đặc biệt là  các nước tư  bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế  quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự  chủ  trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên  thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có lí  do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ  một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn thấp kém, năng  suất  lao động còn chưa  cao, sức  cạnh tranh về  các loại hàng hoá trên thị  trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi  mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ  dẫn đến tình trạng các nước  kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về  kinh tế  có thể  bị  lệ  thuộc về  chính trị  dẫn tới không giữ  vững được chủ  quyền. Thực tế  ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế  giới đã bị  lệ  thuộc quá nhiều vào các nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển  kinh tế đều bị các nước tư bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước   Cuba có một thời gian đã bi phụ  thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước  trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ thuật của nước này lại thấp kém cho nên  để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời  cơ  này Mĩ đã tìm mọi cách để  gây áp lực về  kinh tế  đối với Cuba và buộc   2
  3. Cuba phải lệ  thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm được quyền chi phối về  kinh tế cũng như chính trị ở Cuba. Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội  trên thế giới.  Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so   với các nước khác vì vậy chúng ta phải chủ  động tham gia hội nhập kinh tế  gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.  Đảng và nhà nước ta   đã xác định độc lập tự chủ  kinh tế  là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự  bền vững của đất nước ta về chính trị . Chính vì việc hội nhập kinh tế  quốc tế  hiện nay  đang là một vấn đề  nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả  các quốc gia trên thế  giới   trong đó có cả  nước ta. Vì vậy đề  tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng  quan trọng đối với các nước trên thế  giới trong việc đề  ra các đường lối,   chính sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán với nước ngoài. Vì lí do nay tôi đã  quyết định chọn đề  tài "Mối quan hệ  biện chứng giữa hội nhập kinh tế  với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ" với hy vọng bài tiểu luận này sẽ  góp  một phần nhỏ vào công việc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng giàu  mạnh .  Trong quá trình viết bài tiểu luận tôi đã nhận được sự chỉ dẫn nhiệt tình của  TS Mai Xuân Hợi.  Tôi xin chân thành cảm ơn.         3
  4. II. Nội dung   Chương 1:   Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến  trong phép biện chứng duy vật 1.1. Các định nghĩa: Phép biện chứng là khoa học về  mối liên hệ  phổ  biến, nó chẳng qua là  bộ  môn khoa học nghiên cứu  những  quy luật vận  động phát triển của tự  nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện  tượng của thế giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận   động, phát triển theo quy luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ  phải  chỉ  ra những quy luật đó để  định hướng cho con người trong nhiệm vụ  thực   tiễn. Phép biện chứng có ba hình thức cơ  bản trong quá trình phát triển của  triết học đó là: Phép biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm, phép biện  chứng duy vật .         Thời cổ đại, do trình độ  tư  duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát  triển nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác, vào cái nhìn trực tiếp để xem  4
  5. xét mọi vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà  nó đã bị phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế. Phép biện  chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ  và hoàn thiện trong triết học  của Hêghen. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen được thể  hiện  ở  chỗ: Ông coi ý niệm tuyệt đối có trước và trong quá trình vận động   phát triển cuối cùng nó lại trở về với chính mình trong tinh thần. Kế  thừa có  chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó Mác và Anghen đã  sáng lập ra chủ  nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng.   Phép biện  chứng duy vật  được  xây dựng trên cơ  sở  một hệ  thống những nguyên lí,  những phạm trù cơ  sở, những quy luật phổ  biến phản ánh đúng đắn hiện  thực. Trong hệ  thống  đó nguyên lí về  mối liên hệ  phổ  biến là một trong  những nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là khái niệm đúng để chỉ  sự  ràng buộc, nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của các sự  vật hiện  tượng trong thế  giới khách quan. Trong thực tế  người ta luôn đặt ra các câu  hỏi các sự  vật hiện tượng có mối quan hệ  tác động qua lại với nhau hay  không? Những người  theo quan  điểm siêu hình cho rằng các sự  vật, hiện   tượng tồn tại trong trạng thái độc lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh  cái kia. Nếu giữa chúng có mối quan hệ thì cũng chỉ là mối liên hệ  bên ngoài.  Còn những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự  vật, hiện   tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa qui định tác động qua  lại chuyển hoá lẫn nhau. Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự  vật   hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến.  Sự vật là tiền đề, là điều   kiện tồn tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển  hoá lẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà  bao giờ  cũng có lớp trung gian chuyển tiếp. Mối liên hệ  phổ  biến không chỉ  diễn ra giữa các sự  vật khác nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự  vật  và đều là khách quan. Mặc dù sự vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến  với nhiều mối liên hệ  khác nhau nhưng vị  trí, vai trò của từng mối liên hệ  không giống nhau trong tổng số mối liên hệ về sự vật, trong đó có mối liên hệ  giữ vai trò quyết định đén sự tồn tại, vận động biến đổi  của sự vật như mối   5
  6. liên hệ bên trong, bản chất ....  Còn những mối liên hệ khác chỉ có những ảnh  hưởng nhất định.   Tuy vậy mọi mối liên hệ  của các sự  vật hiện tượng là khách quan, là  vốn có của mọi sự  vật, hiện tượng. Ngay cả  những vật vô tri vô giác cũng   đang hàng ngày chịu sự  tác động của các sự  vật, hiện tượng khác như: ánh  sáng, nhiệt độ, độ  ẩm..... và đôi khi cũng chịu sự  tác động của con người. Con  người ­ một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên luôn chịu sự  tác động  của các sự  vật, hiện tượng trong giới tự  nhiên và ngay cả  các yếu tố  trong  chính bản thân nó. Ngoài sự  tác động của tự  nhiên như  các sự  vật khác còn  tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người khác. Chính con người  và chỉ có con người mới có thể tiếp nhận vô vàn mối quan hệ đó. Vấn đề  là  con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của  mình giải quyết các mối liên hệ  phù hợp nhằm phục vụ  nhu cầu lợi ích của  xã hội và của bản thân. Mối liên hệ  không chỉ  mang tính khách quan mà còn   mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: thứ  nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.  Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày  nay không một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ  với quốc gia khác về  mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế  hiện nay trên thế  giới đã và đang  xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội.   Nhiều vấn đề  đã và đang trở  thành vấn đề  toàn cầu   như: đói nghèo, bệnh  tật .... Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể  tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng  chỉ là biểu hiện của mối liên hệ  phổ  biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối  liên hệ  của các sự  vật, hiện tượng trên thế  giới ta còn thấy rõ tính đa dạng,  nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ  khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối  liên hệ  chủ  yếu và thứ  yếu.... Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và  phát triển bản thân sự vật, hiện tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ.  6
  7. Vì vậy trong một   sự  vật có thể  bao gồm rất nhiều mối liên hệ  chứ  không   phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc  trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ  thể các mối liên hệ  tương  ứng sẽ  giữ  vai trò quyết định. Sự  phân chia từng cặp mối liên hệ  chỉ  mang  tính tương đối  vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của   mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá   lẫn nhau tuỳ  theo phạm vi bao quát của mối liên hệ  hoặc do kết quả của sự  vận động và phát triển của chính các sự  vật. Tuy sự phân chia thành các loại  mối liên hệ  chỉ  mang tính tương đối nhưng sự  phân chia đó lại rất cần thiết  bởi vì mỗi loại mối liên hệ  có vị  trí và vai trò xác định trong sự  vận động và  phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có  cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của  mình. Từ  nội dung của mối liên hệ  phổ  biến bất cứ  sự  vật, hiện tượng nào  trong thế  giới đều tồn tại trong mối liên hệ  với các sự  vật, hiện tượng khác  và mối liên hệ  rất đa dạng phong phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng  như  trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh  quan điểm phiến diện, chỉ  xét sự  vật, hiện tượng  ở  một mối liên hệ  đã vội  vàng kết luận về  bản chất hay về  tính qui luật của chúng. Quan điểm toàn   diện đòi hỏi khi ngiên cứu phải xem xét sự  vật, phải xem xét tất cả  các mối   quan hệ vốn có của nó nhưng không được đặt các mối quan hệ có vị trí vai trò   như  nhau. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ  bản chất tất   yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về  sự vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng  ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ  nội tại của chúng mà còn  phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển   hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết  sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm  đem lại hiệu quả  cao nhất. Với tư  cách là những nguyên tắc phương pháp  luận quan điểm toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức  và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện   7
  8. đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương   pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động thực tiễn. 1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu  phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế  giới không thể  tự  mình xây dựng được một nền kịnh tế  phát triển bất kể  nước ấy giầu hay nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang  phát triển. Nền kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa  học học kỹ thuật còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn  bán với các nước  trên thế  giới là một vấn đề  cần thiết và mang tính tất yếu   trong giai đoạn hiện nay.  Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của  nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở  rộng  quan hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế.  Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ  động hội nhập   kinh tế  quốc tế  và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao   hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ  nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo  vệ  môi trường". Chương 2: 8
  9. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ  với hội nhập kinh tế quốc tế 2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ: Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự  chủ  về  kinh tế, nhiều người   thường hình dung tới một nền kinh tế  khép kín, tự  cung, tự  cấp. Trong điều   kiện hiện nay đọc lập tự  chủ  về  kinh tế  phải là độc lập, tự  chủ  trong phát   triển kinh tế thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh   tế  thế  giới, tích cực tham gia vào sự  giao lưu, hợp tác, phân công lao động  quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để  cạnh   tranh có hiệu quả  trên thương trường quốc tế. Do vậy độc lập tự  chủ  trong   điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: trước hết và quan trọng nhất là phải  đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất có thể được. Có thể  có một nền kinh tế  không phụ  thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự  đảm bảo   được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các mối quan hệ giữa nước đó với các  nước trên thế  giới phải được xem xét đánh giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo  được lợi ích phát triển của đất nước không? Đó mới là mục tiêu cho mọi   chiến lược phát trển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế  tiến triển như hiện   nay mọi nền kinh tế ngày càng có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các nước khác.   Nếu sự ràng buộc đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì đó là  một điều nên làm. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày càng mở  rộng, giao lưu với các nước khác; kim ngạch xuất khẩu của ta năm 1999   chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư  nước ngoài chiếm 28% tổng đầu tư  xã   hội. Đặc trưng thứ  hai của nền kinh tế  độc lập tự  chủ  đó là sức cạnh tranh  của nền kinh tế  phải được cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này được   thể hiện ở các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra   một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng   sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có  khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ  9
  10. cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức mạnh trên  thị trường. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở  chất  lượng, giá thành sản phẩm và dịch vụ  của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch   vụ  của một quốc gia có giá thành cao, chất lượng lại thấp thì nó sẽ  khó tiêu  thụ và kết cục là gây suy thoái nền kinh tế. Trong điều kiện đó khó có thể nói   đến độc lập và tự  chủ. Còn một nền kinh tế  làm ra các sản phẩm có chất   lượng cao, giá thành thấp thì có thể chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc  tế tạo ra thu nhập lớn. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong   điều kiện hội nhập kinh tế  hiện nay là một nền kinh tế  có tính độc lập, tự  chủ cao. Đặc trưng thứ ba của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là khả năng ứng  phó có hiệu qủa với những chấn động chính trị, kinh tế, xã hội bên ngoài.   Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng hoảng… Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc  chiến tranh  ở  bên ngoài và tránh để  xảy ra xung đột và chiến tranh  ở  trong  nước. Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn sẽ  có sức chịu đựng lớn so với nền kinh tế  lạc hậu. Một nền kinh tế hội nhập   quốc tế cao lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ  với lợi ích của nhiều quốc gia   khác, nhiều trung tâm kinh tế thì sẽ có nhiều khả năng kết sức mạnh quốc gia   với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn. 2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: Các nguyên tắc hội nhập kinh tế  quốc tế  nói cung và WTO nêu ra là   không phân biệt đối xử, tiếp cận thị  trưởng, cạnh tranh công bằng, áp dụng  các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước  đang và chậm phát triển. Nội dung của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường,   tạo điều kiện thuận lợi để tự do buôn bán, phát triển. Về  thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ  hàng rào phi thuế  quan như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở  cửa   thị trường cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử  dụng dịch   vụ ngoài lãnh thổ, thông qua doanh nhâ, hiện diện thể nhân,… 10
  11. Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu  cầu về  tỷ  lệ  nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế  tiếp cận nguồn  ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các  nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện. 2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự  chủ và hội nhập kinh tế. Trong xu thế  toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau   về kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọn đến khả  năng độc lập tự  chủ  về  kinh tế  nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc  gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để  xác lập một vị  thế chính trị nhất định trên trường quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng   với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng   hợp của một quốc gia. Độc lập tự  chủ  vè kinh tế  trước hết là không bị  chi   phối lệ  thuộc vào bên ngoài về  đường lối, chính sách phát triển kinh tế  vào  những điều kiện kinh tế  chính trị  mà họ  muốn áp đặt cho ta trong trợ  giúp,  hợp tác song phương, đa phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho  chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế  cũng có nghĩa là trước những chấn động của thị  trường, của khủng hoảng   kinh tế  ­ tài chính, cũng như  trước sự  bao vây, cô lập từ  bên ngoài vẫn giữ  được sự ổn định và phát triển cần thiết, không bị sụp đổ về kinh tế, chính trị.  Khác với  trước   đây khi  nói  đến  độc lập tự  chủ  về  kinh tế, nhiều người   thường hình dung tới một nền kinh tế  khép kín, tự  cung tự  cấp. Trong điều  kiện hiện nay độc lập tự  chủ  về  kinh tế  phải là độc lập tự  chủ  trong phát   triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế  giới, tích cực tham gia vào sự  giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế  trên cơ  sở  phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế  so sánh của quốc gia để  cạnh   tranh có hiệu qủa trên trường quốc tế. Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự  cung, tự cấp đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chứng minh là  11
  12. không phù hợp với xu thế  của thời đại, và làm cho đất nước ngày càng tụt   hậu xa hơn. Đến tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục  sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với   trật tự, an toàn xã hội và điều đó cuối cùng sẽ  gây cho quốc gia đó khó giữ  vững được con đường và mô hình phát triển đã lựa chọn. Trong vài chục năm   gần đây, tình hình thế  giới cũng có rất nhiều biến đổi quan trọng theo các  hướng chủ yếu sau đây: một là xu thế  hoà bình, hợp tác và phát triển, xu thế  này càng ngày càng trở  thành xu thế  chính thay thế  cho sự  đối đầu giữa các   siêu cường, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập,  các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị  lên án khắp nơi. Đây chính là điều kiện   quan trọng giúp cho các quốc gia có thể mở  cửa đất nước tham gia hội nhập   kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế. Mô hình kinh tế phát triển trong xu thế  hoà bình đang thay thế cho mô hình kinh tế trong tình trạng đối đầu và chiến  tranh lạnh. Hai là xu thế phát triển công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh   tế  tri thức. Trong những thập niên vừa qua sự  phát triển của công nghệ  đang   chuyển  đổi  sang nền kinh tế  vô  cùng lớn. Các  ngành công nghiệp truyền  thống, sản xuất ra các hàng hoá vật chất, kể cả các ngành công nghiệp nặng  đang ngày càng kém hiệu quả  mất dần vai trò quan trọng của chúng với phát  triển kinh tế. Trên thực tế trogn mấy năm gần đây các sản phẩm đã liên tục bị  giảm giá, đã giảm tới trên 30% giá do vậy những ngành này đang gặp nhiều   khó khăn. Trong khi đó các ngành kinh tế  tri thức lại phát triển với tốc độ  cao và  đạt nhiều hiệu qủa. Trong  điều kiện hiện nay, các lợi thế  về  tài nguyên,  nguồn vốn, lao động… ngày càng giảm và lợi thế về tri thức và kỹ năng ngày  càng  tăng.  ở  Mỹ  tỷ  lệ  đóng góp của ngành sản xuất điện tử  ­ tin học làm tăng   trưởng kinh tế lên tới 45% trong 3 năm qua còn mức đóng góp của ngành xây   dựng và xe hơn vốn là ngành trụ cột của kinh tế Mỹ lại giảm chỉ còn 14% và   4%.  Lợi nhuận của hãng Intel, Microsoft đạt mức 24% doanh thu kéo dài trong  khi các ngành công nghiệp truyền thống chỉ đạt ở mức trên 10%. 12
  13. Xu hướng thứ  ba là xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế  quốc tế  phát triển nhanh chóng. Trong điều kiện nền kinh tế  thế  giới phát triển và  những đặc trưng chủ yếu trên mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập  kinh tế quốc tế là căn cứ để phát triển các ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh   cao. Đương nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối quan hệ biện  chứng với độc lập tự chủ. Độc lập tự  chủ  trong mô hình kinh tế  theo hướng   hội nhập quốc tế  chấp nhận sự  phụ  thuộc lẫn nhau trên cơ  sở  cùng có lợi  trong quan hệ  giữa các quốc gia. Sự  phụ  thuộc này diễn ra trên hầu hết các   lĩnh vực từ  hoạch định chính sách phát triển,… ví dụ  như  trong Liên minh  Châu Âu, hiện đã có đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm  duy trì một mức thâm hụt ngân sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế  này các quốc gia tuy vẫn có quyền tự chủ, quyền tự chọn các ngành kinh tế có   lợi cho mình. Thực tế cho thấy ngay các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp  nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách  đáng sợ. Nhật phải nhập 100% dầu mỏ để  có ngành hoá dầu và năng lượng   điện, nhập khẩu phần quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn   bằng phát minh sáng chế  để  có ngành công nghiệp chế  tạo,… Nếu có chiến   tranh xảy ra, các hoạt động nhập khẩu này chỉ  bị  ngừng trệ  một thời gian   ngắn thôi thì các ngành công nghiệp sẽ hoàn toàn bị tê liệt và nền kinh tế Nhật  khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ  sự  phụ  thuộc này, nước Nhật sẽ  không thể  phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật lại xuất khẩu  ô tô, hàng điện tử  và   những loại hàng chất lượng cao khác buộc các quốc gia khác phải lệ  thuộc   vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau làm cho  kinh tế  Nhật có thể  đứng vững ngay cả  trong cuộc khủng hoảng dầu lửa   những năm 70. Song cũng cần phải nói rằng trong qúa trình hội nhập kinh tế cần phải   tránh sự  lệ  thuộc quá nhiều vào các nước. Đây là một vấn đề  đã xảy ra với  một số nước, nhất là các nước kém phát triển. Do trình độ khoa học, nền sản   xuất nước này còn chậm phát triển nên đã bị  lệ  thuộc hoàn toàn vào tư  bản   nước ngoài kể cả về kinh tế lẫn chính trị. 13
  14. Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc  tế  cần phải phát huy tính độc lập tự  chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế,   phải lấy nội lực của nền kinh tế làm yếu tố quyết định sự phát triển của nền  kinh tế, còn những yếu tố bên ngoài chỉ là quan trọng. 2.4 Những lợi ích, hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế: Như chúng ta đã phân tích hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách  quan, nó có những tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế của mỗi quốc  gia. Hội nhập kinh tế thúc đẩy sự  phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản   xuất, đem lại sự  tăng trưởng kinh tế  cao. Nó làm tăng nhanh tổng sản lượng  thế giới: ngày nay tổng sản phẩn thể giới  ước tính khoảng 30.000 tỷ úD gấp  khoảng 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào những năm trước đây. Theo đó sự  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  toàn cầu cũng có những thay đổi cơ  bản. Nếu  những năm 60, nông lâm thủy sản chiếm 10,4% , công nghiệp chiếm 28,1% và  dịch vụ  chiếm 50,4% thì cho tới nay cơ  cấu tương  ứng là 4,4%; 21,4% và   62,4%. Bên cạnh đó sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ  ngày càng tăng với tốc độ  tăng trưởng cao hơn nhiều tốc độ  tăng trưởng sản   xuất. Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng kết nối các vùng địa  lý trên trái đất vào một hệt hống góp phần tác động có hiệu quả vào phát triển  kinh tế  xã hội. Mặt khác, toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự  do hoá thương   mại; làm làm hoặc huỷ bỏ các hàng rào thương mại làm cho hàng hoá của mỗi   nước có thị  trường tiêu thụ  quốc tế  rộng hơn do đó kích thích sản xuất phát  triển. Nhờ  đó thúc đẩy phân công lao động quốc tế, theo hướng chuyên môn  hoá làm cho nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng có hiệu quả  hơn. Tự  do hoá thương  mại  đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành  những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát  huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro trong cuộc cạnh tranh quốc tế. Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết qủa như nhau  đối với các nước lớn. Nhìn chung các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế  14
  15. họ đã phát triển cao, khả năng cạnh tranh lớn. Mặt khác, hội nhập kinh tế làm  gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ. Nó củng cố  và tăng cường  các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Bên cạnh   đó ta cũng không thể không nói đến mặt trái của việc hội nhập kinh tế gây ra.  Song song với việc hội nhập kinh tế  thì khoảng cách giầu nghèo giữa các  nước ngày càng tăng. Các mối lợi thu được từ toàn cầu hoá kinh tế được phân  phối   không   đều   và   không   công   bằng.   Các   quốc   gia   phát   triển   có   lợi   thế  thường thu lợi nhiều trong kinh tế. Sự bất bình đẳng ngày càng tăng. Dân số ở  một số nơi còn có mức sống thấp hơn trước. Toàn thế  giới hiện nay vẫn còn  hơn 1 tỷ người nghèo. Các nước phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm 86%  GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài  trong khi đó các nước nghèo nhất với 1/5 dân số  thế  giới chỉ tạo ra được 1%  GDP thế giới. Mặt khác, hội nhập kinh tế còn tạo nên sự  thách thức mới đối   với nền độc lập chủ  quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực Nhà nước, dân  tộc. Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các   quốc gia bị giảm dần,… Hội nhập còn làm cho nhiều hoạt động và đời sống   của con người trở  nên kém an toàn, từ  an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã  hội, môi trường đến an toàn chính trị. Cuộc khủng hoảng tài chính ở  Đông á   1997 ­ 1998 đã  ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước  này. Lạm phát và thất nghiệp gia tăng, nền sản xuất phải cơ cấu lại, tệ nạn   xã hội ngày càng tràn lan: nghiện hút, mại dâm… Tuy trong quá trình hội nhập  kinh tế  ta đã tiếp thu được nhiều tinh hoa văn hoá trên thế  giới song cũng  chính trong quá trình thâm nhập văn hoá ngày càng làm cho những giá trị  văn  hoá riêng, truyền thống của mỗi nước bị xói mòn, huỷ  hoại, bởi vậy vấn đề  cần đặt ra là hội nhập nhưng không để hoà tan, không để đánh mất đi bản sắc   văn hoá dân tộc. Tuy cũng có nhiều hạn chế  song ta cũng cần phải khẳng định rằng   trong quá trình hội nhập kinh tế thì thành tựu là chủ yếu, mặt hạn chế chỉ là một  phần nhỏ. 15
  16. 2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam: 2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập: Việt Nam ta hiện nay đang trong quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế,  chúng ta đã và đang tham gia các tổ chức, các hiệp hội trên thế giới. Chúng ta  đã đề ra quan điểm: “Việt Nam không những là bạn mà còn là đối tác của tất   cả  các nước trên thế  giới”. Quan điểm đó xuất phát từ  những thành tựu mà   nước ta đạt được trong những năm gần đây đồng thời cũng từ  những điều  kiện, hoàn cảnh kinh tế của nước ta. Nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm  thành công cho việc hội nhập kinh tế   ở  nước ta đó là giữ  vững và phát huy   tinh thần độc lập tự  chủ. Đảng ta quan niệm độc lập tự  chủ  không phải là  biệt lập, không phải là đóng kín. Trong hoạt động đối ngoại cần phải có tư  duy độc lập, biện chứng biết tiếp thu kinh nghiệm của các dân tộc, ứng dụng  phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước và tự  quyết định chủ  trương,  hành động của mình. Chính sự  đánh giá, dự  báo chính xác chiều hướng phát  triển của thế giới để có chính sách kịp thời đã góp phần làm nên thắng lợi của   công tác đối ngoại. Ngày nay trong xu thế  toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ  với tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực, chúng ta cần phải giữ vững độc  lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc thì mới có thể vượt qua thử thách, giành   lấy thời cơ, tranh thủ  mức cao nhất mặt tích cực của hội nhập kinh tế, tạo   điều kiện đưa đất nước tiến kịp với sự phát triển của khu vực và thế giới. Do   vậy độc lập tự  chủ  là cơ  sở  để  thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa  phương hoá, đa dạng hoá. Nên Đại hội IX của Đảng không những vẫn tiếp   tục xác định Việt Nam là bạn mà còn bổ sung Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin  cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế và chủ động hội nhập quốc tế. Xuất phát từ  mục tiêu bảo vệ  chủ  quyền dân tộc, chủ  động hội nhập  quốc tế và khu vực trong hoạt động đối ngoại Việt Nam sẵn sàng gác lại quá  khứ, hướng tới tương lai, thiết lập quan hệ  bình thường với các nước trên   nguyên tắc   tôn trọng độc lập   chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ  của nhau,   không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, vì sự  nghiệp phát triển của mỗi nước. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại  16
  17. với 168 nước trên thế giới, quan hệ với gần 500 tổ chức phi chính phủ  nước   ngoài trong đó có 380 tổ chức có dự  án hoạt động  ở  Việt Nam. Đảng và nhà   nước ta đã đề ra một số quan điểm, đường lối trong quá trình hội  nhập : Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội  nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế  của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.  Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa  có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh   hoạt trong việc xử lý hai mặt của hội nhập, tuỳ theo đối tượng, vừa đề phòng   tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.  Nhận thức đầy đủ  đặc điểm nền kinh tế  nước ta, từ đó Đảng và Nhà  nước ta đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển   của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của tổ chức kinh tế quốc tế mà nước  ta tham gia; tranh thủ những  ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các  nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị  trường.  Kết hợp chặt chẽ quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ  vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để  tăng cường sức mạnh tổng  hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác   với những mưu toan thông qua hội nhập để  thực hiện ý đồ  “diễn biến hoà  bình” đối với nước ta. Từ  mục tiêu và quan điểm chỉ  đạo quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế,   nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là :  Phải tiến hành rộng rãi công tác tư tương, tuyên truyền, giải thích trong  các tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng   lớp nhân dân để  đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán   về Hội nhập kinh tế quốc tế.   Phải căn cứ vào nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh   tế – xã hội 2001 – 2010, cũng như các quy định của các tổ  chức kinh tế quốc  tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập mà một lộ  17
  18. trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp   xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả  và khả  năng cạnh  tranh, bảo đảm cho hội nhập có kết quả. 2.5.2. Các bước tham gia hội nhập của Việt Nam : Từ ngày 25 tháng 7 năm 1995, ta đã trở thành thành viên chính thức của   ASEAN và từ ngày 01 tháng 01 năm 1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên  của ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào Khu vực Mậu dịch tự  do  ASEAN (AFTA) và Hiệp định về  thuế  quan  ưu đãi có hiệu lực chung của  ASEAN (AFTA/CEPT). Tham gia vào ASEAN, ta đã trở  thành thành viên của  một tổ  chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km 2 với  dân số  khoảng 500 triệu người với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 t ỷ  USD và tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỷ USD. Bằng việc tham gia   vào AFTA/CEPT, Việt Nam sẽ  phải tuân thủ  và thực hiện đầy đủ  các quy  định, cam kết cơ  bản và bắt buộc của Hiệp định nhưng vẫn phải tìm những   cách vận dụng phù hợp các quy định có tính linh hoạt của Hiệp định để  vừa  bảo hộ  một cách hợp lý, đồng thời nâng dần khả  năng sản xuất cũng như  cạnh tranh của các ngành sản xuất tỏng nước nhằm giảm tối đa những bất lợi  của ta khi thực hiện các bước tham gia vào AFTA/CEPT. Ngày 15 tháng 6 năm 1996, ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác   kinh tế Châu á ­ Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11 năm 1998 đã trở thành  thành viên chính thức của tổ  chức này, một tổ  chức hiện có 21 thành viên,  trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi  (từ  kinh tế  tập trung bao cấp sang kinh tế  thị  trường). Mục tiêu của APEC   cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở  cửa và  thuận lợi hoá thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế – kỹ thậut theo các nguyên  tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự  nguyện, công khai và không phân biệt đối xử  giữa các nước thành viên cũng như  các đối tác không là thành viên. Các cam  kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp  18
  19. cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị, tuy được quan   tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức. 2.5.3. Những kết quả đạt được : Những kết quả  của công cuộc đổi mới đạt được trong 10 năm qua có  thể  nói là chưa từng có trong lịch sử  Việt Nam.  ở  phần trên cũng đã nói đến  một phần nào đó thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thông qua các giải pháp  được áp dụng trong công cuộc đổi mới kinh tế, phần này muốn tập trung phân  tích các kết quả của công cuộc đổi mới trên ba lĩnh vực : tốc độ  tăng trưởng,   chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các vấn đề xã hội. Trước hết phải kể đến mức tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ  1991 – 2000  đã tăng  bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị  GDP đạt gấp đôi năm 1990.  GDP theo đầu người tăng 1,8 lần. Nông nghiệp đạt tốc độ  tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh  vực. Giá trị  sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó   nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1, triệu   tấn. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đưa mức lương thực   bình quân đầu người từ 294,9 kg năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam  từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai   thế giới. Sản lượng của một số  cây công nghiệp trong thời kỳ  1999 – 2000 đã  tăng khá cao : cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần,  bông tăng 9,7 lần. Sản lượng thuỷ  sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%. Giá trị  sản   lượng công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua là khoảng 12,8 – 13%   năm. Công nghiệp chế  biến đã có tốc độ  tăng trưởng khá và đã chiếm tới  60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. 19
  20. Vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng lên đáng kể  .Tính đến   quí I năm 1999 đã có 2624 dự  án được cấp giấy phép đầu tư  với tổng vốn   đăng kí là 35,8 tỉ USD ,nếu tính cả vốn bổ xung là 40,3 tỉ USD .  Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực .Tỉ  trọng trong nông,  lâm,ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4% năm  1999; công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9%; dịch vụ từ 35,7%  lên 40,1%. Các nghành dịch vụ  phát triển đặc biệt là nghành bưu chính viễn  thông , du lịch ….. đã  nâng được tỉ trọng lên trên 40% GDP. Đồng thời cơ cấu   vùng kinh tế  đã thay đỏi theo hướng tập trung phát triển 3 vùng trọng điểm :  TP  Hồ  Chí  Minh  – Vũng Tàu ,Hà  Nội­Hải Phòng­Quảng Ninh,  Đà Nẵng­ Quảng Ngãi ,đồng thời đã dành sự  quan tâm cần thiết tới những vùng miền   núi ,vùng sâu ,vùng xa . Đồng thời với sự  tăng trưởng về  kinh tế  mức sống   của dân cư cả nông thôn và thành thị đều được cải thiện rõ rệt: GDP theo đầu  người trong 10 năm qua đã tăng 1,8 lần , thu nhập bình quân một người một   tháng đã tăng 3,2 lần .Số học sinh đi học ở các cấp khác nhau từ tiểu học đến  đại học đã tăng khoảng 2,3­4,3 lần .Chỉ số HDI nâng lên từ thứ 122/174 nước   năm 1995 lên 110/174 nước năm 1999. Công tác chăm sóc sức khoẻ  của nhân  dân đã có nhiều tiến bộ  .Năm 1990tỉ  lệ  trẻ  dưới 5 tuổi bị  suy dinh dưỡng là  50%,tỉ lệ chết của trẻ dươi 1 tuổi là 46%,dưới 5 tuỏi là 69,5%,tuổi thọ  trung   bình là 64 thì tới  năm 1998  các chỉ  tiêu tương  ứng trên đã giảm xuống còn  38,9%, 39%, 48,5%, 68 tuổi . Số hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt từ 30% năm 1992  xuống còn 10,6% năm 2000. Đến cuối năm 1998 cả nước có 15 tỉnh thành phố  có tỉ lệ hộ đói nghèo dưới 10%.                          Thực hiện so với dự kiến kế  hoạch thời kì 1996­2000                                           Chỉ tiêu chủ yếu              Dự  Đạt Tỉ  kiến lệ  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2