intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Vấn đề con người và định hướng phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Le Tan Thich | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:38

139
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phát triển con người là mục tiêu cao cả của toàn nhân loại. Bởi con người là yếu tố để tạo nên xã hội. Muốn xã hội phát triển thì trước tiên phải hiểu về con người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Vấn đề con người và định hướng phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay

  1. LỜI MỞ ĐẦU Phát triển con người là mục tiêu cao cả của toàn nhân loại. B ởi con ng ười là yếu tố để tạo nên xã hội. Muốn xã hội phát triển thì trước tiên phải hiểu về con người.Chính vì lẽ đó, từ nhiều thế kỷ qua người ta luôn tìm hiểu và nghiên c ứu v ề con người và cũng chính lẽ đó mà có nhiều ý kiến trái chiều về bản ch ất con người được đưa ra. Tuy nhiên, triết học Mac- Lenin đã có những bước tiến vượt bậc với những luận chứng khoa học những vấn đề triết học về con người. Triết học Mac-Lenin cho rằng, cần phải bắt đầu từ những con người hiện th ực, cụ th ể; rằng, hoạt động sản xuất là điều kiện nền tảng cho s ự t ồn t ại, phát tri ển c ủa con người. Với tính cách một thực thể sinh học - xã hội, có ý thức và năng l ực sáng tạo, con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình phát triển lịch sử. Con người là lực lượng sáng tạo nên lịch sử. Những nhu cầu của con người trở thành động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Với những quan niệm như vậy, triết học Mac - Lenin đã đặt nền móng vững chắc cho việc nghiên cứu, nh ận thức tri ết h ọc về con người và con đường để hoàn thiện bản chất người. Chính vì vậy mà triết học Mac-Lenin được đưa vào giáo d ục nh ằm hoàn thiện hơn về nhân cách con người và giúp con người hiểu hơn v ề b ản ch ất và s ự phát triển nhân cách một cách đúng đắn. Từ hiểu biết thông qua quá trình học tập về môn “ Nh ững nguyên lý c ơ b ản của chủ nghĩa Mac-Lenin” nhóm xin đưa ra một cách khái quát nhất về bản chất con người theo triết học Mac- Lenin để từ đó vận dụng vào vi ệc định h ướng nhân cách con người Việt Nam nhằm đưa Việt Nam thành một đất nước văn minh, phát triển bền vững trên con đường hội nh CHƯƠNG I QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC Page 1
  2. 1.1.Quan niệm về con người trong triết học phương Đông. Trước triết học Mác Lênin,vấn đề bản chất con người vẫn chưa được lý giải một cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo mà cả chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Từ thời cổ đại, con người bắt đầu tìm hiểu ngồn gốc của mình và có nh ững ý thức ban đầu về sức mạnh chính bản thân mình. Các nước ch ịu ảnh h ưởng c ủa Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo triết học cũng giải thích con người đ ược t ạo ra từ một đấng thần linh tối cao hoặc từ một lực lượng siêu nhiên nào đó. Tuy nhiên trong triết học Phật giáo lại cho rằng con người là s ự k ết h ợp giữa danh và sắc(vật chất và tinh thần). Đời s ống c ủa con người trên tr ần th ế ch ỉ là hư ảo, ảo giác. Do vậy con người khi sống ch ỉ là s ống nh ờ, s ống gửi. Cu ộc sống vĩnh cửu là khi đạt tới cõi Niết Bàn, nơi linh hồn con người được siêu thoát để trở thành bất diệt. Do sự chi phối của thế giới quan duy tâm hoặc duy v ật ch ất phác mà quan niệm về bản chất con người trong Nho giáo, Lão giáo cũng h ết s ức phong phú và đa dạng. Khổng Tử cho rằng “Thiên mệnh” là đấng tối cao chi phối quyết định bản chất con người, ở con người(bậc quân tử) đức “Nhân” chính là giá trị cao nh ất. Khổng Tử bàn về con người có nhiều tiến bộ: đó là con người th ực t ế và khá toàn diện ở nhều mối quan hệ và mối quan hệ nào cũng yêu cầu “chính danh”. Tuy nhiên, ông có hạn chế là không thấy được con người trong quan h ệ kinh t ế. M ạnh Tử lại quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh h ưởng c ủa tập quán, phong tục xấu nên con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt. Vì v ậy, mu ốn giữ được đạo đức của mình thì phải qua tu dưỡng, rèn luy ện th ường xuyên. Khổng Tử và Mạnh Tử đều thống nhất cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan h ệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới giá trị cao đẹp. Ngược lại với Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng, con người sinh ra đã có b ản ch ất là ác, nh ưng cái ác đó có thể loại bỏ, thay vào đó là cái t ốt, bi ện pháp đ ể đ ạt đ ến cái t ốt là chống lại cái ác. Page 2
  3. Trong triết học phương Đông cũng tồn tại quan điểm cho rằng, con người và trời có thể hòa hợp được với nhau( Thiên Nhân hợp th ể) đó là quan đi ểm duy tâm. Kế thừa nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan, Đ ống Trọng Th ư cho rằng con người và trời có thể thông hiểu lẫn nhau( Thiên nhiên cảm ứng) v ới m ục đích ứng dụng những quan điểm Nho gia vào đời sống xã hội. Phái Đạo gia với đại diện tiêu biểu là Lão Tử, lại quan niệm rằng con người sinh ra từ “Đạo” do vậy con người phải “vô vi” trong cu ộc s ống. Đó không phải là cái thụ động, bất động mà là hành động theo bản tính tự nhiên c ủa Đ ạo. Quan điểm này thể hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia. Như vậy với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học ph ương Đông thể hiện sự đa dạng, phong phú khi bàn về bản ch ất con ng ười. Các quan ni ệm đó thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Đó là quan ni ệm về con người với biểu hiện của sự pha trộn giữa y ếu t ố duy tâm v ới tính duy v ật chất phác ngây thơ trong quan hệ với tự nhiên và xã hội. 1.2. Quan niệm con người trong triết học phương Tây trước: Trước Mác, ở phương Tây cũng có rất nhiều quan điểm về con người. Nói chung các tôn giáo đều cho rằng con người do Thượng Đế, Thánh Th ần sinh ra, cuộc đời con người do đấng tối cao sắp đặt, an bài. Đ ặc bi ệt Ki Tô giáo quan niệm rằng con người là kẻ có tội. Con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Thể xác tồn tại tạm thời, nó sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn lại. Do vậy con người phải cứu lấy linh hồn còn của mình. Linh hồn(hay tinh thần) là phần cao quý trong con người, thể xác là phần thấp hèn, phần gần gũi với súc vật, là phần đáng khinh nh ất trong cu ộc s ống con ng ười. Do đó phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn Với triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là khởi đầu của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh phản chiếu lẫn nhau. Bên cạnh đó Protago, một nhà triết học ngụy biện cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ” Page 3
  4. Arixtot cho rằng chỉ có linh hồn, tư duy,trí nhớ, ý chí, năng khi ếu ngh ệ thu ật là làm cho con người nổi bật lên, con người là bậc thang cao nhất của vũ trụ. Rõ rằng triết học Hi Lạp cổ đại khi nghiên cứu v ề con ng ười, bước đ ầu đã có sự tách biệt con người với tự nhiên, nhưng chỉ là sự hiểu bi ết bên ngoài v ề con người chưa hiểu sâu, hiểu rõ về bản chất của con người. Bước vào thời trung cổ, với sự thống trị của thần học đối với triết h ọc mà xuất hiện quan niệm con người là sản phẩm của Thượng Đế. Mọi mặt cuộc sống con người, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Th ượng Đ ế s ắp đặt. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống nhưng đành bằng lòng, cam phận với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thiên đ ường. Đây là quan niệm duy tâm về bản chất con người. Thời Phục Hưng – Cận Đại triết học lại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của nước xem con người như một thực thể có trí tuệ. Đó là y ếu t ố quan tr ọng nhằm giải thoát con người khỏi thế lực thần học th ời Trung C ổ áp đặt con ng ười, tiến tới giải phóng con người khỏi sự thống trị của cường quyền và thần quyền, tuy nhiên chưa có một trường phái nào nhận thức đầy đủ cả về mặt sinh học và mặt xã hội thống nhất trong con người mà chỉ nhấn mạnh mặt cá th ể xem nh ẹ mặt xã hội của con người. Thời Cận Đại, nhận thức về nguồn gốc và bản chất con người đã có một bước tiến đáng kể, triết học duy vật và duy tâm đ ều ph ản ánh nh ững v ấn đ ề m ới mẻ do thực tiễn đặt ra. Tiếp tục phát triển quan điểm duy vật của các nhà triết học Pháp th ế k ỷ XVIII, Phơ Bách-nhà triết học duy vật vĩ đại nhất trong triết học c ổ đi ển Đ ức, Ông đã phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm và tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất con người theo quan điểm duy vật. Phơ Bách đã từng kh ẳng định: “ Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa, mà chính con ng ười đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người”. 1.3. Quan điểm của triết học Mac- Lenin về bản chất con người: Page 4
  5. Khi phê phán quan điểm của Phơ Bách, Mác đã khái quát bản ch ất con người, điều đó được Mác khẳng định: “Phơ Bách hòa tan bản chất tôn giáo và b ản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện th ực của nó, bản ch ất con ng ười là tổng hợp những mối quan hệ xã hội”. Bản chất con người được thể hiện trên các nội dung sau : 1.3.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa m ặt sinh v ật và m ặt xã hội: Kế thừa quan niệm đúng đắn về con người trong lịch sử triết học, Mác với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng đã phân biệt rõ hai mặt sinh vật và xã hội thống nhất trong con người hiện thực. Khi tiếp cận bản chất con người ở góc độ này cần theo hướng : Thứ nhất, con người là một thưc thể tự nhiên, là sản phẩm của t ự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự nhiên. Như vậy, tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Con người là động vật cao cấp, là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật, như thuyết tiến hóa c ủa Đác uyn đã chứng minh. Vì vậy, con người là bộ phận của giới tự nhiên, gi ới t ự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ xuất hiện một số giả thuyết cố chứng minh học thuy ết của Đác uyn là không có c ơ s ở như: con người hiện tại là sự lai tạp giữa người hành tinh với con người ở trên trái đất, y học đã tạo ra được con người trong ống nghiệm và thực tế đã thành công như trước kia chúa đã tạo ra con người bằng cách đó…Trên thực t ế, con ng ười hiện đại có cấu trúc cơ thể không khác gì con người cách đây 50 v ạn năm. Nh ưng về mặt xã hội thì con người hiện đại có bước tiến xa hơn về năng lực, sự sáng tạo, lối sống. Page 5
  6. Thứ hai, là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật khác như nhu cầu về sinh lí và các hoạt động bản năng: đói ph ải ăn, khát ph ải u ống, sinh hoạt tình dục…Nhưng giải quyết những nhu cầu đó ở con người có bước ti ến xa hơn so với động vật, kể cả so với khi con người mới thoát thai kh ỏi đ ộng v ật. Chính quá trình sinh sản, phát triển và mất đi của con ng ười qui định b ản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người là một sinh vật có đ ầy đ ủ b ản tính sinh vật. Thứ ba, mặt tự nhiên và mặt xã hội thống nhất trong con người, m ặt t ự nhiên là “nền” cho con người, mặt xã hội nâng mặt tự nhiên c ủa con người lên động vật. Con người khác động vật ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục đích. Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng : cái duy nhất tạo nên bản ch ất con ng ười là đặc tính sinh vật. Con người là một sinh vật nhưng có nhiều điểm khác với sinh vật. Vậy con người khác với con vật ở chỗ nào? Trong lịch s ử đã có nhi ều nhà t ư tưởng lớn đư ra tiêu chí về sự khác nhau giữa con người và con v ật có s ức thuy ết phục như: Phranklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết sử dụng công cụ lao động, Arixtốt đã gọi con người “là động vật có tính xã hội”. Pascal nhấn mạnh đặc điểm và sức mạnh của con người ở chỗ biết suy nghĩ: con người là “m ột cây s ậy nhưng là cây sậy biết suy nghĩ”. Các nhận định trên đ ều đúng khi nêu lên m ột khía cạnh về bản chất con người, nhưng đều phiến diện, không nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhìn về bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, xem xét không ph ải một cách chung chung tr ừu tượng, phiến diện như các nhà tư tưởng khác. Theo Mác mặt xã hội của con người, có điểm nổi bật, hơn hẳn và phân bi ệt với động vật là con người có hoạt động lao động sản xuất của cải vật ch ất. Qua quá trình lao đông sản xuất: con người sản xuất ra của cải vật chất ph ục vụ cho Page 6
  7. cuộc sống của mình và cho đồng loại. Sản xuất ra các giá trị tinh th ần làm phong phú them đời sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành bản ch ất xã h ội c ủa con người, hình thành nhân cách ở con người. Thứ tư, là sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội nên ở con người luôn ch ịu sự chi phối của ba hệ thống quy luật: Hệ thống quy luật tự nhiên: qui định sự phù hợp của cơ th ể sống với môi trường, qui định trao đổi chất,qui luật biến dị, di truyền. Hệ thống qui luật tâm lí ý thức: như sự hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí… Hệ thống qui luật xã hội: qui định mối quan hê giữa con người với con người, đó là qui định quan hệ sản xuất phù hợp với trình đ ộ phát tri ển c ủa l ực lượng sản xuất, qui luật với cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thương tầng… Tóm lại, con người khác với con vật ở cả ba mặt: quan h ệ v ới tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan h ệ đ ều mang tính xã hội,trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nh ất, bao quát m ọi hoạt đ ộng c ủa con người, cả trong lao động sinh con đẻ cái và trong tư duy. 1.3.2.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là t ổng hòa những quan hệ xã hội. Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã viết…”Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm trên chỉ rõ: không có con người trừu tượng thoát ly kh ỏi đi ều kiện cụ thể, con người luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định. Nghĩa là con người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã h ội,phát tri ển ý thức. Luận điểm đó được biểu hiện trên các góc độ sau: Bản chất con người được qui định bởi tất cả các mối quan hệ xã h ội, t ức là bị qui định bởi mối quan hệ giữa người với người. Đó là các quan hệ giữa người với người ở một hình thái kinh tế xã hội đã bỏ qua, ở hình thái kinh t ế - xã h ội Page 7
  8. đương đại, ở một ý nghĩa nào đó là quan hệ giữa người với người theo định tính, theo mục tiêu ý tưởng. Đó là các mối quan hệ về vật chất, quan hệ về tinh thần giữa người với người. Quan hệ giữa người với người trong xã hội đương đại qui định bản chất của con người thì suy đến cùng quan hệ vật chất, quan h ệ kinh tế, quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định nhất. Bởi vì đời sống vật ch ất quy ết định đời sống tinh thần, động cơ chi phối hoạt động của người là lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế là quyết định nhất. Bản chất con người phải đặt trong quan hệ đồng loại (cộng đồng) với cá nhân trong đó mặt cộng đồng có xu hướng xích lại gần nhau hơn. Con người hòa nhập vào cộng đồng, mang bản chất của nó vào và th ể hi ện bản sắc c ủa nó. Hòa nhập vào cộng đồng không có nghĩa đánh mất bản sắc cá nhân mà ngược l ại c ủng cố thêm bản sắc cá nhân. Khi đề cập tới y ếu tố cộng đồng thì c ộng đ ồng dân t ộc, cộng đồng giai cấp là những công đồng cơ bản nhất chi phối con người. Bản chất con người vừa mang tính thời đại, vừa manh tính lịch sử. Con người luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật ch ất,điều ki ện sinh ho ạt tinh thần của thời đại. 1.4. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội: 1.4.1.Khái niệm cá nhân và nhân cách. Cá nhân là một khái niệm chỉ nh ững con ng ười cụ th ể nh ư m ột ch ỉnh th ể đơn nhất bao gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể, khác biệt với những cá nhân khác về cơ chất, tâm lý, trình độ hiểu biết và nhân cách. Khái niệm cá nhân khác khái niệm con người. Con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất người của tất cả các cá nhân. Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung, trạng thái, tính chất và xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của cái "tôi", do tác động tổng hợp c ủa các y ếu t ố c ơ th ể và xã h ội hết sức riêng biệt tạo nên. Như vậy, nhân cách là khái niệm chỉ sự khác bi ệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Với những đặc điểm riêng về di truyền, sinh lý thần kinh, hoàn c ảnh gia đình, hoàn cảnh sống mỗi cá nhân bước vào cuộc s ống, ti ếp thu và chuy ển nh ững giá trị văn hóa của loài người vào trong đầu óc của mình để thực hiện các quá trình so sánh, lọc bỏ, đánh giá, qua đó tạo nên th ế gi ới riêng cho mình. Nhân cách không Page 8
  9. phải là bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành, phát triển ph ụ thuộc vào ba y ếu tố sau: Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư ch ất di truy ền h ọc nhất định của cá nhân từng người. Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình hành và phát triển nhân cách thông qua sự tác động biện chứng giữa gia đình, nhà trường và xã h ội với cá nhân. Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm các yếu tố như quan điểm, niềm tin, tri thức, định hướng giá trị. 1.4.2. Biện chứng giữa cá nhân và xã hội. Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, bao gồm cộng đồng tập thể, gia đình, cơ quan, c ộng đ ồng quốc gia, dân tộc và nhân loại. Quan điểm triết học Mác-Lênin về xã hội xuất phát từ quan điểm lịch sử - cụ thể để xem xét mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội mà n ền t ảng c ủa nó là m ối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là mối quan h ệ vừa có th ống nhất vừa mâu thuẫn. Trong xã hội cộng sản nguyên th ủy, lực lượng sản xu ất th ấp kém, để duy trì sự sinh tồn của mình, người nguyên th ủy phải ti ến hành lao đ ộng tập thể trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng của cộng đồng. Vì vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa có đủ điều kiện để mỗi con người trở thành một cá nhân theo đúng nghĩa của nó, cá nhân bị hòa tan vào cộng đồng.Trong các xã h ội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa cá nhân và xã hội mang tính chất đối kháng dựa trên sự đối kháng về lợi ích giai cấp. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng giải phóng con người sâu sắc và triệt để với mục đích cuối cùng của nó là phát triển tối đa năng lực sáng tạo và tự do cho cá nhân. Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra nh ững điều kiện khách quan để thực hiện hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã h ội; t ạo ra nh ững điều kiện phát triển tự do cá nhân và đồng th ời sự phát tri ển t ự do cá nhân là đi ều kiện để phát triển tự do của mọi người. Tuy nhiên, cần tránh hai thái cực c ực đoan. Một là, chỉ thấy cá nhân không thấy xã h ội; đem cá nhân đ ối l ập v ới xã h ội, đòi thực hiện nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân. Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, hoặc quan niệm sai về lợi thế xã hội, về chủ nghĩa tập thể. Khuynh hướng này dẫn đến chủ nghĩa bình quân, triệt tiêu động lực cá nhân trong phát triển. Cả hai khuynh hướng này đều không đúng, cuối cùng sẽ dẫn đến triệt tiêu sự phát triển của cả xã hội, của cả cá nhân. CHƯƠNG II : VẬN DỤNG TRIẾT HỌC MAC-LENIN VÀO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY. Page 9
  10. 2.1.Sự hình thành nhân cách theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lenin: Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, lu ật h ọc, tâm lý h ọc, y h ọc, giáo dục học, v.v.. Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người, về cơ bản, có những khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ th ể. Tri ết học Mác - Lênin xem nhân cách là “những cá nhân con người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động, của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử – cụ thể của đời sống xã hội”(1,43). Theo đó, nhân cách trước hết là đặc trưng xã hội của con người, là “phẩm chất xã hội” của con người. Khi nghiên cứu về nhân cách, một trong những vấn đề đầu tiên và cũng là then chốt, là vấn đề sự hình thành nhân cách. Giải quyết vấn đề này theo những cách khác nhau sẽ dẫn tới quan niệm khác nhau về bản chất của nhân cách. Trước hết, để giải quyết vấn đề nhân cách, chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa cái sinh học và cái xã hội trong con người, bởi nh ư C.Mác đã nói, con người là một thực thể sinh học - xã hội. Trong quá trình phát triển của mình, con người bỏ xa giới động vật trong sự tiến hoá, nhưng điều đó không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên, cái sinh học. Khi nói tới những yếu tố sinh học trong con người, có th ể hi ểu đó là nh ững yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái mà về mặt phát sinh, luôn gắn bó với tổ tông động vật của con người, những cái làm cho con người hình thành và ho ạt đ ộng như một cá thể, một hệ thống phục tùng các quy luật sinh học; hoặc cũng có th ể coi đó là toàn bộ tiền đề sinh học của con người. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những sự quy định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người. Trong đại đa số trường hợp, nếu thiếu chúng thì nhi ều đ ặc tính, nhiều cấu trúc, ví dụ như ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, quy phạm đạo đức…, sẽ không bao giờ hình thành được(2,43). Page 10
  11. Cho đến nay, người ta vẫn còn tranh luận nhiều về mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong sự phát triển con người. Nhìn chung, có hai quan điểm cực đoan về vấn đề này và được biểu hiện trong các trường phái “ch ủ nghĩa tự nhiên” (hay còn gọi là “chủ nghĩa sinh vật”) và “ch ủ nghĩa xã h ội h ọc”. Quan điểm của chủ nghĩa tự nhiên dựa trên những thành tựu sinh vật học cũng nh ư những thành tựu về dân tộc học của K.Lôrenxơ. K.Lôrenxơ cho rằng, hành vi xã hội của con người bao gồm trong nó những tính quy luật mà chúng ta có thể biết rõ từ hành vi động vật: “người ta thừa nhận rằng hành vi xã hội của con người… bao gồm trong nó tất cả những tính quy luật… mà chúng ta đ ược bi ết rõ ràng nh ờ vào nghiên cứu những hành vi của động vật”(3,43). Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh h ọc xã h ội đã ra đời như một trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Nhìn một cách t ổng th ể, chủ nghĩa này cũng không khác gì chủ nghĩa tự nhiên khi cho rằng, “tất cả nh ững gì của con người do bẩm sinh mà có, thì không th ể b ị thay đổi do các đi ều ki ện xã hội”. Theo họ, “sự phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, t ốc độ và tính khuynh hướng của quá trình giáo dục con người được hình thành trên trái đ ất, chủ yếu bằng con đường di truyền” hay “lý tính của con người có th ể được hiểu đúng đắn, rõ ràng nhất từ quan điểm về quá trình phát triển do các gen di truy ền quy định”(4,43). Những người theo chủ nghĩa xã hội học đã xây dựng học thuyết của mình v ề con người dựa trên quan điểm lý luận của trường phái E.Durkheim (1858 – 1917, nhà triết học xã hội, nhà xã hội học Pháp, người theo chủ nghĩa th ực ch ứng). Theo h ọ, các hành vi của con người đều là do tư tưởng, ý thức xã hội tạo nên; đồng th ời, trường phái này đã phủ nhận mối liên hệ khách quan giữa hành vi con người với những điều kiện vật chất của sản xuất và tái sản xuất con người, với tự nhiên. Đối lập với hai quan điểm cực đoan trên, triết học Mac-Lenin cho rằng, trong con người, mối quan hệ giữa cái sinh học và cái xã hội không ph ải là đ ối l ập Page 11
  12. nhau mà thống nhất với nhau. Có thể thấy rằng, con người là m ột c ơ th ể h ữu sinh có trình độ tổ chức sinh học cao nhất và do vậy, quan hệ giữa các yếu tố sinh học - xã hội là rất phức tạp, sâu sắc. Tổ chức cơ thể của con người, nh ư các giác quan, hệ thần kinh trung ương…, là những tiền đề sinh học, sinh lý học, tâm sinh h ọc được xem như cơ sở vật chất và có ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Th ực tế đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới thế giới quan, định h ướng giá trị… của họ; hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng… chính là do các yếu tố sinh học chi phối. Một ví dụ khác là, ngày nay, người ta thường nhắc tới nhịp điệu sinh học (đồng hồ sinh học) như một cơ chế có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của con người; hay nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, khi có một gen nào đó hoạt động hoặc ngừng hoạt động thì con người có sự thay đổi nhất định. Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người, ảnh h ưởng tới cơ cấu và chức năng… của cơ thể. Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi v ới người xung quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì s ẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác s ỹ Sing, ng ười Ấn Đ ộ, có k ể v ề trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra kh ỏi r ừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì ch ạy b ằng b ốn chi khá nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói đ ược hai từ. Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Đến nay, người ta đã biết được trên 30 trường hợp tương tự. Những sự thực đó đã kh ẳng đ ịnh tính đúng đ ắn trong nh ận xét c ủa C.Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội.Như vậy, có thể thấy rằng, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con người “dự bị”. Nó không thể trở thành con người nếu b ị cô l ập, tách khỏi đời sống xã hội; nó cần phải học để trở thành người. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã viết: “Cá nhân là thực thể xã hội. Cho nên mọi Page 12
  13. biểu hiện sinh hoạt của nó - ngay cả nếu nó không bi ểu hi ện d ưới hình th ức tr ực tiếp của biểu hịên sinh hoạt tập thể, được thực hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội”(5,43). Chính sự gia nhập xã hội và được xã hội điều chỉnh hành vi của mình mà đ ứa trẻ và hành vi c ủa nó mang nội dung xã hội. Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa yếu tố sinh h ọc và y ếu t ố xã h ội trong con người là để thấy được những hạn chế trong các quan niệm cực đoan về cái sinh học, cái xã hội trong con người của một số trường phái triết học. Thực t ế cho thấy rằng, những quy luật sinh học chi phối mặt sinh h ọc, còn quá trình con ng ười gia nhập xã hội sẽ quyết định mặt xã hội trong con người. Điều này th ể hiện rõ nhất ở những đứa trẻ sinh ra từ cùng một trứng. Những đứa trẻ này giống nhau v ề mặt di truyền. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình phát triển, chúng có th ể m ắc một số bệnh giống nhau, như bệnh về mắt hay nội tiết, tức là ở đây, m ặt sinh h ọc đóng vai trò không nhỏ. Song, nếu được nuôi dưỡng trong nh ững môi trường xã hội khác nhau thì những đứa trẻ này cũng có sự phát tri ển khác nhau. Đi ều này có nghĩa là, con người vừa chịu sự tác động của quy luật sinh học, vừa chịu sự tác động của xã hội (nhưng cũng cần phải thấy được rằng, sự tác động của y ếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là ngang nhau, nh ư nhau trong m ỗi cu ộc đ ời con người). Dĩ nhiên, cũng cần phải thấy rằng, với những mục đích nghiên c ứu khác nhau, có thể các nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới mặt sinh học hoặc mặt xã hội của con người (và chỉ nhấn mạnh, chứ không phải tuyệt đối hoá nh ư chủ nghĩa t ự nhiên, thuyết sinh học xã hội hay trường phái xã hội đã làm). Vi ệc tuy ệt đ ối hoá vai trò của yếu tố sinh học, di truyền trong con người sẽ dẫn đến tình trạng, các tệ nạn xã hội được giải thích bằng những nguyên nhân tự nhiên và do đó, người ta cho rằng, không thể khắc phục được những tệ nạn xã hội. Điều đó còn đưa đến một quan niệm về “giống thượng lưu”, về sự phân biệt chủng tộc. Quan điểm này cho rằng, lịch sử loài người được tạo ra bởi một số người tiêu biểu, được ch ọn lọc và do đó, dù muốn hay không, con người ph ải chủ động ki ểm soát vi ệc tái s ản Page 13
  14. xuất ra giống người, thực hiện sự “tuyển chọn” vì “lợi ích” loài người. Ngược lại, việc quá đề cao yếu tố xã hội trong con người lại đưa đến một quan ni ệm khác – quan niệm cho rằng, mọi tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ khuyết điểm chính trị. Trên cơ sở đó, triết học Mac-Lenin cho rằng, sự hình thành và phát tri ển nhân cách là do hai nhân tố quyết định: nhân tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội và nhân tố bên trong - tính tích cực của chính cá nhân. Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát tri ển nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể mà cá nhân đó sống. Đó có thể là các tập đoàn xã hội, kiểu loại cộng đồng dân tộc, tập thể... C.Mác đã nói: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã h ội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã h ội và c ần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không ph ải căn cứ vào l ực l ượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội”(6 ,43). Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung cổ, Cận đại, Hiện đại… có nh ững kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời Cổ đại, khi nền kinh tế chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống phụ thuộc vào tập thể, nhân cách mỗi người hoà vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, với sự ra đời Kitô giáo, nhân cách ch ủ y ếu hướng về đời sống tinh thần, về những giá trị đạo đức thuần túy, con ng ười s ống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của mình sau khi chết. Thời C ận đại, v ới s ự khẳng định giá trị con người, nhân cách đã mang tính độc lập sáng tạo… Khi khẳng định tính quyết định của xã hội đối với nhân cách, cũng c ần tránh quan điểm đồng nhất sự hình thành nhân cách với quy luật phát tri ển xã h ội. L ẽ dĩ nhiên, trong mỗi một kiểu xã hội nào đó, bao giờ cũng có ki ểu m ẫu nhân cách (điển hình) cho xã hội đó và xã hội nào, nhìn chung, cũng thiết lập m ột số chu ẩn mực, giá trị mà mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển ph ải h ướng t ới. Nh ưng điều đó không có nghĩa là sự hình thành nhân cách đồng nh ất v ới quy lu ật phát triển xã hội. Bởi như vậy, sẽ không giải thích được tính đa dạng của nhân cách trong mỗi xã hội. Page 14
  15. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách là quá trình con ng ười n ắm l ấy kinh nghiệm đời sống xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, kinh nghiệm đó thể hiện trình độ làm chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên và lực lượng xã hội. Nó thể hiện một cách khách quan, được vật thể hóa trong nền văn hóa v ật ch ất và tinh thần của xã hội. Nó có thể ở trong những vật thể cụ thể, trong công cụ sản xuất, trong các quan hệ xã hội, trong ngôn ngữ hoặc trong những hình thức và phương pháp tư duy… Quá trình con người nắm lấy kinh nghi ệm c ủa đ ời s ống xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sự đối tượng hóa (khách quan hóa) v ới vi ệc cá thể con người giành lấy (chủ quan hóa) bản chất xã hội của mình. Ví d ụ, trong quá trình lao động, con người không chỉ phát triển năng lực của mình mà trong quá trình đó, con người đã đối tượng hóa các năng lực ấy trong các v ật ph ẩm. Các v ật phẩm đó là kinh nghiệm của con người được kết tinh dưới hình thức vật ch ất và mang tính khách quan. Các thế hệ sau sử dụng những vật phẩm đó cũng có nghĩa là nắm lấy những kinh nghiệm đã có. Điều này cũng tương tự như trong các lĩnh v ực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, thẩm mỹ… Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy, trong quá trình sống của mình, con người có vô vàn mối quan hệ, sự giao tiếp với những người khác. Trước tiên, khi sinh ra, họ là thành viên trong một gia đình nào đó và vì vậy, họ có thể là con cái, anh chị; sau nữa, họ có thể trở thành cha mẹ, ông bà… Họ cũng có thể thuộc về một nhóm xã hội (giai tầng, giai c ấp) nào đó và qua đó, cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) ấy. Cuối cùng, họ cũng là một cá nhân trong một cộng đồng dân tộc nào đó và do vậy, họ mang trong mình những những giá trị đặc trưng của dân tộc ấy… Nghĩa là, trong cả cuộc đời mình, ở con người luôn diễn ra sự quan h ệ với nh ững người khác. Chính những nhân tố này quyết định hoạt động, hành vi của con người. Môi trường xã hội chính là nguồn gốc trực tiếp mà ở đó, con người hấp thụ và cũng rút ra những tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm của mình. Con người sẽ không th ể tồn tại, phát triển được nếu không có sự giao tiếp với thế giới xung quanh, với cộng đồng người. Hệ thống các quan hệ xã hội không phải là cái gì trừu tượng, xa lạ, Page 15
  16. mà do chính con người tạo ra. Để tồn tại và phát triển, con người phải sản xuất và chính trong quá trình sản xuất, con người tạo ra các mối quan h ệ xã h ội và ng ược lại, các mối quan hệ xã hội này lại quy định toàn bộ đời sống xã hội và bản ch ất mỗi người, như C.Mác đã nói: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(7,43). Như vậy, mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội th ể hiện ra nh ư m ối quan h ệ gi ữa cái chung và cái riêng. Cá nhân nằm trong các quan hệ xã hội (mà các quan hệ xã h ội đó chính là sự tác động lẫn nhau giữa cá nhân với nhau); nh ưng qua đó, cá nhân đồng thời tích cực giành lấy bản chất xã hội của các quan hệ xã hội đó, làm cho bản chất ấy thành bản chất bên trong của mình, thành bản chất cá nhân. Nhân cách là mức độ “nội tâm hoá” bản chất xã hội của con người trong những đi ều ki ện lịch sử cụ thể. Do vậy, con người muốn chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã h ội và làm phong phú nhân cách của mình thì phải có sự hoạt động tích cực, bởi “sự phong phú tinh thần hiện thực cá thể hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những quan hệ hiện thực của nó”(8,43). Ở đây, xảy ra vấn đề, nếu môi trường xã hội đóng vai trò quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách như vậy, vậy thì tại sao lại có những con người có nhân cách khác nhau, tại sao trong cùng một điều kiện sống lại có những con người khác nhau và tại sao trong cùng một hoàn cảnh sống, con người lại có những hành vi khác nhau. Đây là một vấn đề không đ ơn gi ản. Khi nghiên c ứu ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sự phát triển nhân cách, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, môi trường xã hội bao gồm: môi trường vĩ mô và môi tr ường vi mô. Môi trường vĩ mô được coi là nguyên nhân chung của tính quyết định xã h ội, còn môi trường vi mô là những hoàn cảnh xã h ội trực ti ếp, mang tính đ ặc thù c ủa tính quyết định xã hội. Đó có thể là hệ thống giáo dục địa phương, là nhà trường, gia đình,… Việc đặt vấn đề môi trường vi mô, thiết nghĩ, là cần thiết, bởi nó cho phép chúng ta giải thích sự đa dạng của nhân cách, mà nếu chỉ dựa vào những tồn tại cơ bản của xã hội thì sẽ không giải thích được. Th ực ra, ngay ở cấp độ sinh h ọc, s ự Page 16
  17. phong phú, đa dạng của nhân cách cũng đã được thể hiện. Khi sinh ra, m ỗi ng ười đã có một bộ gen riêng của mình mà rất hiếm khi trùng với người khác. Do v ậy, mỗi người có khí chất, thiên hướng, khả năng tư duy… hết sức khác nhau. Cho nên, có thể, dù cùng sống trong một thời đại, một nhóm xã hội (giai cấp, giai tầng), một môi trường giáo dục giống nhau và thậm chí, ngay cùng một gia đình, nhưng con người vẫn có những phẩm chất, kiểu loại nhân cách khác nhau. Trong những hành vi của mình, con người thường dựa trên những kinh nghiệm sống, thiên hướng bẩm sinh, … để quyết định. Việc đặt ra tính đa dạng, phong phú của nhân cách trong xã hội là rất quan trọng. Bởi, nếu bỗng dưng vì những nguyên nhân nào đó mà mọi người trong xã hội đều như nhau: bộ mặt, đầu óc, tư tưởng, tinh thần, năng lực… thì khi đó, xã hội sẽ như thế nào? có được sự phát triển bình thường hay không? - “Một cộng đồng toàn thể những cá thể đồng loạt giống nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân - thì sẽ là một cộng đồng nghèo, không có kh ả năng phát triển”(9,43). Thực ra, sự phát triển đa dạng, độc đáo của mỗi người là điều kiện, là hình thức biểu hiện sự phát triển tốt đẹp của xã hội. Và ngược lại, đây không chỉ là biểu hiện của sự phát triển tốt đẹp của xã hội, mà còn là nhu cầu, yêu c ầu phát triển của mỗi người. Khi nhấn mạnh vai trò quyết định của môi trường xã hội, chúng ta cũng đồng thời phải khẳng định tính tích cực của con người trong đời sống xã hội, trong sự hình thành bản chất của mình. Môi trường xã hội không ph ải là "t ủ kính" tr ưng bày tất cả những giá trị xã hội mà qua đó, con người phải lựa chọn những giá trị cần thiết cho mình. Bởi lẽ, con người là một động vật xã hội khác v ới toàn b ộ th ế giới động vật còn lại ở khả năng hoạt động có ý thức. Sự hoạt đ ộng có ý th ức là điều kiện cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động của động vật. Con người sáng tạo ra tất cả của cải vật chất và tinh thần, đồng thời cũng sáng tạo ra chính bản chất của mình. Page 17
  18. Tính tích cực của nhân cách không mang tính t ự nhiên , mà là bản chất của con người. Quan điểm của thuyết hành vi mới không tính đ ến y ếu t ố này trong s ự hình thành và phát triển nhân cách, mà coi con ng ười nh ư một s ản ph ẩm th ụ đ ộng của môi trường. Theo quan điểm của họ, môi trường tác động đến con ng ười nh ư thế nào, thì cũng tạo ra con người như thế ấy. Đó là sự suy diễn máy móc. Giải thích theo cách này không thể lý giải được tính độc đáo của mỗi nhân cách. B ởi như đã trình bày, con người khi sinh ra chỉ như là con ng ười “d ự bị”. Chính vì v ậy, không ai nói tới nhân cách của đứa trẻ mới sinh hay còn ẵm ngửa. Bước vào đời sống xã hội, đầu tiên là bắt chước, hành động tự phát, sau đó, hoạt động của con người dần mang tính tự giác, con người bộc lộ tính ch ủ th ể của mình trong các hoạt động xã hội và qua đó, thể hiện tính tích cực xã hội của mình. Có th ể th ấy rằng, tính tích cực của nhân cách , một mặt, phụ thuộc vào nhu cầu và lợi ích của họ. Quá trình thực hiện nhu cầu và lợi ích là quá trình con người nỗ lực hoạt động, phát huy tính tích cực xã hội của mình. Tuỳ thuộc vào nhu c ầu và l ợi ích c ủa mình, các cá nhân hoạt động với những động cơ, tình cảm và lý trí khác nhau và qua đó, trong hoạt động, những mặt nhất định của tính tích cực xã hội xuất hiện trong mỗi cá nhân (có thể cá nhân này tích cực hoạt động trong h ọc t ập, cá nhân khác là trong giao tiếp hoặc trong lao động…). Chúng tạo ra xu hướng phát triển của nhân cách và dần đi vào cấu trúc nhân cách của mỗi người. Chính ở đây, tính đa d ạng, phong phú của nhân cách cũng được hình thành. Song, cũng cần ph ải th ấy r ằng, n ếu nhu cầu và lợi ích của con người được thực hiện một cách tự động, không c ần n ỗ l ực của chủ thể thì sẽ không khuyến khích chủ thể tìm kiếm phương thức th ực hiện và thoả mãn nhu cầu. Điều này sẽ gây ra tính ỷ lại, tính th ụ động c ủa nhân cách. Mặt khác, môi trường xã hội và khuynh hướng tiến bộ xã h ội cũng quy đ ịnh tính tích cực của nhân cách. Một môi trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá - tinh thần của xã hội có sự phát tri ển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích cực của nhân cách phát huy. Ng ược l ại, tính tích cực xã hội của nhân cách sẽ bị thui ch ột đi, n ếu môi tr ường xã h ội không Page 18
  19. tạo điều kiện cho nó bộc lộ. Trong một chừng mực nào đó, đi ều này không nh ững làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà còn có thể dẫn tới sự phá vỡ nhân cách, mà trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 C.Mác đã nói tới. Như vậy, có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và y ếu t ố bên ngoài, giữa cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình sống, con người có được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen… và ngược lại, khi tiếp nhận bất cứ việc gì, nhân cách cũng d ựa trên chu ẩn m ực xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, họ còn dựa vào những cái bên trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài. Như thế, quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý thức của mỗi người và do vậy, gắn với quá trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên t ự hoàn thiện mình của nhân cách. Nhân cách không phải là một cái gì đó đã hoàn t ất, mà là quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên. Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy, môi trường có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách; vì vậy, việc tạo ra một môi trường đảm bảo cho nhân cách có sự phát triển hài hòa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, là điều cần thiết. Ngược lại, những nhân cách có đủ đức và tài sẽ là điều kiện để chúng ta đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 2.2.Nhân cách con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay dưới góc nhìn triết học: Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có của tất cả các sự vật, hi ện tượng trong th ế gi ới khách quan, tạo thành một quy luật cơ bản của thế giới. Quy luật này cho ta biết nguồn gốc(bên trong) và động lực của sự vận động và phát triển của mọi sự vật. Page 19
  20. Do vậy, cần nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn để tạo đà cho s ự v ật phát triển. Đó chính là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Cũng dựa trên nguyên lý này có thể nhận ra trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay đang t ồn t ại nhi ều mâu thu ẫn cần được nghiên cứu và giải quyết một cách đúng đắn để đưa đất nước phát tri ển nhanh và bền vững. 2.2.1. Thực chất kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ, chuy ển ti ếp từ n ền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà n ước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ của nền kinh tế nước ta rất cần được nghiên cứu và xem xét một cách sâu rộng. Nhìn nh ận, đánh giá được điều này và thấy rõ được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ để nắm bắt và xử lý nó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài. Vậy nhìn từ phương di ện tri ết h ọc thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung bao cấp, mọi ch ức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình k ế hoạch hoá ở c ấp độ quốc gia. Nhưng kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước chuyển sang nền kinh t ế th ị tr ường theo định hướng XHCN. Điều đó có ý nghĩa to lớn được th ể hi ện qua nh ững thành qu ả mà chúng ta đã đạt được như: kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao... Với những thành tựu đó cho phép chúng ta vững tin về con đường đã lựa chọn để tiếp tục điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về XHCN ngày càng cụ thể cả về đường lối, chủ trương, chính sách sao cho ngày càng đ ồng bộ, có căn cứ khoa học và cơ sở thực tiễn. Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0