36
NGUYÊN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH
VÀI GHI NHÂN VỀ TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN
CỦA NGƯỜI MƯỜNG
NGUYÊN NGỌC THANH - HÀ VĂN LINHỀ)
1a bàn sinh sống của người Mường
Z9. Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ,
Sơn La... vốn gần với người Kinh và
người Thái. Do vậy, ảnh hưởng qua lại
về văn hoá, nhất là văn hoá vật chất
(ăn, ở, mặc) giữa các tộc người này là
hiển nhiên. Tuy nhiên, văn hoá tỉnh
thần (tôn giáo, tín ngưỡng) ở người
Mường vẫn được bảo lưu, ít bị ảnh
hưởng của các tộc người khác.
1. Tục thờ thần bản mệnh, thổ
công, cúng tổ tiên.
Một đặc điểm nổi bật của xã hội
phương Đông là suy tôn một cá nhân
làm người đại diện cho toàn thể cộng
đồng. Người đó có thể là một vị thần
linh “đầu thai” xuống trần gian cai trị
thiên hạ, thường là con trời'”, có khi là
những thần tự nhiên như thần sông,
thần núi, có khi là những thần vì một
lý do gì đó có một quan hệ vô hình với
cộng đồng, nhưng phần lớn là những
người có công với làng, với dân tộc. Ở
người Mường là việc thờ đức thánh Tản
Viên, người Mường tôn kính gọi là Bua
Thơ, Bua Pa Vị (vị vua ở núi Ba Vì).
Ông là nhân vật huyền thoại, "đi mây
về gió”, “ban phúc trừ tà” cho nhân gian
và được thờ phụng ở hầu khắp các gia
đình ngươi Mưởỡng, ngoài ra còn được
thờ ở đền miếu thuộc huyện Ba Vì,
(*} xy:a ˆ a
Viện Dân tộc học.
tình Hà Tây; huyện Lương Sơn, Tân
Lạc, Kim Bôi, Lạc Sơn, tĩnh Hoà Bình,
huyện Thanh Sơn, Yên Lập tỉnh Phú
Thọ... Bàn thờ Tân Viên trong ngôi nhà
người Mường được col là nơi linh thiêng
nhất. Theo tập quán, phụ nữ không
được nằm ở gian có bàn thờ Tân Viên.
Khi treo nỏ ở vách nhà tránh để mũi nỏ
và mũi tên hướng vào bàn thờ.
Ngày 37 tháng chạp hằng năm các
gia đình Mường sửa lễ cúng Tân Viên
để đón mừng năm mới. Mùng 3 tết gia
chủ có mâm cơm cúng với mục đích đón
thần Tân Viên về ngự trị tại nhà. Trong
năm, vào ngày rằm tháng bẩy, nhà nào
có bàn thờ Tân Viên lại làm cô cúng. Chủ
yếu là cỗ chay, gồm: xôi, chuối, chè, oän
nhất thiết phải có quả đu đủ luộc. Nếu
nhà nào sửa cỗ mặn thì làm cá nướng sau
đó cho đồ chín bày lên mâm cúng. Nhà
nào định thịt gà cúng phải nhốt 3 ngày
cho ăn thức ăn sạch sẽ,
Đền, miếu thờ Tân Viên thường
được lập ở các trung tâm mường. Chăng
hạn, ở mường Bi, dân làng lập miếu
lớn thờ Tân Viên. Hằng năm, vào ngày
7 tháng giêng dân chúng toàn mường
đến rước kiệu đưa thánh Tần từ bãi vào
miếu. Với người Mường, Tân Viên
không chỉ là vị sơn thần trong tín
ngưỡng phong thuỷ của mình, mà còn
là vị anh hùng trong chiến tranh chống
Thuy Tinh (chống lụt lội); đánh Thục
Phán giúp vua Hùng, là vị thuỷ tổ dân
tộc dòng dõi Lạc Long Quân - Âu Cơ, là
vị vua thần. ”” Không chỉ thờ Tản Viên,
ở người Mường còn thờ Quốc mẫu vua
bà và gọi bà là Chúa thượng ngàn (mẹ
của núi rừng).
Theo ngọc phả ghi lại bằng chữ Hán
còn lưu lại ở một số đền trên đất Hoà
Bình, thì vua bà là mẹ của thần Tân
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Viên. Truyền rằng bà chia tay chồng
đem một số người con đi mở mang đất
nước ở vùng thượng sông Đà và có công
khai phá vùng đất mường Thàng,
mường Bi, mường Vang, mường Động,
mường Âm cuối cùng về mường Lão,
huyện Yên Thuỷ, Hoà Bình ngày nay
và cư trú ở đó. Thời đó, đi khai phá đất
đai, đến đâu bà cũng dạy dân bắt trâu
rừng về thuần dưỡng thành trâu nhà,
dạy cách làm nó để bắn chim, dạy cách
đánh cá, trồng lúa và ca hát. Tưởng nhớ
công ơn của bà, dân Mường lập đền thờ
cúng vào mồng một, hôm rằm, do gia
đình hoặc dòng họ tiến hành?
Thờ thổ công xuất hiện khá phổ
biến trong các gia đình người Mường.
Vào bất cứ ngôi nhà nào của người
Mường, chúng ta thường thấy ở sân
trước hoặc ở đầu nhà có một nhà thờ
nhỏ làm bằng tre, mái tranh. Đấy là
nơi thờ thổ công, vị thần cai quản đất
đai của gia đình. Nghi lễ cúng thổ công
do gia đình thực hiện vào bất cứ thời
điểm nào khi gia đình có công việc. Tuy
nhiên, có một ngày hầu khắp các gia
đình Mường đều sửa lễ cúng thổ công
đó là ngày mùng một Tết, mở đầu một
năm mới.
Tổ tiên được coi như là thần bản
mệnh của gia đình, dòng họ. Do đó, tổ
tiên được con cháu còn sống tưởng
niệm, có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc
theo tục lệ để được yên vui bên kia thế
giới, được về quây quần xum họp với
con cháu còn sống và che chở cho con
cháu được nên người, nhằm bảo vệ và
duy trì danh dự của dòng họ mình”?.
Trong nhà người Mường thưởng có một
bàn thờ tổ tiên được đặt ở giưn 0uoóng
(gian khách), tuỳ theo cách bố trí của
từng gia đình mà vị trí bàn thờ có thể
Jí
đặt khác nhau, một số gia đình làm giá
treo trên vách nhà, một số khác lại
dùng bàn uống nước để làm bàn thờ.
Nhiều nhà còn trạm trổ hình con rồng,
con hạc, hoa sen, hoa hồng. Trước đây,
bàn thờ nhà lang còn có đỉnh thắp
hương, có mâm quả đựng đồ cúng lễ và
có cä bài vị khắc tên người chết. Trên
bàn thờ tổ tiên có ảnh của người đã mất
(cha mẹ, ông bà), trước bức ảnh là một
bát hương bằng sứ. Hằng năm vào ngày
29, 30 và sáng sớm mùng một Tết
Nguyên đán, từng gia đình tiến hành lễ
cúng tổ tiên. Theo quan niệm của người
Mường, cúng vào những ngày đầu năm
mới tổ tiên sẽ về đông đủ, cùng “ăn Tết”
với cháu con. Trên bàn thờ tổ tiên,
người ta bày tất cả thức ăn, các loại
bánh có trong ngày Tết, và nhất thiết
phải có một ít muối, một chiếc tăm tre,
một chén nước. Chủ gia đình đứng
trước bàn thờ đọc bài khấn với hàm ý
mong tổ tiên phù hộ cho một năm mùa
màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn,
gà không bị dịch bệnh, mọi người trong
gia đình luôn mạnh khoẻ, không ốm
đau bệnh tật. Sau bài khấn, theo tục lệ,
chủ gia đình còn xin âm dương bằng
cách tung hai đồng tiền cổ lên, khi rơi
xuống một đồng sấp một đồng ngửa là
đã được tổ tiên đồng ý. Nếu không được
như vậy, chủ nhà tiếp tục khấn lại và
xin âm dương đến khi nào được mới
thôi. Người Mường không có tục thờ
cúng hằng năm vào ngày mất. của (cha
mẹ, ông bà).
Giống như ở người Việt, ở người
Mường rất phổ biến tục thờ thành hoàng
mà phần lớn là những người có công khai
phá đất đai, tạo dựng bản, mường. Xưa
kia thành hoàng thường được cúng tế vào
dịp tết do nhờ lang chủ trì và có sự
tham gia của cả dân làng.
38
NGUYÊN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH
2. Tín ngưỡng nông nghiệp
Với cuộc sống dựa trên nền tảng
nông nghiệp ruộng nước vì vậy người
Mường tiến hành nhiều nghi lễ nhằm
cầu xin bảo vệ mùa màng.
Đầu năm, người Mường ở Lương
Sơn, Hoà Bình duy trì lễ cúng thần
nông nghiệp và tôn xưng là vua Đoiỉ,
văn tế gọi là Cun Không Doi, tục gọi là
Cun Khóồng, tên nôm là chàng quây
nước mạ. Không nhất thiết các gia đình
phải lập bàn thờ riêng trong nhà. Một
số nhà theo lệ cổ của tổ tiên thì lập bàn
thờ Cưn Khôổông ö đầu hồi nhà. Lệ tục
định ra rằng mỗi khi hộ gia đình ở xóm,
mường chọn đất cày bừa, mang thóc
giống ra ngâm và mang ra ruộng gieo mạ
thì phải cúng thần Cưn Khôồng (vị thần
nông nghiệp) bảo trợ cho hạt giống phát
triển. Sau lễ cúng, gia chủ ra đồng tháo
nước vào các ruộng mạ vừa gIeo.
Người Mường ở các mường Bì,
Vang, Thàng Động vào dịp đầu xuân,
khi có tiếng sấm, những trận mưa xuân
bắt đầu, họ làm lễ khai mở mùa cày
cấy, cúng cầu lúa còn gọi là huống
mùa. Mỗi mường, hình thức tổ chức có
khác nhau, ở mường Bi xưa kia 3 năm
mới tổ chức một lần. Ngày tổ chức lễ dân
chúng toàn mường đến dự, ông mo thay
mặt dân trong mường, mặc áo thụng đội
mũ tai én làm lễ khấn Thánh Tân phù
trợ mùa màng tốt tươi. Dân mường mổ
một con hoằng đi săn được, nếu không có
sẽ mổ bò để cúng, kiêng không mổ trâu.
Trong lễ này, thầy mo thay mặt cho cộng
đồng mời tất cả thánh thần xa gần về
chứng giám và phù hộ cho mưa thuận,
gió hoà, mùa màng cây cối tốt tươi.
Trước khi chuẩn bị cấy, từng nhà
làm lễ đếốp rác mạ (đắp nước mạ) để
lấy nước cho ruộng mạ. Nhà khá giả lễ
vật có thịt chó và xôi, nhà nghèo phải
có thịt gà, cá. Cúng lễ xong, mọi người
trong gia đình ra đồng sửa bờ, đắp bờ
chắc chắn rồi tháo nước cho chảy vào
ruộng”, Người Mường ở xã Lai Đồng,
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ lại có
tục chờm thau cầu lúa (đánh công cầu
lúa). Trước kia, ngày làm lễ do thầy mo
định. Được ngày tốt nhà lang báo cho
dân làng biết, rồi vào tối hôm trước lễ,
trai gái trẻ già kéo đến nhà lang. Khi
hành lễ ông mo khấn cầu mong trời đất
phù hộ cho cây lúa tốt tươi, sau đó ông
mo hát thường rang cho người già nghe,
còn trai gái hát ví cho đến quá nửa đêm
mới đi ngủ và ngủ ngay tại nhà lang.
Sáng ra, trở dậy, họ cùng đi nhổ mạ cấy
lúa cho nhà lang. Từ hôm sau toàn dân
làng mới cấy ruộng nhà mình.
Cày bừa xong, khi cấy và cũng như
lúc lúa ra đòng, đồng bào đều tổ chức lễ
cúng thần nước, thần lúa. Sắp đến ngày
gặt hái lại làm lễ vái /ó (vía lúa), từng
nhà đến ruộng của mình chọn ngắt 3
bông lúa rồi khấn cầu:
"Lúa ơi, lúa ơi
Mày đã chín rồi
Tao lấy uía mày uề nhò trước
Mai bia tao gặt mày 0ề ".
Sau đó mang bông lúa về giắt lên
mái tranh nơi cầu thang vào nhà.
Vào lúc lúa đã bén rễ, mỗi gia đình
trong làng mang một con gà, một bát
gạo tới miếu làm lễ £hửơ lá lọ (rửa lá
lúa). Gà được mổ thịt lấy lông cánh cắm
vòng quanh miệng các sọt tre đan sẵn
từ trước đặt ở đầu ruộng tượng trưng
cho các bông lúa, sau đó mời thầy mo
tới hành lễ với mục đích cầu được mùa,
không có chìm, chuột phá hoại.
Sau khi gặt lúa xong, đồng bào chọn
ngày tốt (ngày chăn) giã gạo, đồ xôi,
thịt gà và ra suối đánh cá làm Ìê cơm
mới. Hôm đó, gia đình phải nấu cơm
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ö9
nhiều hơn ngày thường theo quan niệm
làm như thế vụ tới mới được mùa.
Trước lúc ăn mừng sản phẩm nông
nghiệp do mình làm ra, chủ nhà không
quên mang thức ăn cho trâu, chó với
ngầm ý là: vật nuôi trong nhà cùng chia
vui với người. Nếu nhà có khách, tuyệt
đối không cho ăn cơm mới vì sợ rằng
lúa gạo sẽ theo khách ra đi, mùa màng
năm tới sẽ thất thu.
Năm nào hạn hán kéo dài, người
Mường còn tổ chức lễ cầu mưa, người
trong làng kéo nhau ra đầu nguồn nước
để hành lễ. Theo quan niệm của người
Mường, nơi đó là chỗ thần nước ở, thần
nước ngủ quên không nghe tiếng sấm
đậy. Mâm lễ phải có gà sống trắng,
trứng, gạo. Sau khi tế lễ dân làng tới
đầu nguồn nước ném đá để đánh thức
thần nước dậy.
Khi làm nương, gieo hạt xong,
người Mường cũng gọi vía, với lòng
mong muốn lúa mọc tốt:
"Lúa ơi, lúa ơi
Một mầm, một cây
Ra hoa chắc quả
Ba nắm một quẩy
Sáu nắm một gánh".
Đọc xong, chủ nhà vác gậy chọc lỗ
đi vòng quanh nương một lượt.
Trong việc săn bắn, đánh cá cũng
tiến hành nghi lễ cầu xin thần rừng,
thần sông suối phù hộ. Chẳng hạn,
người Mường ở Thanh Sơn mở hội đầu
xuân bằng cuộc đi săn tập thể của cả
làng và bắt buộc phải săn cho được con
mổi để cầu may, cầu thịnh. Người
Mường ở xã Thạch Kiệt, huyện Thanh
Sơn còn có tục hăng năm, sau hai ngày
ăn Tết Nguyên đán, sáng mồng 3, dân
làng gọi nhau ra vực Sặc gần làng. Tới
nơi, họ chia nhau, người lội nước, người
lên mảng, dùng tay, dùng gậy, đập té
nước vang động góc trời, cốt làm cho cá
hoảng hốt đâm chui vào bø. Người trên
bờ cũng a1 vào việc nấy. Người chặt cây
bẻ lá, người chẻ lạt, bắc sàn sạp ngay
trên bãi có bìa rừng, sửa soạn nơi cầu
tế mừng xuân vào ngày hôm sau, mồng
4 Tết. Đoàn người xua cá một hồi lâu
thì kéo bự lên bãi. Các già làng được
mời ra chọn cá, những con to nhất, tươi
khoẻ được giữ lại, thả vào giỏ, nuôi đến
hôm sau mới dùng vào hội. Số cá còn lại
chia đều cho mọi gia đình mang về làm
cỗ cúng; đây là quà đầu xuân của làng
cho lấy may,
Người Mường ở xã Tất Thắng,
huyện Thanh Sơn Phú Thọ có lê đóng
cửa rừng vào ngày 25 tháng chạp với ý
nghĩa tạm ngừng công việc sản xuất và
săn bắn, hái lượm dành thời gian cho
mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, tết lễ.
Vào những ngày này nếu al làm việc gì
đó, kể cả chặt củi ở nhà sẽ không gặp
may trong năm (gọi là mất đông). Đến
ngày 8 tháng giêng lại có lê mở cửa rừng.
Mỗi gia đình làm một mâm xôi, con gà,
rượu mang ra đình để nhà Lang cúng các
vị thần linh. Sau lễ này mọi người mới
được đi làm các công việc đồng áng, vào
rừng hái lượm và săn bắt. _
3. Tín ngưỡng chữa bệnh
Trong ngôi nhà của người Mường,
dưới mái tranh thường có những chiếc
giỏ đan mắt cáo, tiếng Mường gọi là nợ
mụ (giữ vía). Bao nhiêu nạ mụ là bấy
nhiêu người con.
Lễ nạ mụ tổ chức sau một tuần khi
đứa trẻ ra đời với mục đích giữ vía. Bên
trong nạ mự người ta để một ngọn mía,
một đôi đũa. Người Mường quan niệm
vía của đứa trẻ do một bà mụ trên trời
cai quản, làm nạ mự là làm nhà để bà
ta biết chỗ ở của vía, thỉnh thoảng bà
về săn sóc cho khỏi ốm đau, mau ăn
40
NGUYỄN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH
chóng khoẻ. Người Mường ở Phù Yên
(Sơn La) lại đan một tấm phên thưa
khoảng 30 x 90 em bằng lạt mỏng. Hai
cạnh dài mỗi bên nẹp một thanh tre
bằng chiếc đũa đài khoảng 40 em. Đan
xong buộc hai đầu (cùng phía) chéo lại,
đầu kia loe ra như cái thuổng, gọi là £há
mụ. Treo thá mụ được tiến hành khi đứa
trẻ được 30 ngày, thậm chí 90 ngày. Vào
ngày làm lễ gia đình mời ông mo tới,
người ta bày £hđ mụ trước mâm lễ, trước
mặt ông mo. Sau khi làm lễ xong, gói một
ít thức ăn đắt vào thứ mụ rồi cài lên mái
tranh nơi đứa trẻ nằm ngủ hàng ngày.”
Nạ mụ của mỗi người để trong nhà
cho tới lúc về già. Khi ốm đau bệnh tật
người già làm lễ uoái thốn (làm vía
rắn), người đến tuổi già cảm thấy sức
bắt đầu suy, cũng như người chuẩn bị
đi xa thường làm lễ này nhằm tăng
cường sức lực cho mình. Lễ này không
cố định thời gian, khi cần thì làm lễ và
chỉ dành cho đàn ông với mục đích cầu
mạnh khoẻ, tẩy rửa bệnh tật, xấu xa ra
khỏi thân thể. Lễ vật gồm một con gà
trống chưa đạp mái, một chai rượu, bát
cơm và nhất thiết phải kiếm cho đủ
chín thứ gai nhọn, hứng đủ chín giọt
nước của chín con suối và phải có chín
loại lá cây trên rừng, trong đó phải có
cây lá lút, 9 đôi đũa bằng cuống lá lút,
một tàu cọ, 3ä con dao nhọn hoặc lưỡi
mác, một bát nước có que tăm bắc
ngang, chín chén rượu, ba bát xôi nếp.
Khi tổ chức làm lễ uoái thắn, người ta
trải chiếu trước cửa số gian khách rồi
bày lễ vật lên trên, cạnh mâm lễ bên
tay phải đặt túi bùa của thầy mo và áo
của người được làm lễ. Khi làm lễ, ông
mo đọc bài khãn vía, mo xong, các thức
ăn trên mâm được dọn đi, riêng gai và
lá cây được cuốn tròn trong tàu cọ buộc
túm hai đầu, rồi treo lên mái nhà. Dưới
mắt người nghiên cứu dân tộc học tôn
giáo, tục làm vía rắn không thể không
có những mối quan hệ dù xa xôi, với
ˆ UY -“ ~ FY . - R
một quan niệm rất cô về linh hồn”).
Nhìn chung giữa tôn giáo cộng đồng
và tôn giáo gia đình thường khó phân
biệt. Tuy nhiên, hầu như mọi nghỉ lễ
tôn giáo trong gia đình đều không tách
khỏi cộng đồng làng. Có những lễ nghỉ
do các gia đình đồng loạt tiến hành vào
một ngày nhất định như: lễ xuống
đồng, lễ uuoới ió (vía lúa). Cũng có nghỉ
lễ như lễ cầu lúa toàn thể dân làng tập
trung đến dự lễ ở một nhà. Những nghi
lễ tôn giáo chung của cả làng (thờ
thành hoàng) muốn thực hiện được
phải có sự đóng góp về vật chất, công
sức của cả cộng đồng.
4. Những biến đổi của tôn giáo
tín ngưỡng Mường
Từ sau Cách mạng tháng Tâm
(1945), đặc biệt là từ sau năm 1954,
trên vùng Mường đã diễn ra sự biến đổi
sâu sắc về kinh tế, xã hội, văn hoá.
Trong tín ngưỡng, tôn giáo dân gian
Mường nhiều tập tục cũ không còn,
nhất là những lễ thức liên quan đến
nhà lang bây giò chỉ còn trong hồi ức
của người già như: /ễ đánh công cầu
lúa, lê huống mùa.
Tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng
như: Thờ Tản Viên, Thờ Quốc mẫu, thờ
thổ công, thờ tổ tiên vẫn tồn tại và hằn
sâu trong tâm thức người Mường, nhưng
nghi lễ và lễ vật có phần giảm, bớt tốt
kém hơn. Có thể nói rằng, cho dù thời đại
có chuyển biến đến đâu, khoa học kỹ
thuật và các phương tiện thông tin hiện
đại đến đâu, nền công nghiệp phát triển
mạnh mẽ nhường nào thì những tục thờ
này vẫn cứ tồn tại trong đời sống mỗi gia
(Xem tiếp trang 14)
14
“`... .uuouadnininir..ẳ.ằ..x..ằ.ư.ẽ.wn
VÀI GHI NHẬN VỀ...
(Tiếp theo trang 40)
đình người Mường. Một số tín ngưỡng
liên quan đến nông nghiệp đây đó vẫn
được duy trì nhưng không trở thành
thường xuyên như trước. Tín ngưỡng liên
quan đến chữa bệnh vẫn còn, mặc dù ốm
đau người dân đã đến trạm xá, bệnh viện
để chữa bệnh, nhưng niềm tin vào thần
linh xem ra còn ảnh hưởng sâu nặng
trong tầng lớp người già.
Nhìn chung lại, một số tín ngưỡng
dân gian của người Mường được nêu ra
ở đây, nếu lược bỏ đi những yếu tố mê
tín, thì đã và đang góp phần gìn giữ
bản sắc văn hoá dân tộc Mường trong
khung cảnh hiện đại hoá, công nghiệp
hoá đất nước.
N.N.T-H.V.L
TÀI LIỆU DẪN
1. Đặng Nghiêm Vạn, “Tín ngưỡng, tôn
giáo" trong sách Các dân tộc Tàèy, Nùng ở
Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội, 1992.
2. Ngô Đức Thịnh, "Mấy ghi nhận về
thánh Tân Viên trong tín ngưỡng dân gian
Việt Nam”, Văn hoá dân gian 1/1997.
3. Nguyễn Hữu Thức, "Tín ngưỡng dân
gian Mường tỉnh Hoà Bình" trong sách Tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, 2001.
4. Đặng Nghiêm Vạn, Về tôn giáo, tín
ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb BHXH, Hà
Nội, 1996.
5, Nguyễn Ngọc Thanh, "Một vài tư liệu
về lễ nghi nông nghiệp của các dân tộc ít
người ở Hà Sơn Bình", Văn hoá dân gian
4/1990.
6. Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú, Văn
hoá dân gian uùng đất tổ, Vĩnh Phú 1986.
7. Đinh Văn Ân, Mo Voái, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội, 1999.
8. Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên
cứu Văn hoá uà Văn hoá tộc người, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1996.