36
NGUYÊN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH

VÀI GHI NHÂN VỀ TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN
CỦA NGƯỜI MƯỜNG
NGUYÊN NGỌC THANH - HÀ VĂN LINHỀ)
1a bàn sinh sống của người Mường Z9. Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ, Sơn La... vốn gần với người Kinh và người Thái. Do vậy, ảnh hưởng qua lại về văn hoá, nhất là văn hoá vật chất (ăn, ở, mặc) giữa các tộc người này là hiển nhiên. Tuy nhiên, văn hoá tỉnh thần (tôn giáo, tín ngưỡng) ở người Mường vẫn được bảo lưu, ít bị ảnh hưởng của các tộc người khác.
1. Tục thờ thần bản mệnh, thổ công, cúng tổ tiên.
Một đặc điểm nổi bật của xã hội phương Đông là suy tôn một cá nhân làm người đại diện cho toàn thể cộng đồng. Người đó có thể là một vị thần linh “đầu thai” xuống trần gian cai trị thiên hạ, thường là con trời'”, có khi là những thần tự nhiên như thần sông, thần núi, có khi là những thần vì một lý do gì đó có một quan hệ vô hình với cộng đồng, nhưng phần lớn là những người có công với làng, với dân tộc. Ở người Mường là việc thờ đức thánh Tản Viên, người Mường tôn kính gọi là Bua Thơ, Bua Pa Vị (vị vua ở núi Ba Vì). Ông là nhân vật huyền thoại, "đi mây về gió”, “ban phúc trừ tà” cho nhân gian và được thờ phụng ở hầu khắp các gia đình ngươi Mưởỡng, ngoài ra còn được thờ ở đền miếu thuộc huyện Ba Vì,
(*} xy:a ˆ a Viện Dân tộc học.
tình Hà Tây; huyện Lương Sơn, Tân Lạc, Kim Bôi, Lạc Sơn, tĩnh Hoà Bình, huyện Thanh Sơn, Yên Lập tỉnh Phú Thọ... Bàn thờ Tân Viên trong ngôi nhà người Mường được col là nơi linh thiêng nhất. Theo tập quán, phụ nữ không được nằm ở gian có bàn thờ Tân Viên. Khi treo nỏ ở vách nhà tránh để mũi nỏ và mũi tên hướng vào bàn thờ.
Ngày 37 tháng chạp hằng năm các gia đình Mường sửa lễ cúng Tân Viên để đón mừng năm mới. Mùng 3 tết gia chủ có mâm cơm cúng với mục đích đón thần Tân Viên về ngự trị tại nhà. Trong năm, vào ngày rằm tháng bẩy, nhà nào có bàn thờ Tân Viên lại làm cô cúng. Chủ yếu là cỗ chay, gồm: xôi, chuối, chè, oän nhất thiết phải có quả đu đủ luộc. Nếu nhà nào sửa cỗ mặn thì làm cá nướng sau đó cho đồ chín bày lên mâm cúng. Nhà nào định thịt gà cúng phải nhốt 3 ngày cho ăn thức ăn sạch sẽ,
Đền, miếu thờ Tân Viên thường được lập ở các trung tâm mường. Chăng hạn, ở mường Bi, dân làng lập miếu lớn thờ Tân Viên. Hằng năm, vào ngày 7 tháng giêng dân chúng toàn mường đến rước kiệu đưa thánh Tần từ bãi vào miếu. Với người Mường, Tân Viên không chỉ là vị sơn thần trong tín ngưỡng phong thuỷ của mình, mà còn là vị anh hùng trong chiến tranh chống Thuy Tinh (chống lụt lội); đánh Thục Phán giúp vua Hùng, là vị thuỷ tổ dân tộc dòng dõi Lạc Long Quân - Âu Cơ, là vị vua thần. ”” Không chỉ thờ Tản Viên, ở người Mường còn thờ Quốc mẫu vua bà và gọi bà là Chúa thượng ngàn (mẹ của núi rừng).
Theo ngọc phả ghi lại bằng chữ Hán còn lưu lại ở một số đền trên đất Hoà Bình, thì vua bà là mẹ của thần Tân NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Viên. Truyền rằng bà chia tay chồng đem một số người con đi mở mang đất nước ở vùng thượng sông Đà và có công khai phá vùng đất mường Thàng, mường Bi, mường Vang, mường Động, mường Âm cuối cùng về mường Lão, huyện Yên Thuỷ, Hoà Bình ngày nay và cư trú ở đó. Thời đó, đi khai phá đất đai, đến đâu bà cũng dạy dân bắt trâu rừng về thuần dưỡng thành trâu nhà, dạy cách làm nó để bắn chim, dạy cách đánh cá, trồng lúa và ca hát. Tưởng nhớ công ơn của bà, dân Mường lập đền thờ cúng vào mồng một, hôm rằm, do gia đình hoặc dòng họ tiến hành?
Thờ thổ công xuất hiện khá phổ biến trong các gia đình người Mường. Vào bất cứ ngôi nhà nào của người Mường, chúng ta thường thấy ở sân trước hoặc ở đầu nhà có một nhà thờ nhỏ làm bằng tre, mái tranh. Đấy là nơi thờ thổ công, vị thần cai quản đất đai của gia đình. Nghi lễ cúng thổ công do gia đình thực hiện vào bất cứ thời điểm nào khi gia đình có công việc. Tuy nhiên, có một ngày hầu khắp các gia đình Mường đều sửa lễ cúng thổ công đó là ngày mùng một Tết, mở đầu một năm mới.
Tổ tiên được coi như là thần bản mệnh của gia đình, dòng họ. Do đó, tổ tiên được con cháu còn sống tưởng niệm, có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc theo tục lệ để được yên vui bên kia thế giới, được về quây quần xum họp với con cháu còn sống và che chở cho con cháu được nên người, nhằm bảo vệ và duy trì danh dự của dòng họ mình”?. Trong nhà người Mường thưởng có một bàn thờ tổ tiên được đặt ở giưn 0uoóng (gian khách), tuỳ theo cách bố trí của từng gia đình mà vị trí bàn thờ có thể

đặt khác nhau, một số gia đình làm giá treo trên vách nhà, một số khác lại dùng bàn uống nước để làm bàn thờ. Nhiều nhà còn trạm trổ hình con rồng, con hạc, hoa sen, hoa hồng. Trước đây, bàn thờ nhà lang còn có đỉnh thắp hương, có mâm quả đựng đồ cúng lễ và có cä bài vị khắc tên người chết. Trên bàn thờ tổ tiên có ảnh của người đã mất (cha mẹ, ông bà), trước bức ảnh là một bát hương bằng sứ. Hằng năm vào ngày 29, 30 và sáng sớm mùng một Tết Nguyên đán, từng gia đình tiến hành lễ cúng tổ tiên. Theo quan niệm của người Mường, cúng vào những ngày đầu năm mới tổ tiên sẽ về đông đủ, cùng “ăn Tết” với cháu con. Trên bàn thờ tổ tiên, người ta bày tất cả thức ăn, các loại bánh có trong ngày Tết, và nhất thiết phải có một ít muối, một chiếc tăm tre, một chén nước. Chủ gia đình đứng trước bàn thờ đọc bài khấn với hàm ý mong tổ tiên phù hộ cho một năm mùa màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà không bị dịch bệnh, mọi người trong gia đình luôn mạnh khoẻ, không ốm đau bệnh tật. Sau bài khấn, theo tục lệ, chủ gia đình còn xin âm dương bằng cách tung hai đồng tiền cổ lên, khi rơi xuống một đồng sấp một đồng ngửa là đã được tổ tiên đồng ý. Nếu không được như vậy, chủ nhà tiếp tục khấn lại và xin âm dương đến khi nào được mới thôi. Người Mường không có tục thờ cúng hằng năm vào ngày mất. của (cha mẹ, ông bà).
Giống như ở người Việt, ở người Mường rất phổ biến tục thờ thành hoàng mà phần lớn là những người có công khai phá đất đai, tạo dựng bản, mường. Xưa kia thành hoàng thường được cúng tế vào dịp tết do nhờ lang chủ trì và có sự tham gia của cả dân làng. 38
NGUYÊN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH


2. Tín ngưỡng nông nghiệp
Với cuộc sống dựa trên nền tảng nông nghiệp ruộng nước vì vậy người Mường tiến hành nhiều nghi lễ nhằm cầu xin bảo vệ mùa màng.
Đầu năm, người Mường ở Lương Sơn, Hoà Bình duy trì lễ cúng thần nông nghiệp và tôn xưng là vua Đoiỉ, văn tế gọi là Cun Không Doi, tục gọi là Cun Khóồng, tên nôm là chàng quây nước mạ. Không nhất thiết các gia đình phải lập bàn thờ riêng trong nhà. Một số nhà theo lệ cổ của tổ tiên thì lập bàn thờ Cưn Khôổông ö đầu hồi nhà. Lệ tục định ra rằng mỗi khi hộ gia đình ở xóm, mường chọn đất cày bừa, mang thóc giống ra ngâm và mang ra ruộng gieo mạ thì phải cúng thần Cưn Khôồng (vị thần nông nghiệp) bảo trợ cho hạt giống phát triển. Sau lễ cúng, gia chủ ra đồng tháo nước vào các ruộng mạ vừa gIeo.
Người Mường ở các mường Bì, Vang, Thàng Động vào dịp đầu xuân, khi có tiếng sấm, những trận mưa xuân bắt đầu, họ làm lễ khai mở mùa cày cấy, cúng cầu lúa còn gọi là huống mùa. Mỗi mường, hình thức tổ chức có khác nhau, ở mường Bi xưa kia 3 năm mới tổ chức một lần. Ngày tổ chức lễ dân chúng toàn mường đến dự, ông mo thay mặt dân trong mường, mặc áo thụng đội mũ tai én làm lễ khấn Thánh Tân phù trợ mùa màng tốt tươi. Dân mường mổ một con hoằng đi săn được, nếu không có sẽ mổ bò để cúng, kiêng không mổ trâu. Trong lễ này, thầy mo thay mặt cho cộng đồng mời tất cả thánh thần xa gần về chứng giám và phù hộ cho mưa thuận, gió hoà, mùa màng cây cối tốt tươi.
Trước khi chuẩn bị cấy, từng nhà làm lễ đếốp rác mạ (đắp nước mạ) để lấy nước cho ruộng mạ. Nhà khá giả lễ vật có thịt chó và xôi, nhà nghèo phải
có thịt gà, cá. Cúng lễ xong, mọi người trong gia đình ra đồng sửa bờ, đắp bờ chắc chắn rồi tháo nước cho chảy vào ruộng”, Người Mường ở xã Lai Đồng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ lại có tục chờm thau cầu lúa (đánh công cầu lúa). Trước kia, ngày làm lễ do thầy mo định. Được ngày tốt nhà lang báo cho dân làng biết, rồi vào tối hôm trước lễ, trai gái trẻ già kéo đến nhà lang. Khi hành lễ ông mo khấn cầu mong trời đất phù hộ cho cây lúa tốt tươi, sau đó ông mo hát thường rang cho người già nghe, còn trai gái hát ví cho đến quá nửa đêm mới đi ngủ và ngủ ngay tại nhà lang. Sáng ra, trở dậy, họ cùng đi nhổ mạ cấy lúa cho nhà lang. Từ hôm sau toàn dân làng mới cấy ruộng nhà mình.
Cày bừa xong, khi cấy và cũng như lúc lúa ra đòng, đồng bào đều tổ chức lễ cúng thần nước, thần lúa. Sắp đến ngày gặt hái lại làm lễ vái /ó (vía lúa), từng nhà đến ruộng của mình chọn ngắt 3 bông lúa rồi khấn cầu:
"Lúa ơi, lúa ơi
Mày đã chín rồi
Tao lấy uía mày uề nhò trước
Mai bia tao gặt mày 0ề ".
Sau đó mang bông lúa về giắt lên mái tranh nơi cầu thang vào nhà.
Vào lúc lúa đã bén rễ, mỗi gia đình trong làng mang một con gà, một bát gạo tới miếu làm lễ £hửơ lá lọ (rửa lá lúa). Gà được mổ thịt lấy lông cánh cắm vòng quanh miệng các sọt tre đan sẵn từ trước đặt ở đầu ruộng tượng trưng cho các bông lúa, sau đó mời thầy mo tới hành lễ với mục đích cầu được mùa, không có chìm, chuột phá hoại.
Sau khi gặt lúa xong, đồng bào chọn ngày tốt (ngày chăn) giã gạo, đồ xôi, thịt gà và ra suối đánh cá làm Ìê cơm mới. Hôm đó, gia đình phải nấu cơm NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ö9


nhiều hơn ngày thường theo quan niệm làm như thế vụ tới mới được mùa. Trước lúc ăn mừng sản phẩm nông nghiệp do mình làm ra, chủ nhà không quên mang thức ăn cho trâu, chó với ngầm ý là: vật nuôi trong nhà cùng chia vui với người. Nếu nhà có khách, tuyệt đối không cho ăn cơm mới vì sợ rằng lúa gạo sẽ theo khách ra đi, mùa màng năm tới sẽ thất thu.
Năm nào hạn hán kéo dài, người Mường còn tổ chức lễ cầu mưa, người trong làng kéo nhau ra đầu nguồn nước để hành lễ. Theo quan niệm của người Mường, nơi đó là chỗ thần nước ở, thần nước ngủ quên không nghe tiếng sấm đậy. Mâm lễ phải có gà sống trắng, trứng, gạo. Sau khi tế lễ dân làng tới đầu nguồn nước ném đá để đánh thức thần nước dậy.
Khi làm nương, gieo hạt xong, người Mường cũng gọi vía, với lòng mong muốn lúa mọc tốt:
"Lúa ơi, lúa ơi
Một mầm, một cây
Ra hoa chắc quả
Ba nắm một quẩy
Sáu nắm một gánh".
Đọc xong, chủ nhà vác gậy chọc lỗ đi vòng quanh nương một lượt.
Trong việc săn bắn, đánh cá cũng tiến hành nghi lễ cầu xin thần rừng, thần sông suối phù hộ. Chẳng hạn, người Mường ở Thanh Sơn mở hội đầu xuân bằng cuộc đi săn tập thể của cả làng và bắt buộc phải săn cho được con mổi để cầu may, cầu thịnh. Người Mường ở xã Thạch Kiệt, huyện Thanh Sơn còn có tục hăng năm, sau hai ngày ăn Tết Nguyên đán, sáng mồng 3, dân làng gọi nhau ra vực Sặc gần làng. Tới nơi, họ chia nhau, người lội nước, người lên mảng, dùng tay, dùng gậy, đập té
nước vang động góc trời, cốt làm cho cá hoảng hốt đâm chui vào bø. Người trên bờ cũng a1 vào việc nấy. Người chặt cây bẻ lá, người chẻ lạt, bắc sàn sạp ngay trên bãi có bìa rừng, sửa soạn nơi cầu tế mừng xuân vào ngày hôm sau, mồng 4 Tết. Đoàn người xua cá một hồi lâu thì kéo bự lên bãi. Các già làng được mời ra chọn cá, những con to nhất, tươi khoẻ được giữ lại, thả vào giỏ, nuôi đến hôm sau mới dùng vào hội. Số cá còn lại chia đều cho mọi gia đình mang về làm cỗ cúng; đây là quà đầu xuân của làng
cho lấy may,
Người Mường ở xã Tất Thắng, huyện Thanh Sơn Phú Thọ có lê đóng cửa rừng vào ngày 25 tháng chạp với ý nghĩa tạm ngừng công việc sản xuất và săn bắn, hái lượm dành thời gian cho mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, tết lễ. Vào những ngày này nếu al làm việc gì đó, kể cả chặt củi ở nhà sẽ không gặp may trong năm (gọi là mất đông). Đến ngày 8 tháng giêng lại có lê mở cửa rừng. Mỗi gia đình làm một mâm xôi, con gà, rượu mang ra đình để nhà Lang cúng các vị thần linh. Sau lễ này mọi người mới được đi làm các công việc đồng áng, vào rừng hái lượm và săn bắt. _
3. Tín ngưỡng chữa bệnh
Trong ngôi nhà của người Mường, dưới mái tranh thường có những chiếc giỏ đan mắt cáo, tiếng Mường gọi là nợ mụ (giữ vía). Bao nhiêu nạ mụ là bấy nhiêu người con.
Lễ nạ mụ tổ chức sau một tuần khi đứa trẻ ra đời với mục đích giữ vía. Bên trong nạ mự người ta để một ngọn mía, một đôi đũa. Người Mường quan niệm vía của đứa trẻ do một bà mụ trên trời cai quản, làm nạ mự là làm nhà để bà ta biết chỗ ở của vía, thỉnh thoảng bà về săn sóc cho khỏi ốm đau, mau ăn 40
NGUYỄN NGỌC THANH-HÀ VĂN LINH

chóng khoẻ. Người Mường ở Phù Yên (Sơn La) lại đan một tấm phên thưa khoảng 30 x 90 em bằng lạt mỏng. Hai cạnh dài mỗi bên nẹp một thanh tre bằng chiếc đũa đài khoảng 40 em. Đan xong buộc hai đầu (cùng phía) chéo lại, đầu kia loe ra như cái thuổng, gọi là £há mụ. Treo thá mụ được tiến hành khi đứa trẻ được 30 ngày, thậm chí 90 ngày. Vào ngày làm lễ gia đình mời ông mo tới, người ta bày £hđ mụ trước mâm lễ, trước mặt ông mo. Sau khi làm lễ xong, gói một ít thức ăn đắt vào thứ mụ rồi cài lên mái tranh nơi đứa trẻ nằm ngủ hàng ngày.” Nạ mụ của mỗi người để trong nhà cho tới lúc về già. Khi ốm đau bệnh tật người già làm lễ uoái thốn (làm vía rắn), người đến tuổi già cảm thấy sức bắt đầu suy, cũng như người chuẩn bị đi xa thường làm lễ này nhằm tăng cường sức lực cho mình. Lễ này không cố định thời gian, khi cần thì làm lễ và chỉ dành cho đàn ông với mục đích cầu mạnh khoẻ, tẩy rửa bệnh tật, xấu xa ra khỏi thân thể. Lễ vật gồm một con gà trống chưa đạp mái, một chai rượu, bát cơm và nhất thiết phải kiếm cho đủ chín thứ gai nhọn, hứng đủ chín giọt nước của chín con suối và phải có chín loại lá cây trên rừng, trong đó phải có cây lá lút, 9 đôi đũa bằng cuống lá lút, một tàu cọ, 3ä con dao nhọn hoặc lưỡi mác, một bát nước có que tăm bắc ngang, chín chén rượu, ba bát xôi nếp. Khi tổ chức làm lễ uoái thắn, người ta trải chiếu trước cửa số gian khách rồi bày lễ vật lên trên, cạnh mâm lễ bên tay phải đặt túi bùa của thầy mo và áo của người được làm lễ. Khi làm lễ, ông mo đọc bài khãn vía, mo xong, các thức ăn trên mâm được dọn đi, riêng gai và lá cây được cuốn tròn trong tàu cọ buộc túm hai đầu, rồi treo lên mái nhà. Dưới
mắt người nghiên cứu dân tộc học tôn giáo, tục làm vía rắn không thể không có những mối quan hệ dù xa xôi, với
ˆ UY -“ ~ FY . - R một quan niệm rất cô về linh hồn”).
Nhìn chung giữa tôn giáo cộng đồng và tôn giáo gia đình thường khó phân biệt. Tuy nhiên, hầu như mọi nghỉ lễ tôn giáo trong gia đình đều không tách khỏi cộng đồng làng. Có những lễ nghỉ do các gia đình đồng loạt tiến hành vào một ngày nhất định như: lễ xuống đồng, lễ uuoới ió (vía lúa). Cũng có nghỉ lễ như lễ cầu lúa toàn thể dân làng tập trung đến dự lễ ở một nhà. Những nghi lễ tôn giáo chung của cả làng (thờ thành hoàng) muốn thực hiện được phải có sự đóng góp về vật chất, công sức của cả cộng đồng.
4. Những biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng Mường
Từ sau Cách mạng tháng Tâm (1945), đặc biệt là từ sau năm 1954, trên vùng Mường đã diễn ra sự biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, văn hoá. Trong tín ngưỡng, tôn giáo dân gian Mường nhiều tập tục cũ không còn, nhất là những lễ thức liên quan đến nhà lang bây giò chỉ còn trong hồi ức của người già như: /ễ đánh công cầu lúa, lê huống mùa.
Tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng như: Thờ Tản Viên, Thờ Quốc mẫu, thờ thổ công, thờ tổ tiên vẫn tồn tại và hằn sâu trong tâm thức người Mường, nhưng nghi lễ và lễ vật có phần giảm, bớt tốt kém hơn. Có thể nói rằng, cho dù thời đại có chuyển biến đến đâu, khoa học kỹ thuật và các phương tiện thông tin hiện đại đến đâu, nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ nhường nào thì những tục thờ này vẫn cứ tồn tại trong đời sống mỗi gia
(Xem tiếp trang 14) 14
“`... .uuouadnininir..ẳ.ằ..x..ằ.ư.ẽ.wn
VÀI GHI NHẬN VỀ... (Tiếp theo trang 40)
đình người Mường. Một số tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp đây đó vẫn được duy trì nhưng không trở thành thường xuyên như trước. Tín ngưỡng liên quan đến chữa bệnh vẫn còn, mặc dù ốm đau người dân đã đến trạm xá, bệnh viện để chữa bệnh, nhưng niềm tin vào thần linh xem ra còn ảnh hưởng sâu nặng trong tầng lớp người già.
Nhìn chung lại, một số tín ngưỡng dân gian của người Mường được nêu ra ở đây, nếu lược bỏ đi những yếu tố mê tín, thì đã và đang góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc Mường trong khung cảnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước.
N.N.T-H.V.L
TÀI LIỆU DẪN
1. Đặng Nghiêm Vạn, “Tín ngưỡng, tôn giáo" trong sách Các dân tộc Tàèy, Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội, 1992.
2. Ngô Đức Thịnh, "Mấy ghi nhận về thánh Tân Viên trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”, Văn hoá dân gian 1/1997.
3. Nguyễn Hữu Thức, "Tín ngưỡng dân gian Mường tỉnh Hoà Bình" trong sách Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2001.
4. Đặng Nghiêm Vạn, Về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb BHXH, Hà Nội, 1996.
5, Nguyễn Ngọc Thanh, "Một vài tư liệu về lễ nghi nông nghiệp của các dân tộc ít người ở Hà Sơn Bình", Văn hoá dân gian 4/1990.
6. Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú, Văn hoá dân gian uùng đất tổ, Vĩnh Phú 1986.
7. Đinh Văn Ân, Mo Voái, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1999.
8. Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu Văn hoá uà Văn hoá tộc người, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1996.