TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
TINH SẠCH VÀ NUÔI CẤY TẾ BÀO DIỆT TỰ NHIÊN (NK)<br />
CHO ỨNG DỤNG LÂM SÀNG<br />
Natalia Lapteva1, Susann M. Szmania2, Frits van Rhee2, Cliona M. Rooney1<br />
1<br />
<br />
Trung tâm nghiên cứu Gene và Tế bào, Đại học Y Baylor, Houston, TX 77030;<br />
2<br />
Đại học Y Arkansas, Little Rock, AK 72205<br />
<br />
Người dịch: BS. Lương Hoàng Long<br />
Hiệu đính: TS.BS. Nguyễn Thanh Bình<br />
Trường Đại học Y Hà Nội<br />
*Bản dịch này người dịch đã cố gắng truyền tải thông tin một cách sát nghĩa và dễ hiểu nhất đến với bạn<br />
đọc. Tuy nhiên cũng có thể xảy ra sai sót do chưa thống nhất về một số thuật ngữ và khái niệm mới. Chúng<br />
tôi không chịu trách nhiệm về bất kỳ sai sót y khoa nào khi tham khảo, trích dẫn bài dịch này. Mọi thông tin<br />
chính xác và đầy đủ nhất xin xem bài báo nguyên gốc theo link dưới đây: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/<br />
pubmed/24941378 (Critical Reviews™ in Oncogenesis, 19(1 - 2): 121 – 132 (2014)).<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tế bào diệt tự nhiên Natural Killer (NK) đã được chứng minh có vai trò quan trọng trong đáp ứng chống<br />
lại khối u và do đó đã được ứng dụng như là một liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư. Trong nghiên<br />
cứu này chúng tôi khái quát các phương pháp hiện có dùng để kích hoạt, làm giàu, nhân dòng và vận<br />
chuyển các chế phẩm tế bào NK dùng cho mục đích lâm sàng.<br />
Từ khóa: tế bào diệt tự nhiên, sản xuất, sản phẩm lâm sàng<br />
Từ viết tắt: AML: Leukemia cấp dòng tủy; B-ALL: Leukemia cấp dòng lympho B; C-ALL: Leukemia cấp<br />
dòng lympho thông thường; H-SCT: Ghép tế bào gốc tạo máu; IL: interleukin; N/A: Không có thông tin; NK:<br />
Tế bào diệt tự nhiên; PBMC: Tế bào đơn nhân máu ngoại vi; SCGM: Môi trường nuôi cấy tế bào gốc.<br />
<br />
I. TỔNG QUAN<br />
Trong vòng 3 thập kỷ qua, đã có rất nhiều<br />
<br />
dung nạp tốt, đồng thời tế bào NK được<br />
<br />
nỗ lực của các nhà nghiên cứu cơ bản và lâm<br />
<br />
truyền có khả năng duy trì với nồng độ cao ở<br />
<br />
sàng để làm sáng tỏ chức năng tế bào diệt tự<br />
<br />
người nhận trong vài tháng dẫn đến các đáp<br />
<br />
nhiên NK trong đáp ứng miễn dịch chống lại<br />
<br />
ứng trên lâm sàng [2 - 4]. Một phác đồ lý<br />
<br />
các tế bào ung thư và để hiểu cơ chế hoạt<br />
<br />
tưởng ứng dụng tế bào NK trên lâm sàng cần<br />
<br />
động của chúng [1]. Các nghiên cứu này đã<br />
<br />
phải tạo ra được các tế bào NK có độ tinh<br />
<br />
dẫn đến các thử nghiệm lâm sàng ứng dụng<br />
<br />
sạch và tiềm năng với số lượng đủ lớn để có<br />
<br />
tế bào NK trong điều trị ung thư. Kết quả của<br />
<br />
thể truyền nhiều lần cùng một sản phẩm. Tế<br />
<br />
các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy việc<br />
<br />
bào NK được truyền cần phải có khả năng<br />
<br />
truyền tế bào NK là an toàn và có khả năng<br />
<br />
nhân lên ở người nhận và chống lại, tiêu diệt<br />
khối u. Một điều cần lưu ý nữa là tế bào NK có<br />
<br />
Địa chỉ liên hệ: Lương Hoàng Long, Trường Đại học Y<br />
Hà Nội<br />
Email: longluong.fsh@gmail.com<br />
Ngày nhận: 7/5/2018<br />
Ngày được chấp thuận: 30/6/2018<br />
<br />
120<br />
<br />
đặc tính kích hoạt miễn dịch chủ động, do đó<br />
có khả năng thu hút các tế bào miễn dịch, kích<br />
hoạt và nhân lên các tế bào T đặc hiệu với<br />
khối u.<br />
<br />
TCNCYH 112 (3) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
II. NGUỒN TẾ BÀO NK VÀ CÁC QUY<br />
TRÌNH NUÔI CẤY<br />
<br />
108 tế bào diệt tự nhiên (CD3-CD56+)/kg cân<br />
<br />
Đa phần các thử nghiệm lâm sàng ứng<br />
<br />
với ~80% của tổng số tế bào T và B), do đó có<br />
<br />
dụng tế bào NK trong điều trị ung thư đều yêu<br />
<br />
nhiều phương pháp đã được phát triển nhằm<br />
<br />
cầu một lượng tế bào truyền lớn, khoảng 5 x<br />
<br />
làm giàu từ một thể tích lớn máu ngoại vi, như<br />
<br />
6<br />
<br />
7<br />
<br />
nặng [7]. Bởi vì tế bào NK chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ<br />
trong quần thể tế bào bạch cầu (~1 - 20% so<br />
<br />
10 đến 5 x 10 tế bào NK (CD3-CD56+) cho 1<br />
<br />
chế phẩm phân tách máu (apheresis), hoặc<br />
<br />
kilogram cân nặng bệnh nhân [2; 3; 5; 6]. Gần<br />
<br />
nhân lên từ một lượng mẫu nhỏ hơn hoặc từ<br />
<br />
đây, có báo cáo đã sử dụng liều cao tới 1 x<br />
<br />
nguồn tế bào gốc (hình 1).<br />
<br />
Loại bỏ tế bào T&B hoặc<br />
làm giàu CD56+ bằng<br />
CliniMACS và hoạt hóa<br />
qua đêm với cytokines<br />
<br />
Chỉ có cytokines<br />
trong 4 - 10 tuần<br />
<br />
Với tế bào nuôi<br />
được tia xạ trong<br />
10 - 14 ngày<br />
<br />
Tế bào nuôi<br />
<br />
Hình 1. Tế bào NK ứng dụng trên lâm sàng thường thu được từ chế phẩm<br />
phân tách máu tươi hoặc đông lạnh<br />
(A) Máy CliniMACS có thể làm giàu CD56+ bằng việc loại bỏ các dòng tế bào không phải tế<br />
bào diệt tự nhiên, chọn lọc dương tính sử dụng hạt từ gắn anti-CD56 hoặc cả hai phương pháp có<br />
thể được sử dụng để tăng độ tinh sạch tế bào NK. Sau khi trải qua làm giàu bằng CliniMACS, tế<br />
bào NK được truyền trực tiếp hoặc kích hoạt qua đêm bằng IL-2. Thay vào đó, tế bào NK có thể<br />
được nhân lên từ một lượng nhỏ chế phẩm phân tách máu in vitro sử dụng (B) hỗn hợp Cytokine<br />
hoặc (C) bổ sung tế bào nuôi để tăng hiệu quả nhân lên và giảm thời gian cần nuôi cấy để chế<br />
phẩm có thể truyền được.<br />
Các biện pháp tạo dòng tế bào NK dùng<br />
<br />
tăng nhu cầu số lượng tế bào cần ban đầu,<br />
<br />
cho ghép đồng loại thường cố gắng loại bỏ<br />
<br />
nhất là khi khâu loại bỏ nằm cuối cùng trong<br />
<br />
dòng lympho T-CD3+ do chúng có khả năng<br />
<br />
quy trình [8]. Do đó, đa phần các quy trình sử<br />
<br />
gây hội chứng mảnh ghép chống vật chủ<br />
<br />
dụng chế phẩm phân tách máu (apheresis)<br />
<br />
(Graft-vesus-host disease–GVHD) nên làm<br />
<br />
cần 1 - 20 x 109 tế bào đơn nhân làm nguyên<br />
<br />
TCNCYH 112 (3) - 2018<br />
<br />
121<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
liệu khởi đầu; tuy nhiên, có các quy trình phân<br />
<br />
có thể được xác định bằng máy đếm tế bào<br />
<br />
tách từ các chế phẩm khác như từ lớp buffy<br />
<br />
dòng chảy với các marker CD45+CD56+CD3-<br />
<br />
coats, máu cuống rốn [9; 10]. Tế bào NK trong<br />
<br />
(hình 2).<br />
<br />
máu ngoại vi và từ chế phẩm phân tách máu<br />
<br />
Hình 2. Xác định tế bào diệt tự nhiên trong chế phẩm<br />
phân tách máu bằng máy đếm tế bào dòng chảy<br />
Quần thể tế bào lympho/mono được đánh giá qua các bước (A) biểu đồ FSC và SSC và sau<br />
đó (B) định lượng các tế bào qua cổng CD45+ (C) tế bào NK được định danh là các tế bào<br />
CD56+CD3-.<br />
Trong phương pháp “nhanh”, tế bào NK<br />
<br />
tinh sạch > 95% mà vẫn giữ lại các dòng tế<br />
<br />
được thu từ chế phẩm phân tách máu nhờ 1<br />
<br />
bào CD56+CD3+ (tế bào T giống NK–NKT),<br />
<br />
hoặc 2 lượt loại bỏ tế bào T-CD3+ sử dụng<br />
<br />
cũng có khả năng góp phần vào đáp ứng<br />
<br />
hạt từ CliniMACS gắn thụ thể anti-CD3<br />
<br />
miễn dịch chống lại khối u. Nếu loại trừ thêm<br />
<br />
(CliniMACS, hóa chất CD3), có thể có hoặc<br />
<br />
tế bào CD3+ sẽ tạo ra sản phẩm có độ tinh<br />
<br />
không kích hoạt qua đêm bằng IL-2 hoặc IL-<br />
<br />
sạch lên đến 99%. Tất cả các phương pháp<br />
<br />
15 [11; 12]. Phương pháp này tạo được đến<br />
<br />
phân tách trên đều dẫn đến giảm số lượng<br />
<br />
2 x 109 tế bào NK với độ tinh sạch 20%, do<br />
<br />
mong muốn của tế bào NK, do vậy việc đạt<br />
<br />
các tế bào B-CD19+ và tế bào Mono-CD14+<br />
<br />
được độ tinh sạch cao cần phải cân bằng với<br />
<br />
chiếm tới hơn 50% lượng sản phẩm. Việc loại<br />
<br />
tính hiệu quả và an toàn.<br />
<br />
bỏ tế bào B-CD19+ với hạt từ gắn kháng thể<br />
<br />
Bởi các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng<br />
<br />
anti-CD19 (CliniMACS, hóa chất CD19) làm<br />
tăng thêm độ tinh sạch cho sản phẩm tế bào<br />
<br />
sử dụng trong điều trị ung thư cần liều lượng<br />
tế bào NK lớn và nhiều lần truyền nên một lần<br />
<br />
NK,<br />
<br />
dòng<br />
<br />
lọc máu có thể chưa đủ số lượng tế bào NK<br />
<br />
CD56+CD3- vào khoảng 40%. Một cách khác<br />
<br />
yêu cầu. Do vậy, một số phương pháp phức<br />
tạp hơn nhằm nuôi cấy tế bào NK ngoài cơ<br />
<br />
dẫn<br />
<br />
đến<br />
<br />
độ<br />
<br />
tinh<br />
<br />
sạch của<br />
<br />
để làm giàu tế bào NK là phân lập các tế bào<br />
CD56+ với hóa chất CliniMACS CD56 (kháng<br />
thể đơn dòng anti-CD56), có hoặc không có<br />
<br />
thể đã được phát triển. Nuôi cấy tế bào NK<br />
với IL-2 hoặc IL-15 hoặc cả hai để tăng gấp<br />
<br />
bước loại bỏ tế bào T-CD3+, phương pháp<br />
<br />
1000 lần sản phẩm ban đầu cần thời gian nuôi<br />
cấy lên đến 12 tuần [16 - 18]. Thay vào đó,<br />
<br />
này có thể tạo ra sản phẩm tế bào NK có độ<br />
<br />
phương pháp nuôi cấy tế bào sử dụng “tế bào<br />
<br />
loại bỏ tế bào T-CD3+ [13; 14]. Không cần<br />
<br />
122<br />
<br />
TCNCYH 112 (3) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
nuôi” (feeder cells) đem lại hiệu quả tốt hơn<br />
<br />
80 mL. Các túi trữ lạnh được chuyển từ địa<br />
<br />
trong thời gian ngắn hơn, và tạo ra lượng lớn<br />
tế bào NK đủ để truyền trong vòng 10 - 14<br />
<br />
điểm thử nghiệm lâm sàng tới địa điểm xử lý<br />
<br />
ngày [8]. Phương pháp “tế bào nuôi” yêu cầu<br />
sử dụng các cytokine cũng như các tế bào<br />
<br />
odist và Bệnh viện Nhi Texas) ở Houston,<br />
<br />
nuôi qua xử lý phóng xạ, ví dụ như dòng EBV<br />
- LCL hoặc dòng tế bào K562 biến đổi gene,<br />
<br />
cấy, chúng tôi rã đông tế bào đã được phân<br />
<br />
để tạo ra lượng lớn tế bào CD3-56+ với độ<br />
<br />
bò (gấp 3 lần lượng dung dịch lưu trữ) và sử<br />
<br />
tinh sạch trên 70% từ tế bào đơn nhân trong<br />
máu ngoại vi [8; 19; 20]. Berg và cộng sự đã<br />
phát triển một phương pháp trong đó tế bào<br />
NK CD3-CD56+ từ máu ngoại vi được nuôi<br />
cấy cùng với tế bào nuôi EBV-LCL trong môi<br />
trường X-VIVO 20 có bổ sung 10% huyết<br />
thanh người AB bất hoạt, 500 U/mL IL-2 và 2<br />
mM Glutamax. Tế bào NK nhân lên 490 ± 260<br />
lần trong vòng 21 ngày nuôi cấy với độ tinh<br />
sạch tế bào 84,3 ± 7,8% CD56+ [19].<br />
Là một trong các trung tâm hỗ trợ sản xuất<br />
cho liệu pháp tế bào (PACT), nhóm của chúng<br />
tôi phụ trách sản xuất tế bào NK sử dụng điều<br />
<br />
(Đại học Y Baylor, Bệnh viện Houston MethTexas. Vào ngày bắt đầu của quy trình nuôi<br />
tách, rửa trong PBS với 5% huyết thanh phôi<br />
dụng cột Ficoll để loại bỏ tế bào chết và các<br />
tạp chất [22]. Môi trường nuôi cấy được thiết<br />
lập dựa trên số lượng tế bào diệt tự nhiên<br />
CD56+CD3- đếm được bằng máy đếm tế bào<br />
dòng chảy. Mỗi một bình G-Re x 100 (diện<br />
tích bề mặt 100 cm2, thể tích 40 mL) được cấy<br />
một lượng nhất định tế bào lọc chứa 5 x 106 tế<br />
bào NK kết hợp với 5 x 107 tế bào nuôi K562 41BBL-mbIL-15 đã xử lý phóng xạ (100 Gy)<br />
với tỉ lệ tế bào NK so với tế bào K562 là 1: 10<br />
trong môi trường SCGM (CellGenix, Portsmouth, NH) chứa 10% FBS.<br />
<br />
trị các bệnh đa u tủy xương cho các nghiên<br />
<br />
Vào ngày thứ 6 hoặc 7 của chu trình nuôi<br />
<br />
cứu viên tại khoa Y Trường Đại học Arkansas.<br />
<br />
cấy, tế bào NK được phân lập và định lượng<br />
<br />
Chúng tôi đang áp dụng một kỹ thuật nhân<br />
<br />
bằng máy đếm tế bào dòng chảy để xác định<br />
<br />
dòng tế bào NK cải biến được mô tả bởi nhóm<br />
<br />
sự nhân lên và số lượng tế bào NK. Thông<br />
<br />
nghiên cứu của Dario Campana; sử dụng tế<br />
<br />
thường, nếu nuôi cấy trong bình G-Rex,<br />
<br />
bào K562 biến đổi gene để biểu hiện 4-1BBL<br />
<br />
chúng tôi thu hoạch tế bào NK vào ngày thứ 8<br />
<br />
và biểu hiện IL-15 gắn màng (k562-41BBL-<br />
<br />
- 10. Ban đầu, quy trình yêu cầu một nồng độ<br />
<br />
mbIL-15) làm tế bào nuôi [20; 21]. Chúng tôi<br />
<br />
nhỏ IL-2 vào khoảng 10U/mL để kích thích<br />
<br />
đã tối ưu hóa quy trình này cho việc nuôi cấy<br />
<br />
nhân dòng tế bào NK; tuy nhiên, để đánh giá<br />
<br />
tế bào NK trong máy G-Rex (Wilson Wolf<br />
<br />
xem với nồng độ IL-2 lớn hơn liệu có cho số<br />
<br />
manufacturing, Minneapolis, MN) và máy<br />
<br />
lượng và chất lượng tế bào NK nhân lên lớn<br />
<br />
WAVE bioreactor (GE Healthcare Life Sci-<br />
<br />
hơn hay không, chúng tôi đã thử nghiệm liều<br />
<br />
ences, Piscataway, NJ), tạo ra dòng tế bào<br />
<br />
lên tới 1000 U/mL. Nồng độ IL-2 cao hơn đã<br />
<br />
NK được kích hoạt và có khả năng đáp ứng<br />
<br />
không làm tăng khả năng nhân lên hay sức<br />
<br />
cao. Nguyên liệu ban đầu chúng tôi sử dụng<br />
<br />
sống của tế bào NK, tuy nhiên biểu hiện của<br />
<br />
là chế phẩm phân tách máu, trữ lạnh tại nồng<br />
<br />
các thụ thể kích hoạt trên bề mặt tế bào tăng<br />
<br />
độ ~5 x 10 tế bào có nhân/mL trong Plasma-<br />
<br />
lên đáng kể và cải thiện khả năng đáp ứng<br />
<br />
Lyte (CSS) với 10% dimethyl sulfoxide và 5%<br />
<br />
của tết bào NK đối với tế bào ung thư OPM-2<br />
<br />
human albumin trong một số túi (3 - 5 túi) 70 -<br />
<br />
và tế bào K562 (hình 3, không thể hiện dữ liệu).<br />
<br />
7<br />
<br />
TCNCYH 112 (3) - 2018<br />
<br />
123<br />
<br />
% ly giải đặc hiệu<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Hình 3. Tăng hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư OPM-2 bằng tế bào NK<br />
nhân lên cùng với tế bào K562-mbIL15 với liều cao (500 và 1000 U/mL) IL-2<br />
Nuôi cấy tế bào NK trong bình G-Rex có<br />
<br />
10 x 105 tế bào/mL, các tế bào được đưa vào<br />
<br />
nhiều lợi thế hơn so với các túi và bình thông<br />
<br />
trong các túi WAVE phù hợp và pha loãng đến<br />
<br />
thường khác [23]. Bao gồm tăng sản lượng tế<br />
<br />
2 x 105 tế bào/mL trong môi trường mới. Môi<br />
<br />
bào nhờ có sự trao đổi khí tốt hơn và giảm<br />
<br />
trường được lắc nghiêng 6°, 6 lần một phút<br />
<br />
thiểu thiếu hụt chất dinh dưỡng, giảm thể tích<br />
<br />
trong vòng 4 - 5 ngày và được thu hoạch bởi<br />
<br />
dịch phải thu hoạch nhờ khả năng rút đi đến<br />
<br />
máy CellSaver5+ instrument (Haemonetics<br />
<br />
80% dịch thừa mà không gây ảnh hưởng đến<br />
<br />
Corporation, Braintree, MA). Nuôi cấy đồng<br />
<br />
tế bào trên bề mặt nuôi cấy. Với mật độ nuôi<br />
<br />
thời tế bào NK trong bình G - Rex và máy<br />
<br />
cấy khởi điểm của chúng tôi là 1,25 x 104/mL<br />
<br />
WAVE bioreactor cho sản phẩm có số lượng,<br />
<br />
tế bào NK, cả quá trình nuôi cấy không yêu<br />
<br />
chất lượng và tiềm năng tốt hơn (được đo<br />
<br />
cầu thêm 1 lần thay thế môi trường nào.<br />
<br />
bằng đánh giá kiểu hình và đánh giá độc tính).<br />
<br />
Thông thường một bình G-Rex100 có thể thu<br />
<br />
Tuy nhiên, máy WAVE tạo ra sản phẩm chứa<br />
<br />
8<br />
<br />
được lên đến 5 x 10 tế bào NK. Để đạt được<br />
<br />
ít tế bào T-CD3+ và nhiều tế bào CD56+CD3-<br />
<br />
số lượng tế bào lớn hơn cần nhiều bình G -<br />
<br />
hơn, có lẽ bởi tế bào T ưa môi trường tĩnh.<br />
<br />
Rex, điều này làm tăng giá thành và công sức<br />
<br />
Thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh lý đa u tủy<br />
<br />
bỏ ra. Do vậy, chúng tôi đã tối ưu quy trình<br />
<br />
xương yêu cầu cả tế bào NK tự thân và đồng<br />
<br />
nhân dòng tế bào NK trong máy WAVE biore-<br />
<br />
loại. Trong chế phẩm đồng loại, tế bào T-<br />
<br />
actor khi cần số lượng tế bào NK cao hơn.<br />
<br />
CD3+ được loại bỏ (cũng như tế bào<br />
<br />
Đầu tiên, một môi trường nuôi cấy tĩnh được<br />
<br />
CD3+CD56+) bằng hóa chất CD3 CliniMACS,<br />
<br />
thiết lập trong các túi với mật độ tế bào NK 3 -<br />
<br />
giảm nồng độ tế bào T-CD3+ từ 19 ± 9%<br />
<br />
4<br />
<br />
5 x 10 /mL và tế bào K562-41BBL-mbIL-15 đã<br />
<br />
xuống còn 0,4 ± 0,5% (n = 5). Việc loại bỏ này<br />
<br />
xử lý 100Gy phóng xạ (tỉ lệ 1: 10; NK: K562)<br />
<br />
dẫn đến nồng độ tế bào CD3+CD56- thấp hơn<br />
<br />
trong môi trường SCGM với 10% FBS và<br />
<br />
5 x 105 tế bào/kg dùng cho sản phẩm truyền<br />
<br />
500U/mL IL-2. Khi tổng lượng tế bào đạt 8 -<br />
<br />
theo quy định lâm sàng.<br />
<br />
124<br />
<br />
TCNCYH 112 (3) - 2018<br />
<br />