intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và triển vọng

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết "Tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và triển vọng", nhóm tác giả tập trung làm rõ cơ sở xác định tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; những thành tựu đạt được và triển vọng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những biến động hết sức phức tạp, khó dự báo hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và triển vọng

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÍNH TẤT YẾU CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG Chu Minh Quốca, Trương Đình Thảob a Trường Đại học Nguyễn Huệ Cục Hậu cần Quân khu 5 b Tác giả liên hệ: Chu Minh Quốc, email: chuminhquoclq2@gmail.com Tóm tắt: Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chỉ rõ, các quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều phải lựa chọn cho mình một con đường, hướng đi đúng, phù hợp với thực tế đất nước, truyền thống của dân tộc, ước vọng tha thiết của nhân dân, đồng thời phải phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội và xu thế chung của thời đại. Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Trong bài viết, nhóm tác giả tập trung làm rõ cơ sở xác định tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; những thành tựu đạt được và triển vọng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những biến động hết sức phức tạp, khó dự báo hiện nay. Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội; thời kỳ quá độ; cách mạng Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con đường, sự phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó. Mặt khác, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn là yêu cầu của lịch sử, là khát vọng của dân tộc đã được lịch sử lựa chọn từ những năm 1930, đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Hơn 80 năm qua, Đảng ta vẫn kiên định nhất quán con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trước những biến đổi sâu sắc của thời đại, đã biểu hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng và niềm tin tuyệt đối của dân tộc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Trước thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau thì việc tìm hiểu nhằm nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc 387
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Tính tất yếu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và những thành tựu đạt được Một là, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Với quan điểm duy vật lịch sử, Mác - Ăngghen chỉ ra lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển tự nhiên thông qua sự thay thế (từ thấp đến cao) của các hình thái kinh tế - xã hội, từ cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đến cộng sản chủ nghĩa. C.Mác khẳng định: “…Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2011, 21). Điều này có nghĩa là xã hội vận động và phát triển của xã hội loài người không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Đó chính là quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân dẫn đến sự thay thế đó là do vai trò của lực lượng sản xuất yếu tố suy đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người. Theo C.Mác - Ph.Ăngghen, trong ba yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng thì lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn vận động và phát triển không ngừng (do có con người), sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất tới một trình độ nhất định sẽ phá vỡ quan hệ sản xuất sinh ra nó, đến thời kỳ trói buộc nó, thay vào đó là một quan hệ sản xuất mới và một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời. Và cứ như vậy, theo quy luật, lịch sử xã hội loài người đã vận động và phát triển qua bốn hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, tất yếu lịch sử xã hội loài người sẽ vận động và phát triển lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 388
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử xã hội loài người có thể rút ra ba nhận xét: Một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của các nền văn minh nhân loại nằm rải rác trong không gian. Hai là, khi một hình thái kinh tế - xã hội đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, chứ không nhất thiết chỉ tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Ba là, nhận xét có tính chất khái quát: loài người nói chung thì nhất định phải trải qua cả năm hình thái kinh tế - xã hội, nhưng từng nước cụ thể thì không nhất thiết phải tuần tự trải qua cả năm hình thái kinh tế - xã hội, mà có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội, đi tắt để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể đặc thù của từng nước. Ví dụ như Mỹ đi lên tư bản chủ nghĩa bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ; Australia đi từ chiếm hữu nô lệ lên tư bản chủ nghĩa bỏ qua chế độ phong kiến, song các nước này hiện tại vẫn phát triển rất cao. Điều đó được khẳng định rằng: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách một chế độ xã hội hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. V.I.Lênin khẳng định “... tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ, mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó” (Lênin, 2011a, 431). Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã trở thành hiện thực trên thế giới đã mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và sau 1945, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phát triển thành một hệ thống thế giới đã tạo ra những điều kiện cho các nước chưa phát triển qua chủ nghĩa tư bản thực hiện sự chuyển biến quá độ, bỏ qua 389
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để. V.I.Lênin đã khẳng định: “một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt bỏ những hình thức cuối cùng của chế độ nô lệ làm thuê. Thoát khỏi chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào chế độ tự do chân chính” (Lênin, 2011b, 343). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới” (Hồ, 2011, 300). Hai là, đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn từ chính bản chất tốt đẹp và ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - Nhà nước Xô-viết được ra đời. Lần đầu tiên khát vọng của nhân loại về một xã hội tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ đã “trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn triệu người vào hành động cách mạng, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1). Sự ra đời của Nhà nước Xô-viết Nga đã tạo tiền đề cho sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa, một chế độ xã hội xóa bỏ mọi áp bức, bất công, đem lại công bằng, bình đẳng, tự do cho con người, đối lập với các chế độ của giai cấp bóc lột trước đó. Chỉ sau một thời gian ngắn xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy phải đương đầu với các âm mưu và thủ đoạn chống phá vô cùng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, nhưng Liên Xô đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, nhanh chóng trở thành cường quốc trên thế giới vào những năm 50 - 70 của thế kỷ 20 (Liên Xô đã trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới (sau Mỹ) với sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới. Năm 1957, Liên Xô là quốc gia đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo. Năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh trái đất mở ra kỷ nguyên chinh phục vũ 390
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trụ của loài người. Liên Xô là nước hàng đầu thế giới về trình độ học vấn của nhân dân với tỷ lệ dân số có trình độ từ trung học trở lên, có trên 30 triệu người “làm việc trí óc”…); đồng thời có những đóng góp to lớn vào tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Trong nhiều thập niên, Liên Xô là thành trì của chủ nghĩa xã hội, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với bản chất tốt đẹp và ưu việt của chủ nghĩa xã hội như vậy nên Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta chọn đi theo Liên Xô, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Ba là, đi lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn phù hợp với quy luật của cách mạng Việt Nam. Những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Sự tồn tại song hành hai mâu thuẫn cơ bản ở xã hội Việt Nam, khiến cho nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực và làm xuất hiện nhu cầu bức bách phải tìm ra con đường giải quyết đồng thời vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp thì mới đưa đất nước tiếp tục phát triển. Xã hội Việt Nam ở thời điểm này, xuất hiện những trào lưu, thành phần xã hội khác nhau tham gia lựa chọn và thực nghiệm theo hệ tư tưởng nhất định để vạch ra con đường cứu nước. Các phong trào, kết quả các phong trào diễn ra đều thể hiện rõ tinh thần yêu nước, bất khuất đấu tranh để tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, song tất cả đều thất bại. Xã hội Việt Nam đặt ra nhu cầu bức thiết, khách quan là phải tìm kiếm một hệ tư tưởng mới, một học thuyết mới dẫn đường cho cách mạng phát triển đúng xu thế của thời đại. Thực tiễn thế giới, vào những năm đầu của thế kỷ XX, sự kiện có tầm ảnh hưởng rất lớn đến cách mạng Việt Nam là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đây là cuộc cách mạng đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, là thời đại quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Ở thời điểm lịch sử ấy của Việt Nam có Nguyễn Ái Quốc nắm vững nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của dân tộc và nhân dân là thoát khỏi áp bức, nô lệ, được sống trong độc lập, tự do. Người đã tìm thấy ở học thuyết cách mạng và khoa học chỉ ra con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân, đó là phải tiến hành con đường cách mạng vô sản. Sự kết hợp giữa hoạt động thực tiễn 391
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2002a, 314), “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” (Hồ, 2002b, 128). Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng và xu thế thời đại để quyết định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng đắn. Nguyễn Ái Quốc vừa nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn, lịch sử dân tộc và thể hiện rõ tính đặc thù của Việt Nam. Bốn là, thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những thành tựu sau hơn 35 năm đổi mới đã chứng minh cho tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay, công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong hơn 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số 392
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xã đạt chuẩn nông thôn mới, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện, hiện có khoảng 70% dân số sử dụng Internet. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ: “nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa 393
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103-104). 2.2. Triển vọng của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay Ngày nay, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã không còn nữa. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mình và với sự kiên định mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại (như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu Ba) đẩy mạnh tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới; đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn, trở thành tấm gương, niềm cảm hứng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại, mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ… nên đã đạt được năng suất lao động cao. Tuy nhiên, bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn khách quan, cơ bản vốn có của nó; các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các tệ nạn xã hội, nhất là khi đại dịch COVID-19 diễn ra lại càng làm bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị - xã hội của các nước này không vì sức khỏe, hạnh phúc của đại đa số nhân dân lao động. Các phong trào đấu tranh phản kháng xã hội đã bùng nổ mạnh mẽ ở khắp nơi trong thế giới tư bản với những nội dung và hình thức mới trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về những mâu thuẫn mang tính bản chất không thể hóa giải của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn sẽ còn tiếp tục phát triển thông qua những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày 394
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên. Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi: Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau chủ nghĩa tư bản nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 90 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 395
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan đó, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây: Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, chủ nghĩa tư bản ra đời, sẽ dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì không thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của chủ nghĩa tư bản, mặc dù chủ nghĩa tư bản đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì chủ nghĩa tư bản không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Với sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính chủ nghĩa tư bản cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật để chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật 396
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cho chủ nghĩa xã hội. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”. Những thành tựu đã đạt được qua hơn 35 năm đổi mới đã chứng tỏ: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi lẽ, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Và trong thực tiễn, chủ nghĩa xã hội không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế. Nói “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, 397
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 21). Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gọi là thời kỳ quá độ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái kinh tế - xã hội mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là Nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội thống trị, nhưng, về phương diện kinh tế phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Song, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình thức kinh tế trung gian, quá độ điển hình - đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. 2.3. Làm gì để thực hiện thắng lợi con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Đại hội XIII đã khẳng định trong 35 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện và tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong nước và quốc tế. Việt Nam đã trở thành một điểm sáng về phát triển bền vững trên thế giới. Theo khảo sát, đánh giá và xếp hạng của Liên hợp quốc về chỉ số phát triển bền vững của các quốc gia, các nền kinh tế, Việt Nam là một trong 10 nước chia sẻ kinh nghiệm về phát triển bền vững cho các nước trên thế giới. Đó là lợi thế rất lớn để chúng ta thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong 398
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tương lai, để sinh viên thấy rõ hơn “cơ đồ của đất nước”, để từ đó thêm niềm tin đối với sự lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm của thời đại ngày nay, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vừa có những thuận lợi nhưng cũng không ít những khó khăn. Trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Việc phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; việc phát triển đồng bộ các vùng, miền, địa phương trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng vẫn còn nhiều hạn chế. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Xu hướng già hóa dân số, đô thị hóa tăng nhanh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng ngày càng lớn đến sự phát triển đất nước… Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, tấn công vào nền tảng tư tưởng của ta trên cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với chủ nghĩa xã hội khoa học những nội dung hiện bị thế lực thù địch xuyên tạc: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo; xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất nước. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều khó khăn, trở ngại. Tình hình chính trị, an ninh, kinh tế thế giới có những biến động lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra phức tạp, quyết liệt. Toàn cầu hóa tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại giữa các nước, các nền kinh tế ngày càng quyết liệt. Nhiều vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống, an ninh mới như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh... trở thành những thách thức lớn trên quy mô toàn cầu. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn 399
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19… Đây cũng chính là những khó khăn trong quá trình hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Từ những thời cơ, thuận lợi và cả những khó khăn thách thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, để vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn, chúng ta cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Ngay từ khi ra đời (2/1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường xã hội chủ nghĩa. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là qua hơn 35 năm tiến hành đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Hiện nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hai là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Quá trình hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế cùng với sự bùng nổ ngày càng phổ biến của công nghệ thông tin, đặt lĩnh vực tư tưởng, lý luận trước những thách thức gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Sự giao lưu, cọ xát tư tưởng sẽ diễn ra hàng ngày. Đảng ta xác định: "Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước ngày càng điên cuồng, quyết liệt và tinh vi hơn. Trong đó, “chúng luôn coi tư tưởng, lý luận là những trận địa tiến công, là khâu đột phá” (Ban Tuyên giáo Trung ương, 2007, 38-39). Vì vậy, cần thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục để nâng cao sự nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 400
  15. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Cần tạo ra được không khí, nhu cầu tìm hiểu đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Khi đã nhận thức đúng, hiểu rõ bản chất của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì dù những thông tin sai trái có thâm độc đến mấy cũng khó có thể tác động, lay chuyển được nhận thức. Đồng thời cần tuyên truyền, giải đáp kịp thời, thỏa đáng và có sức thuyết phục những vấn đề lý luận và thực tiễn mà nhân dân quan tâm. Cần tiếp tục làm sáng rõ nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đổi mới phương thức tuyên truyền, phát huy hết lợi thế của mạng thông tin toàn cầu (internet) tăng cường cung cấp thông tin, quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước trên các báo, đài, trang tin điện tử, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, bản lĩnh chính trị của quần chúng nhân dân. Tiếp tục triển khai có hiệu quả việc “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong toàn xã hội để xây dựng nền tảng đạo đức của toàn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kiên quyết và có biện pháp hữu hiệu đẩy lùi sự thoái hóa đạo đức, lối sống, sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, tuyên truyền, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến. Thường xuyên đưa lên báo, đài, trang tin điện tử những bài viết về thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Ba là, đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương pháp, đảm bảo tốt cơ sở vật chất kỹ thuật… trong giảng dạy nội dung chủ nghĩa xã hội khoa học cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với mưu đồ hình thành lực lượng lâu dài về sau, nên các thế lực thù địch đã tập trung tác động vào thế hệ trẻ, họ xem đây như chiến lược con người nhằm chuyển hóa tư tưởng của học sinh, sinh viên, phai nhạt dần lý tưởng cộng sản. Học sinh, sinh viên là những lực lượng trẻ, có tri thức lại nhanh nhạy với cái mới và là đối tượng của diễn biến hòa bình. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các cuộc biểu tình, đấu tranh, gây sức ép đối với chính quyền đương nhiệm diễn ra ở các nước thời gian qua, dù được tổ chức, chỉ đạo của lực lượng nào thì học sinh, sinh viên, thanh niên luôn là lực lượng nòng cốt. 401
  16. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Các Bộ, Ban ngành hữu quan (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công An, Ban Tuyên giáo Trung ương…) cần phối hợp, kết hợp trong xây dựng, triển khai và áp dụng các nội dung về âm mưu diễn biến hòa bình của lực lượng thù địch, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong sách giáo khoa ở các cấp học, bậc học, nhất là cấp phổ thông theo hướng phong phú về nội dung, đa dạng về phương pháp và phù hợp với đối tượng tác động, giúp họ hiểu được âm mưu, hành động phản động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phối hợp giữa các cơ quan chức năng với lãnh đạo nhà trường ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện thoái hóa về đạo đức, lối sống, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống trong học sinh, sinh viên. Giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, giáo dục giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nêu cao tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay - chủ nhân tương lai của đất nước trong tiếp bước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giáo dục đối với học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trong đó chú ý xem xét đến vấn đề an ninh chính trị quốc gia trong quá trình hợp tác giáo dục và đào tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, học tập các môn học thuộc khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối Đảng cộng sản, pháp luật của Nhà nước, qua đó tăng cường giáo dục chính trị - tư tưởng trong đội ngũ trí thức trẻ, học sinh, sinh viên nhằm nâng cao nhận thức về lập trường, quan điểm chính trị, chống lại mọi biểu hiện sai lệch về nhận thức và hành động sai trái. Bốn là, đề cao cảnh giác, tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thường xuyên tổ chức việc học tập, quán triệt và kiểm tra, đốc thúc việc thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, quy định của Nhà nước liên quan đến cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, tuyên truyền nội bộ kết hợp với công khai trên các phương tiện truyền thông về âm mưu diễn biến hòa bình của các lực lượng thù địch, về bản chất các quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị, nhằm giúp cho các giai tầng trong xã hội nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng đủ sức “đề kháng” trước các quan điểm chống chủ nghĩa xã hội. 402
  17. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu biết vấn đề “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến” gắn với tuyên truyền nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy của cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ của cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta trong thời kỳ mới. Đổi mới cách đưa thông tin, nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu thông tin trong xã hội. Nhân dân phải được thông tin nhanh, kịp thời ngay cả với những vấn đề nhạy cảm như kỷ luật cán bộ sai phạm về chính trị. Nhu cầu thông tin trong thời đại ngày nay là rất lớn, càng bưng bít càng làm cho tính tò mò trỗi dậy, khi thiếu thông tin nên độc giả phải tìm kiếm thông tin từ các đài, trang web… không chính thống. Và hệ quả là xã hội bị mất định hướng thông tin. Đồng thời, cần tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, biện pháp đấu tranh chống diễn biến hòa bình, chống quan điểm sai trái để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực và đối sách của ta trong cuộc đấu tranh này. 3. KẾT LUẬN Tóm lại, lịch sử Việt Nam gần 90 năm qua với sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa thể hiện, vừa góp phần thúc đẩy trào lưu chính của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bị kéo dài thêm, song không thể đảo ngược được xu thế của thời đại. Con đường của thời đại, con đường mà nhân loại đang đi tới chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất phức tạp; đất nước đứng trước những thuận lợi, thời cơ đan xen. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều nội dung liên đến cách mạng Việt Nam được Đảng ta nhận thức sâu sắc, trong đó có nhận thức về CNXH và tính tất yếu con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về CNXH và tính tất yếu về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là thành tựu lý luận to lớn, có ý nghĩa cả về lý luận 403
  18. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG và thực tiễn chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 35 năm đổi mới và những năm tiếp theo. Đồng thời, khẳng định vị thế và những đóng góp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CNXH khoa học; bổ sung, phát triển và làm phong phú hơn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH trong điều kiện mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Tuyên giáo Trung ương. (2007). Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khóa X. Chính trị Quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 2). (2011). Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hồ, C. M. (2002a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2002b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [9]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [10]. Lênin, V. I. (2011a). Toàn tập (Vol. 45). Chính trị quốc gia. [11]. Lênin, V. I. (2011b). Toàn tập (Vol. 29). Chính trị quốc gia. [12]. Nguyễn, P. T. (2021, May 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo Nhân dân. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve- chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/ 404
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2