intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính tất yếu, mục tiêu, đặc trưng, bản chất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết "Tính tất yếu, mục tiêu, đặc trưng, bản chất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", tác giả làm rõ tính tất yếu, mục tiêu cũng như đặc trưng, bản chất và nhiệm vụ của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích những định hướng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tương lai. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính tất yếu, mục tiêu, đặc trưng, bản chất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÍNH TẤT YẾU, MỤC TIÊU, ĐẶC TRƯNG, BẢN CHẤT, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Phan Thị Hà, Trần Văn Viễn, Lê Trọng Hưng Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (Phân hiệu Vĩnh Long) Tác giả liên hệ: Phan Thị Hà, email: hapht@ueh.edu.vn Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Trong bài viết này chúng tôi làm rõ tính tất yếu, mục tiêu cũng như đặc trưng, bản chất và nhiệm vụ của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích những định hướng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tương lai. Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu; mục tiêu; đặc trưng; bản chất. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, việc định hướng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam do Đảng ta lãnh chỉ đạo đã đạt được những thắng lợi này đến đến những thắng lợi khác có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Bắt đầu từ khi Đảng ta tiến hành đổi mới và tổ chức thành công Đại hội VI, sự đổi mới đó cho đến bây giờ có rất nhiều các hội thảo nhìn nhận và bàn luận về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, có nhiều ý kiến thể hiện sự hoài nghi, dao động về con đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đặc biệt vào giai đoạn những năm cuối của thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, lúc này CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên với bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên định mục tiêu lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động, từ đó để Đảng ta thực hiện mục tiêu, lý tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với sự kiên trì đó Đảng ta đã tin tưởng rằng: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” (Đảng 127
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cộng sản Việt Nam, 1991a, 8). Như vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục quán triệt: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 24). Do đó, chúng ta có thể thấy rằng ngay trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác cũng đã khẳng định rằng: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1993, 21). Từ quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng ở góc độ “tiệm tiến” vấn đề phát triển một cách tuần tự hay là bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, đã lạc hậu để tiến hành kiến tạo một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn phải chăng là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người. Điều đó cho thấy rằng cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận đều minh chứng cho con người, loài người thấy được chủ nghĩa tư bản chưa phải là giới hạn phát triển cao nhất của xã hội loài người. Hiện nay, các dân tộc, quốc gia chỉ có hai con đường lựa chọn là phát triển đất nước, quốc gia mình theo Chủ nghĩa tư bản hoặc theo Chủ nghĩa Cộng sản, sự lựa chọn theo hướng nào là phụ thuộc vào nhận thức cũng như điều kiện lịch sử của dân tộc đó. Đồng chí Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau và chúng ta lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng CNXH. Ở đây nó sáng tạo ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu của trí tuệ con người để chúng ta đạt được mục tiêu. Trong bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cho rằng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập để tiến thẳng lên CNXH thì nó chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu” (Nguyễn, 2021) mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho người điều hành trực tiếp có động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới được bổ sung, cụ thể hóa nhằm làm rõ hơn mục tiêu, phương hướng và các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 128
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính tất yếu đi lên CNXH Con đường đi lên CNXH của mỗi dân tộc đã được Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ là không phân biệt chủng tộc, màu da, trình độ phát triển. Họ có quyền tự quyết, tự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, bất khả xâm phạm của các quốc gia dân tộc khác. Các quốc gia, dân tộc dựa vào yếu tố lịch sử và hoàn cảnh quốc tế, đặc thù từng dân tộc để điều chỉnh hoặc bổ sung phát triển những nhận thức mới hay vận dụng các phương pháp các bước xây dựng CNXH làm sao cho phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở đó Lênin đã nêu luận điểm hết sức có ý nghĩa rằng: “Các dân tộc đi lên CNXH là tất yếu, nhưng có thể đi bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cụ thể của quốc gia mình” (Lênin, 2006a, 160). Quan niệm cũng như nhận thức về mô hình và con đường đi lên CNXH có liên quan trực tiếp đến sự thành hay bại trong quá trình xây dựng CNXH. Do đó các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đề cao đến vấn đề này, cụ thể Mác đã từng phê phán những sai lầm về mô hình xã hội tương lai của các nhà CNXH không tưởng trước đó đặc biệt là quan điểm mang nhiều ảo tưởng về mô hình XHCN của công nhân Pháp thời kỳ 1848 - 1850 của phái Látxan Ăngghen đã phê phán gay gắt về “bệnh phóng họa lịch sử” xa rời “mảnh đất hiện thực” của những người cộng sản có quan niệm về CNXH. Để không lập lại điều đó, các ông yêu cầu: “... ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 305). Từ khi có mục tiêu cao nhất của cách mạng nước ta là thực hiện độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, thực hiện bằng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tránh cho nhân dân ta không phải tiếp tục sống trong một chế độ xã hội có áp bức, bóc lột và bất công. Lựa chọn phát triển đất nước theo con đường XHCN không phải là do ý muốn chủ quan của Đảng, hoặc cá nhân nào, mà là sự tổng hợp các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của các mặt đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế, thể hiện khát vọng của cả đất nước. Con đường đi lên CNXH, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực tiễn của cách mạng thế giới cũng như cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là những cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng nhất. 129
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2.2. Quan điểm của Lênin trong việc phát triển, bổ sung hoàn chỉnh mô hình xây dựng CNXH ở Liên Xô Sau khi Mác và Ăng ghen qua đời, V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển các quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác về xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô. Vì vậy, những luận điểm của Lênin cũng như kết quả đạt được về con đường xây dựng CNXH rất có ý nghĩa cho cách mạng Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, đối với nước ta có nền nông nghiệp lạc hậu, thì không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải trải qua con đường gián tiếp với nhiều bước quá độ. Thứ hai, thực hiện nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần khi tiến lên CNXH. Lênin cho rằng trong nền kinh tế hàng hóa sản xuất nhỏ, cá thể nhất định sẽ trở thành thành kinh tế TBCN, đây là sự cần thiết để xây dựng CNXH. Hơn nữa, ông cho rằng cần phải thực hành “tô nhượng” để thu hút vốn và công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba, Lênin cho rằng cần tổ chức lại và không ngừng nâng cao hiệu quả thành phần kinh tế toàn dân. Theo ông chỉ giữ lại những cơ sở kinh tế quốc dân chủ yếu quan trọng nhất, còn lại thì cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa. Thứ tư, theo Lênin nhân tố quyết định thành công của nền kinh tế hàng hóa có nhiều thành phần khi tiến lên CNXH đó là công tác tổ chức chỉ đạo của đảng và nhà nước, Lênin cho rằng “Nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” (Lênin, 2006b, 253). Thứ năm, tiến hành công nghiệp hóa, ra sức xây dựng nền tảng cơ sở vật chất của CNXH. Lênin cho rằng: “công nghiệp đại cơ khí là cơ sở duy nhất có thể có của chủ nghĩa xã hội. Người nào quên điểm này thì không phải là đảng viên cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hóa toàn quốc” (Lênin, 2006c, 60). Đảng ta vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau chiến thắng Điện biên phủ năm 1954 miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục kháng chiến. Đánh giá về đặc điểm của nước ta lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội 130
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa, khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” (Hồ, 2011, 13). Trong khi đó, đất nước đang rơi vào chiến tranh khốc liệt, miền Bắc phải thực hiện nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam đánh giặc để thống nhất đất nước, vì vậy nền kinh tế buộc phải vận hành theo mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chính mô hình này đã tạo nên sức mạnh to lớn để góp phần chiến thắng ngoại xâm thống nhất tổ quốc. Tuy vậy, do việc duy trì lâu dài mô hình kinh tế này đã làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế. 2.3. Mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam Trong cương lĩnh chính trị tháng 02 năm 1930, Đảng ta khẳng định: cả nước sẽ tiến lên xã hội XHCN sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công, đó là niềm mong mỏi của Nhân dân ta, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Mục tiêu xã hội XHCN mà Nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tư duy về con đường đi lên CNXH, nhiều luận điểm của Lênin đã được phân tích áp dụng vào thực tiễn nước ta một cách thích hợp. Trong cương lĩnh năm 1991 của đảng chỉ rõ: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một nước vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991a, 8). Về quá trình xây dựng CNXH đã thể hiện rõ trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) như sau: “nước ta nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều lĩnh vực tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Tại đại hội lần thứ XII, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh nước ta vẫn tiếp tục mô hình kinh tế thị trường, vận hành theo quy luật của kinh tế thị trường, do đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một hệ thống yêu cầu hoàn chỉnh được tạo nên bởi 5 131
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mục tiêu tồn tại trong mối quan hệ thống nhất. Đó là kết quả của quá trình kế thừa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay. 2.4. Đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam Tại hội nghị tổng kết 5 năm đổi mới vào năm 1991, Đảng ta đã nêu lên 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là xã hội: “Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991b, 111). Đến năm 2011 đảng ta tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa nước ta thành 8 đặc trưng thể hiện trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đó là xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Các đặc trưng này chính là kết quả của quá trình đổi mới tư duy về CNXH của đảng, nó phù hợp với đặc điểm nước ta trong thời kỳ hội nhập thế giới, là kết quả của sự kết hợp hài hòa giữa cái chung và cái riêng ở Việt Nam. Cụ thể: - Đặc trưng thứ nhất: Thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc trưng chủ yếu và toàn diện nhất, nó đã thể hiện đầy đủ nội hàm của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là làm sao đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, ấm no hạnh phúc. 132
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - Đặc trưng thứ hai: do nhân dân lao động làm chủ. Điều này đã thể hiện một xã hội mà Bác và nhân dân ta mong đợi, quyền làm chủ của nhân dân luôn luôn được đề cao; theo Bác “dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ”. Hiện nay đảng ta không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo quyền lực của Nhà nước luôn thuộc về nhân dân, mặt khác dân chủ phải gắn liền với kỷ cương phép nước và được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. - Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng lực lượng sản xuất tiên tiến và chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của nền kinh tế CNXH luôn luôn cao hơn chế độ trước, điều này thể hiện quy luật phát triển của chế độ xã hội loài người. Trong cương lĩnh chính trị bổ sung năm 2011 đảng ta chỉ rõ: mâu thuẫn trong lòng của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hóa và lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng cao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế thích hợp, trong đó thành phần kinh tế toàn dân là chủ đạo. - Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tính tiên tiến của nền văn hóa ở nước ta thể hiện sự hòa nhập phát triển với văn hóa thế giới, đồng thời vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc như các truyền thống yêu nước, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc đã có từ ngàn xưa. Nền văn hóa của nước ta thể hiện sự thống nhất trong đa dạng, từng bước làm cho văn hóa dân tộc là động lực phát triển đất nước. - Đặc trưng thứ năm: con người luôn luôn có đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục đích của chế độ XHCN không chỉ xây dựng nền kinh tế phát triển cao mà còn từng bước giải phóng, phát triển con người. Mục tiêu phát triển con người phải vươn tới tính nhân văn, nhân đạo, toàn diện. Để sự nghiệp đổi mới thành công thì trước hết phải có đội ngũ những người có đủ đức và tài, đây chính là quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đào tạo con người, đồng thời phản ánh nhu cầu của nhân dân mong muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc hiện nay. 133
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam sống bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Truyền thống đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có từ hàng nghìn năm nay, với chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn của đảng thì tinh thần đoàn kết dân tộc được nâng lên tầm cao mới, điều này được thể hiện rõ nét trong giai đoạn diễn ra dịch bệnh Covid-19 của nhân dân cũng như bà con Việt kiều trên thế giới hướng về đất nước. Ngoài ra trong quá trình xây dựng đất nước cũng như hội nhập quốc tế đã chứng minh tính đúng đắn về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng, vì vậy chúng ta đã thành công trong việc chống lại âm mưu “ Diễn biến hòa bình” của địch. - Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Nước ta đang hướng tới mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhằm thực hiện nguyện vọng của nhân dân. Nền dân chủ XHCN ở nước ta luôn gắn bó chặt chẽ với bản chất của nhà nước, vì vậy nhà nước đã đề ra biện pháp ngăn ngừa và xử lý tham nhũng, lãng phí, cũng như vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời hoạt động của nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. - Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Trong quá trình hội nhập thế giới toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đảng ta luôn luôn thực hiện phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi. Đến nay, nước ta đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA đã chính thức ký kết, sắp có hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 FTA. Trong số 14 FTA thì hiệp định CPTPP là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã khẳng định trí tuệ của Đảng ta trong quan hệ đối ngoại với thế giới đa cực hiện nay. 2.5. Bản chất xây dựng CNXH ở Việt Nam Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra ngày 16 tháng 5 năm 2021 đã thể hiện cụ thể bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 134
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là ưu việt vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, không tồn tại những mâu thuẫn cơ bản đối kháng như trong chế độ TBCN. Điều này giúp ta hiểu được nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ vào đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản khác. Xã hội nước ta đang xây dựng là do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; các dân tộc chung sống hòa bình, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuân theo hệ thống quy luật kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN do Đảng lãnh đạo. Mô hình kinh tế này mang đậm màu sắc của Việt Nam, nó phù hợp với bản chất chế độ XHCN ở nước ta; nó vừa kế thừa thành tựu của nhân loại vừa tuân theo quy luật khách quan. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản chất chế độ chính trị ở nước ta là “của dân, do dân, vì dân”, vì vậy việc giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống lao động… luôn được đảng ta giữ gìn phát triển nhằm đem lại hạnh phúc cho nhân dân đó là mục tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam. Bản chất chế độ còn thể hiện tính ưu việt ở việc con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng cho mọi người, nó thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo để mọi người cùng phát triển toàn diện. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì phải có con người có đủ đức và tài, phải “vừa hồng vừa chuyên”. Hiện nay Đảng ta đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, chăm lo y tế, giáo dục để không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng ta đã tạo điều kiện tốt để các dân tộc trong nước luôn có cuộc sống đoàn kết, bình đẳng, cùng phát triển trên tinh thần “cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản chất ưu việt của xã hội ở nước ta đã thể hiện thông qua kết quả đời sống các dân tộc ngày càng nâng cao, cùng chung sống hòa bình, hữu nghị trên cả nước. Kết quả này đã góp phần xây dựng 135
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG truyền thống đoàn kết toàn dân, lấy đoàn kết làm “mẫu số chung” cho tính đồng thuận của các dân tộc. Có Nhà nước XHCN do Đảng lãnh đạo ngày càng phát triển và luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Quyền làm chủ xã hội của nhân dân đã góp phần to lớn vào việc ngăn chặn tệ nạn quan liêu, hách dịch, tham nhũng, lãng phí. Có quan hệ hợp tác và hữu nghị với các nước trên thế giới. Xã hội chúng ta đang xây dựng đã thể hiện hình ảnh “ngoại giao cây tre”một cách toàn diện, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực theo phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. 2.6. Những nhiệm vụ chủ yếu xây dựng CNXH ở Việt Nam Phát huy kết quả đạt được và khắc phục hạn chế hiện nay, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu lên những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội có một số điểm như sau: Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 123). Tập trung thực hiện đồng bộ một số biện pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng XHCN, đồng thời xử lý tốt mối liên hệ giữa các loại thị trường theo tiêu chuẩn của thế giới hiện nay. Không ngừng hoàn thiện nền tài chính, tiền tệ và ngân hàng, thực hiện linh hoạt các chính sách kinh tế vĩ mô, cũng như kết hợp hài hoà với các chính sách khác nhằm ổn định tăng trưởng nền kinh tế, hạn chế lạm phát. Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng 136
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128). Hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với tiêu chuẩn đổi mới mô hình tăng trưởng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất và tính cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực nhằm phát huy lợi thế địa phương, hiện các vùng kinh tế trọng điểm đều có một lợi thế riêng và có sự kết nối chặt chẽ, vì vậy việc liên kết vùng sẽ tạo ra sức mạnh cạnh tranh to lớn ở trong nước và quốc tế. Không ngừng đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao đi đôi với việc đổi mới sáng tạo, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tạo sự đột phá về hiệu quả nhằm giành lợi thế cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Đẩy mạnh tập trung và tích tụ tư bản trong xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là hàng không, đường cao tốc, đường thủy. Huy động và sử dụng tốt vốn đầu tư của xã hội, thay đổi chính sách thu hút vốn FDI từ số lượng sang chất lượng, có mô hình quản trị hiện đại, có chuỗi cung ứng rộng khắp, ít hủy hoại môi trường và kết nối với khu vực trong nước. Trên lĩnh vực xã hội không ngừng phát huy giá trị nền văn hoá, con người và sức mạnh của dân tộc, tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội, khuyến khích người dân làm giàu chính đáng đồng thời giảm nghèo triệt để; chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động ngành y tế chăm lo sức khỏe nhân dân; tiếp tục đổi mới nền giáo dục một cách căn bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số: 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 khóa XI) đồng thời nâng cao hiệu quả các dịch vụ công ích khác; nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán các phương hướng và có bổ sung mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 143), “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 147-148). Điều này bảo đảm sự phát triển bền vững của con 137
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG người và xã hội, thể hiện bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai kịp thời, ra sức quản lý và khai thác tài nguyên hiệu quả, bảo vệ tốt môi trường tự nhiên theo các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc đề ra đến năm 2030. Thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong toàn xã hội để phát huy cái tốt và ngăn chặn cái xấu. Nhà nước tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý nền kinh tế và phát triển xã hội, ra sức kiện toàn bộ máy quản lý hành chính theo hướng tinh gọn, thực hiện tinh giản biên chế. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp các ngành. Không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác đối ngoại, giữ gìn môi trường hoà bình để phát triển kinh tế; coi trọng đối ngoại đi đôi với quốc phòng, an ninh; tiếp tục đường lối độc lập, tự chủ, cùng có lợi; từng bước làm sâu sắc hơn các mối quan hệ với các nước theo hướng bền vững. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119). Nêu tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị 138
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 326). 3. KẾT LUẬN Những kết quả to lớn mà nước ta đạt được trong thời gian đổi mới do Đảng lãnh đạo là minh chứng đầy thuyết phục cho sự khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan của lịch sử và quyền lựa chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc, mặc dù con đường đó còn nhiều khó khăn. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69). “Lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 25). Hiện nay nước ta đang tiếp tục con đường đi lên CNXH với những đặc trưng, mô hình tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì tính khoa học, tất yếu của con đường đó cũng sẽ trở thành hiển nhiên. Những mục tiêu phát triển đất nước do Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đưa ra có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn; việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu đó là những nấc thang đưa dân tộc ta đến với chủ nghĩa xã hội, cho nên mọi quan điểm coi nhẹ, xuyên tạc những mục tiêu đó đều là những quan điểm sai trái, phục vụ cho mục đích hướng lái, thực hiện "tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ" của các thế lực thù địch. Với ý nghĩa đó, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta sẽ đoàn kết một lòng, phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém để sự nghiệp đổi mới của Đảng thành công rực rỡ . 139
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991a). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [8]. Lênin, V. I. (2006a). Toàn tập (Vol. 30). Chính trị quốc gia. [9]. Lênin, V. I. (2006b). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia. [10]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 44). Chính trị quốc gia. [11]. Nguyễn, T. B. (2021, 41 16/05). Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH. Cổng Thông tin Điện tử Bộ Nội vụ. https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu- trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html 140
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2