intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tình trạng stress của sinh viên y tế công cộng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan năm 2010

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

380
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này thực hiện nhằm xác định tình trạng mắc stress và các yếu tố liên quan của sinh viên Y Tế Công Cộng (YTCC) Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (ĐHYD TPHCM), Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tình trạng stress của sinh viên y tế công cộng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan năm 2010

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> TÌNH TRẠNG STRESS CỦA SINH VIÊN Y TẾ CÔNG CỘNG<br /> ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC YẾU TỐ<br /> LIÊN QUAN NĂM 2010<br /> Lê Thu Huyền*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Bối cảnh: Stress ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới nhưng những nghiên cứu về stress nói<br /> riêng cũng như về sức khỏe tâm thần vẫn chưa được chú trọng một cách đúng mức. Điển hình là có rất ít<br /> các nghiên cứu về tình trạng mắc stress trên đối tượng sinh viên ở Việt Nam. Nghiên cứu này thực hiện<br /> nhằm xác định tình trạng mắc stress và các yếu tố liên quan của sinh viên Y Tế Công Cộng (YTCC) Đại<br /> học Y Dược TP.Hồ Chí Minh (ĐHYD TPHCM), Việt Nam.<br /> Mục tiêu: Xác định tình trạng stress của sinh viên YTCC- ĐHYD TPHCM năm 2010 và các yếu tố<br /> liên quan.<br /> Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả trên 182 sinh viên YTCC- DHYD<br /> TPHCM. Bộ câu hỏi tự điền được thiết kế gồm 3 phần chính : bộ câu hỏi tự cảm nhận stress dựa trên thang<br /> đo PSS, bộ câu hỏi xác định tính cách hướng nội và hướng ngoại, bộ câu hỏi một số yếu tố liên quan đến<br /> stress trong môi trường học tập.<br /> Kết quả: Sinh viên bị stress bệnh lý chiếm tỉ lệ khá cao với 24,2%, trong đó có 2,8% sinh viên bị stress<br /> bệnh lý nặng. Tỉ lệ sinh viên bị stress ở nhà trọ và ở nhà người thân cao hơn tỉ lệ sinh viên bị stress ở kí túc<br /> xá. . Đa số sinh viên YTCC – ĐHYD TPHCM có tính cách hướng ngoại. Tìm được mối liên quan giữa<br /> tình trạng mắc stress và tính cách của sinh viên : những sinh viên bị stress có tính cách hướng nội cao gấp<br /> 2,5 lần tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính cách hướng ngoại. Thống kê từ các yếu tố trong môi trường<br /> học tập cho thấy hơn 80% sinh viên cảm thấy căng thẳng vì khối lượng bài vở nhiều, căng thẳng trước mỗi<br /> kì thi và việc học thi gây mệt mỏi... Nhưng qua thực tế nghiên cứu thì vẫn chưa tìm ra mối liên quan giữa<br /> stress và các yếu tố trong môi trường học tập.<br /> Kết luận: Sức khỏe tâm thần của đối tượng sinh viên không chỉ chịu ảnh hưởng của chất lượng môi<br /> trường học tập và gia đình mà còn bị chi phối bởi các đặc điểm cá nhân và xã hội. Tỉ lệ sinh viên YTCC bị<br /> stress bệnh lý là khá cao, bên cạnh đó tìm được mối liên quan giữa tình trạng bị stress với tính cách hướng<br /> nội và hướng ngoại. Do đó những nỗ lực để nâng cao sức khỏe tâm thần nói chung và tình trạng stress nói<br /> riêng như những hoạt động đoàn hội, những câu lạc bộ giao lưu hướng ngoại giữa các sinh viên, những<br /> trung tâm tham vấn về sức khỏe tinh thần là vô cùng cần thiết, góp phần cải thiện sức khỏe tâm thần cho<br /> thế hệ tương lai của tổ quốc<br /> Từ khóa: Stress, hướng nội, hướng ngoại, sinh viên y tế công cộng<br /> <br /> *<br /> <br /> Cử nhân Y tế Công cộng 2006<br /> Bộ môn Giáo dục sức khỏe & Tâm lý y học, khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh<br /> Địa chỉ liên hệ: CN. Lê Thu Huyền<br /> ĐT: 01267394937<br /> Email: lethuhuyen@ytecongcong.com<br /> **<br /> <br /> Chuyên Đề Y tế Công cộng<br /> <br /> 87<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011<br /> <br /> ABSTRACT<br /> EXPLORING THE STRESS SITUATION OF PUBLIC HEALTH STUDENTS<br /> IN HO CHI MINH CITY, VIETNAM IN 2010<br /> Le Thu Huyen, Huynh Ho Ngoc Quynh<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 – 2011: 87 - 92<br /> Background: In recent times, stress has spread out all over the world. In contradictory, there has been<br /> very little research conducted on the stress as well as mental health status of university students in<br /> Vietnam. Therefore, we conducted this study to identify the stress situation of Public Health undergraduate<br /> student in Ho Chi Minh City University of Medicine and Pharmacy (HCMC UMP), Vietnam.<br /> Objectives: Identify the stress situation and associated factors of Pulic Health undergraduate student<br /> in HCMC UMP, Vietnam in April 2010.<br /> Methods: A cross-sectional survey was conducted with a total of 182 students participated. The<br /> questionnaire included 3 main parts: self stress identify using PSS scale, external - internal character<br /> identify and associated school environmental factors.<br /> Results: There was a large proportion of stress at total of 24.2% which included 2.8% of serious stress<br /> disease. The proportion of students who lived in rent houses and relative’s houses was higher than who lived<br /> in dormitory. The external character students had a significant proportion compared to the internal<br /> character students. There was a relation between stress and student character: the proportion of those stress<br /> students who had internal character was 2.5 times higher than the ones who had external character. Results<br /> on the school environmental factors showed that more than 80% of students felt stressful because of<br /> overload amount of exercises, stressful before exams,… However, this study still has not been revealed any<br /> relation between stress and the school environmental factors.<br /> Conclusions: Student’s mental health is not only affected by the quality of family and school<br /> environments but also by personal and social characteristics. The stress students was resulted in high<br /> proportion. In addition, there was a relation between stress and student character. Consequently, the efforts<br /> which is used for improving health mental as well as stress situation such as organizing outdoor activities<br /> or opening mental health counseling services must be carefully considered in order to provide the best<br /> foundation for these young generation.<br /> Key words: Stress, internal character, external character, Pulic Health undergraduate student.<br /> đến stress(7). Bên cạnh đó, một nghiên cứu của<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> hiệp hội tâm lý Mỹ năm 2004 đưa ra kết quả là<br /> Stress dường như là một phần tất yếu<br /> có đến 54% dân số Mỹ cảm thấy bị stress<br /> không thể tránh được trong cuộc sống của<br /> trong cuộc sống hàng ngày của họ(7). Tại Việt<br /> mỗi người. Mỗi người chúng ta luôn sống<br /> Nam mặc dù chưa có thông kê rõ ràng nhưng<br /> trong một cộng đồng xã hội, với nhiều biến<br /> theo TS.Huỳnh Văn Sơn, chỉ tính riêng từ<br /> cố, nhiều sự kiện xảy ra hàng ngày, nhiều tình<br /> tháng 05 đến tháng 06 năm 2006, hồ sơ tư vấn<br /> huống phức tạp khác nhau mà mình phải<br /> cho thấy có đến 10 ca tư vấn stress sinh viên<br /> đương đầu… Tình hình stress trên thế giới<br /> đã được thực hiện tại Công ty Tư vấn Hồn<br /> ngày càng gia tăng nghiêm trọng, đặc biệt là ở<br /> Việt (TP.HCM) với 8 ca trung bình, 2 ca ở mức<br /> những nước phát triển. Các chuyên gia y tế<br /> nặng. Stress ở sinh viên đang thật sự là một<br /> công cộng tại Mỹ xác nhận rằng có đến 90%<br /> vấn đề đáng quan tâm hiện nay.(10) Đối với<br /> các bệnh tật và rối loạn tại Mỹ có liên quan<br /> sinh viên Y Tế Công Cộng - Đại học Y Dược<br /> <br /> 88<br /> <br /> Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011<br /> thành phố Hồ Chí Minh: ngoài những đặc<br /> điểm cơ bản của sinh viên nói chung thì với<br /> khối lượng kiến thức và áp lực học tập lớn<br /> hơn, thiết nghĩ stress là không thể tránh khỏi.<br /> Hiện nay, những nghiên cứu về sức khỏe tâm<br /> thần, đặc biệt là stress vẫn còn ít, chưa thực sự<br /> được quan tâm đúng mức. Do đó, nghiên cứu<br /> này được thực hiện với mục đích xác định<br /> được tình trạng stress của sinh viên Y Tế<br /> Công Cộng và các yếu tố liên quan đến tình<br /> trạng này.<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Thiết kế NC: Cắt ngang mô tả<br /> Cỡ mẫu và Đối tượng nghiên cứu: 182<br /> <br /> viên khoa y tế công cộng có học lực trung<br /> bình với 74,2%.<br /> Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=182)<br /> <br /> Do chọn mẫu toàn bộ nên hạn chế tối đa<br /> sai lệch chọn lựa. Ngoài ra, việc hướng dẫn và<br /> kiểm tra sinh viên khi trả lời bộ câu hỏi và<br /> nghiên cứu thử trên sinh viên YTCC08 cũng<br /> phần nào giúp hạn chế được sai lệch trong<br /> quá trình thu thập thông tin.<br /> <br /> Phân tích và xử lý số liệu<br /> Số liệu được nhập bằng Epi Data và phân<br /> tích bằng Stata10.0.<br /> <br /> Vấn đề Y đức<br /> Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tự<br /> nguyện đồng ý tham gia của đối tượng, đảm<br /> bảo tính bí mật các thông tin cá nhân. Đối<br /> tượng nghiên cứu được giải thích rõ về mục<br /> tiêu nghiên cứu, thời gian phỏng vấn và việc<br /> sử dụng kết quả nghiên cứu.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Đối tượng nghiên cứu phân bố tương đối<br /> đều giữa các khối lớp, mỗi khối chiếm khoảng<br /> 25%. Sinh viên nữ chiếm đa số với tỷ lệ là<br /> 68,1%, sinh viên nam chiếm 31,7%, tỷ lệ giới<br /> tính: nam : nữ là 1:2. Nhìn chung đa số sinh<br /> <br /> Chuyên Đề Y tế Công cộng<br /> <br /> Nam<br /> <br /> 58<br /> <br /> 31,9<br /> <br /> Nữ<br /> Đã kết hôn<br /> Độc thân<br /> Khác<br /> Ký túc xá<br /> Nhà trọ<br /> Nhà<br /> Nhà người thân<br /> Giỏi<br /> Khá<br /> Trung bình<br /> Yếu<br /> Có<br /> Không<br /> <br /> 124<br /> 2<br /> 177<br /> 3<br /> 39<br /> 62<br /> 53<br /> 28<br /> 6<br /> 38<br /> 135<br /> 3<br /> 37<br /> 145<br /> <br /> 68,1<br /> 1,1<br /> 97,3<br /> 1,7<br /> 21,4<br /> 34,1<br /> 29,1<br /> 15,4<br /> 3,3<br /> 20,9<br /> 74,2<br /> 1,7<br /> 20,3<br /> 79,7<br /> <br /> Năm<br /> Năm<br /> Năm<br /> Năm<br /> <br /> Niên khóa<br /> <br /> Giới<br /> Tình trạng hôn<br /> nhân<br /> Nơi ở<br /> <br /> Học lực<br /> <br /> Phỏng vấn gián tiếp qua Bộ câu hỏi tự điền.<br /> <br /> Kiểm soát sai lệch chọn lựa và sai lệch<br /> thông tin<br /> <br /> 46<br /> 44<br /> 50<br /> 42<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> (%)<br /> 25,3<br /> 24,2<br /> 27,5<br /> 23,1<br /> <br /> Tần số<br /> <br /> sinh viên khoa YTCC - ĐHYD TP.HCM<br /> Thời gian nghiên cứu: 02/2010 – 06/2010.<br /> <br /> Phương pháp và Công cụ nghiên cứu:<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Chức vụ<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> <br /> Bảng 2 thể hiện sự phân bố tuổi theo khối<br /> lớp. Số sinh viên học trễ hơn so với tuổi chính<br /> thức (51/182) tương đối cao trong toàn khoa,<br /> chiếm tỷ lệ 28%.<br /> Bảng 2: Đặc điểm phân bố tuổi theo khối lớp<br /> (n=182)<br /> Tuổi<br /> 19<br /> 20<br /> 21<br /> 22<br /> >22<br /> Tổng<br /> <br /> Năm 1<br /> 36<br /> (78,3%)<br /> 6<br /> <br /> Năm 2<br /> 0<br /> <br /> Năm 3<br /> 0<br /> <br /> Năm 4<br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> 36<br /> (81,8%)<br /> 6<br /> <br /> 0<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 35<br /> (70,0%)<br /> 12<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> 24<br /> (57,1%)<br /> 18<br /> <br /> 46<br /> (100%)<br /> <br /> 44<br /> (100%)<br /> <br /> 50<br /> (100%)<br /> <br /> 42<br /> (100%)<br /> <br /> Bảng 3 thể hiện tình trạng mắc stress theo<br /> đặc điểm đối tượng nghiên cứu. Kết quả chưa<br /> tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng stress<br /> với giới tính và chức vụ. Tìm được mối liên<br /> quan giữa tình trạng stress và nơi ở: Tỉ lệ sinh<br /> <br /> 89<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011<br /> <br /> viên bị stress bệnh lý ở nhà trọ bằng 4,2 lần tỉ<br /> lệ sinh viên bị stress bệnh lý ở kí túc xá. Tỉ lệ<br /> sinh viên bị stress bệnh lý ở nhóm sinh viên ở<br /> nhà người thân bằng 4,2 lần tỉ lệ sinh viên bị<br /> stress bệnh lý ở nhóm sinh viên ở kí túc xá.<br /> Bảng 3: Tình trạng mắc stress theo đặc điểm đối<br /> tượng nghiên cứu:<br /> Stress n (%)<br /> Stress<br /> Stress bình<br /> bệnh lý<br /> thường<br /> 10 (17,3)<br /> 48 (82,8)<br /> 34 (27,4)<br /> 90 (72,6)<br /> <br /> Giới<br /> tính<br /> <br /> Nam<br /> Nữ<br /> <br /> Chức<br /> vụ<br /> <br /> Có<br /> <br /> 14 (10,8)<br /> <br /> 33 (89,2)<br /> <br /> Không<br /> <br /> 40 (27,6)<br /> <br /> 105 (72,4)<br /> <br /> Kí túc xá<br /> <br /> 3 (7,7)<br /> <br /> 36 (92,3)<br /> <br /> Nhà trọ<br /> <br /> 20 (32,3)<br /> <br /> 42 (67,7)<br /> <br /> Nhà<br /> <br /> 12 (22,6)<br /> <br /> 41 (77,4)<br /> <br /> Nhà<br /> người<br /> thân<br /> <br /> 9 (32,1)<br /> <br /> 19 (67,9)<br /> <br /> Nơi ở<br /> <br /> P<br /> <br /> PR<br /> (KTC 95%)<br /> <br /> 0,033<br /> <br /> 0,65<br /> (0,36 -1,17)<br /> 1<br /> <br /> 4,2<br /> (1,3 – 13,2)<br /> 2,9<br /> 0,077<br /> (0,9 – 9,7)<br /> 0,014<br /> <br /> 0,021<br /> <br /> Stress n (%)<br /> Stress bệnh<br /> Stress bình<br /> lý<br /> thường<br /> 10 (21,7)<br /> 36 (78,3)<br /> 12 (27,3)<br /> 32 (27,3)<br /> 15 (30,0)<br /> 35 (70,0)<br /> <br /> Năm 4<br /> <br /> 7 (16,7)<br /> <br /> 35 (83,3)<br /> <br /> Giỏi<br /> <br /> 0 (0,0)<br /> <br /> 6 (100,0)<br /> <br /> Khá<br /> <br /> 7 (18,4)<br /> <br /> 31 (81,6)<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 37 (27,4)<br /> <br /> 98 (72,6)<br /> <br /> Yếu<br /> <br /> 0 (0,0)<br /> <br /> 3 (100,0)<br /> <br /> 1 (50,0)<br /> <br /> 1 (50,0)<br /> <br /> 42 (23,7)<br /> <br /> 135 (76,3)<br /> <br /> 135 (76,3)<br /> <br /> 2 (66,7)<br /> <br /> Học lực<br /> <br /> 4,2<br /> (1,2 – 14,1)<br /> <br /> p<br /> <br /> 0,458<br /> <br /> 0,228<br /> <br /> Đã kết hôn<br /> Tình<br /> trạng hôn Độc thân<br /> nhân<br /> Khác<br /> <br /> 0,643<br /> <br /> Bảng 5 thể hiện mối liên quan giữa stress<br /> và tính cách. Tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý<br /> có tính cách hướng nội chiếm 36,1% cao hơn tỉ<br /> lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính cách<br /> hướng ngoại chiếm 14,1%. Sự khác biệt này là<br /> <br /> 90<br /> <br /> Hướng nội<br /> Tính<br /> cách<br /> <br /> Bảng 4: Mối liên quan giữa tính cách và khối lớp<br /> (n=182)<br /> <br /> Khối lớp<br /> <br /> Bảng 5: Mối liên quan giữa stress và tính cách<br /> (n=182)<br /> <br /> 0,135<br /> <br /> Bảng 4 thể hiện mối liên quan giữa tính<br /> cách và khối lớp. Tỉ lệ sinh viên có tính cách<br /> hướng ngoại ở năm hai bằng 1,6 lần tỉ lệ sinh<br /> viên có tính cách hướng ngoại ở năm nhất.<br /> <br /> Năm 1<br /> Năm 2<br /> Năm 3<br /> <br /> có ý nghĩa thống kê với p= 0.006. Tỉ lệ sinh<br /> viên bị stress bệnh lý có tính cách hướng nội<br /> bằng 2,6 lần tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có<br /> tính cách hướng ngoại. Nói cách khác là<br /> những tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính<br /> cách hướng ngoại bằng 0,4 lần tỉ lệ sinh viên<br /> bị stress bệnh lý có tính cách hướng nội.<br /> <br /> Hướng<br /> ngoại<br /> <br /> Stress n (%)<br /> PR<br /> p<br /> (KTC 95%)<br /> Streess<br /> Stress bình<br /> bệnh lý<br /> thường<br /> 30<br /> 53<br /> 2,6<br /> (36,1)<br /> (63,9)<br /> (1,45 – 4,49)<br /> 0,006<br /> 14<br /> 85<br /> 0,4<br /> (14,1)<br /> (85,9)<br /> (0,22 – 0,69)<br /> <br /> Thống kê từ các yếu tố trong môi trường<br /> học tâp cho thấy hơn 80% sinh viên trong<br /> nghiên cứu này cảm thấy khối lượng bài vở<br /> nhiều, căng thẳng trước mỗi kỳ thi và việc học<br /> thi gây mệt mỏi... Tuy nhiên thực tế qua<br /> nghiên cứu thì vẫn chưa tìm ra mối liên quan<br /> giữa stress và các yếu tố trong môi trường<br /> học tập.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Điểm trung bình (ĐTB) tự cảm nhận stress<br /> là 19,4 thấp hơn mức giới hạn (24 điểm) giữa<br /> stress bình thường và stress bệnh lý. Điều này<br /> phù hợp với đặc điểm sinh viên khoa y tế<br /> công cộng qua nghiên cứu về tình trạng stress<br /> của Trần Nguyễn Vân Như với ĐTB tự cảm<br /> nhận stress là 19,2. (17) Tuy nhiên số điểm này<br /> cũng không phải là thấp khi so sánh với<br /> nghiên cứu của M.H.Abel có ĐTB là 21,2 (11).<br /> Mặc dù đối tượng nghiên cứu của Abel cùng<br /> độ tuổi với những sinh viên trong nghiên cứu<br /> này nhưng đa số sinh viên nước ngoài đều đã<br /> có cuộc sống tự lập nên có nhiều mối quan<br /> tâm lo nghĩ hơn và vì vậy kết quả tự cảm<br /> nhận của các sinh viên nước ngoài mới nặng<br /> nề hơn.<br /> Tỷ lệ sinh viên bị stress bệnh lý là 24,2%,<br /> trong đó 2,8% sinh viên ở mức độ stress nặng,<br /> có thể có biểu hiện của bệnh lý tâm thần. Tỉ lệ<br /> <br /> Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011<br /> này cao hơn so với nghiên cứu về tình trạng<br /> stress của Trần Nguyễn Vân Như năm 2006 (17)<br /> với tỉ lệ stress bệnh lý là 18%. Điều này có thể<br /> lý giải là do điều kiện xã hội ngày càng thay<br /> đổi, con người chịu nhiều áp lực hơn, vấn đề<br /> khủng hoảng kinh tế năm 2008 cũng là một<br /> nguyên nhân có thể dẫn đến điều này hoặc<br /> các bạn chưa có đủ khả năng và kinh nghiệm<br /> để vượt qua.<br /> Tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý ở nhà trọ<br /> bằng 4,2 lần tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý ở<br /> kí túc xá. Điều này có thể lý giải do tiền thuê<br /> nhà trọ và phí sinh hoạt của sinh viên ở trọ<br /> bên ngoài cao hơn rất nhiều so với tiền ở kí<br /> túc xá nên sinh viên ở trọ có mối lo về kinh tế<br /> nhiều hơn. Bên cạnh đó, các hoạt động đoàn<br /> hội văn nghệ nâng cao tinh thần cho sinh viên<br /> cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình<br /> trạng stress ở sinh viên kí túc xá thấp hơn<br /> sinh viên ở trọ. Tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý<br /> ở nhóm sinh viên ở nhà người thân bằng 4,2<br /> lần tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý ở nhóm<br /> sinh viên ở kí túc xá. Điều này có thể lý giải<br /> do các bạn ở nhà người thân thì không được<br /> thoải mái, không được tự do, hoặc có thể bị<br /> áp lực nhiều mặt như học hành, bạn bè, tình<br /> cảm… từ phía những người thân.<br /> Tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính<br /> cách hướng nội bằng 2,6 lần tỉ lệ sinh viên bị<br /> stress bệnh lý có tính cách hướng ngoại. Kết<br /> quả này khác với kết quả thu được từ nghiên<br /> cứu về stress nghề nghiệp và tính cách của<br /> Rosnah M.T Azmi (9). Kết quả của tác giả này<br /> cho thấy không có mối liên quan giữa stress<br /> nghề nghiệp và tính cách. Điều này có thể là<br /> do sự khác biệt về môi trường và đối tượng<br /> nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu trong<br /> nghiên cứu của Rosnah M.T Azmi là những y<br /> tá đã đi làm trong bệnh viện, đã có nhiều trải<br /> nghiệm trong cuộc sống, quen với áp lực của<br /> công việc nên có thể biết điều chỉnh cách ứng<br /> phó với stress nghề nghiệp mặc dù tính cách<br /> là hướng nội hay hướng ngoại. Khác với các<br /> bạn sinh viên, khi còn đang đi học thì suy<br /> nghĩ và hành động thường gắn liền với nhau.<br /> <br /> Chuyên Đề Y tế Công cộng<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Những bạn có tính cách hướng nội thì thường<br /> sống khép kín, nên có lẽ vì thế mà những bạn<br /> có tính cách hướng nội này có tỉ lệ stress cao<br /> hơn các bạn có tính cách hướng ngoại.<br /> Thống kê từ các yếu tố trong môi trường<br /> học tâp cho thấy hơn 80% sinh viên trong<br /> nghiên cứu này cảm thấy khối lượng bài vở<br /> nhiều, căng thẳng trước mỗi kỳ thi và việc học<br /> thi gây mệt mỏi.. Có lẽ đây là cảm nhận<br /> chung của đa số các sinh viên vì áp lực học<br /> tập và khối lượng bài vở thuộc chương trình<br /> đại học nhiều và khó hơn so với phổ thông.<br /> Tuy nhiên thực tế qua nghiên cứu thì vẫn<br /> chưa tìm ra mối liên quan giữa stress và các<br /> yếu tố trong môi trường học tập.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> Tỷ lệ stress bệnh lý trong sinh viên khoa Y<br /> Tế Công Cộng là 24,2%, trong đó 2,8% sinh<br /> viên ở mức độ nặng có thể có biểu hiện của<br /> bệnh lý tâm thần. Sinh viên khoa Y Tế Công<br /> Cộng có xu hướng hướng ngoại nhiều hơn<br /> với 54,4% hướng ngoại.Tìm được sự khác biệt<br /> có ý nghĩa thống kê giữa tính cách hướng nội,<br /> hướng ngoại và khối lớp: Tỉ lệ sinh viên năm<br /> hai có tính cách hướng ngoại bằng 1,6 lần tỉ lệ<br /> sinh viên năm nhất có tính cách hướng ngoại.<br /> Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự<br /> tương quan có ý nghĩa giữa trạng tính cách<br /> hướng nội, hướng ngoại và tình trạng stress:<br /> Tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính cách<br /> hướng nội bằng 2,6 lần tỉ lệ sinh viên bị stress<br /> bệnh lý có tính cách hướng ngoại. Nói cách<br /> khác là tỉ lệ sinh viên bị stress bệnh lý có tính<br /> cách hướng ngoại bằng 0,4 lần tỉ lệ sinh viên<br /> bị stress bệnh lý có tính cách hướng nội.<br /> Nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ giữa<br /> tình trạng stress và nơi ở hiện tại của sinh<br /> viên: tỉ lệ những sinh viên bị stress bệnh lý ở<br /> nhà trọ và ở nhà người thân cao gấp 4 lần tỉ lệ<br /> sinh viên bị stress ở kí túc xá.<br /> <br /> 91<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2