intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tiến trình hội nhập của Việt Nam

Chia sẻ: Pham Phuong Di | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

127
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tiến trình hội nhập của Việt Nam" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương và đường lối hội nhập của Việt Nam, giới thiệu về các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia trong tiến trình hội nhập,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Toàn cầu hoá, khu vực hoá và tiến trình hội nhập của Việt Nam

  1. TOÀN CẦU HOÁ, KHU VỰC HOÁ VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA  VIỆT NAM A. TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ                 Xu thế  hoà bình, hợp tác để  phát triển ngày càng trở  thành đòi  hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế  giới. Các nước đều   dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, cần có môi trường hoà bình ổn định  và thực hiện chính sách mở cửa, các nền kinh tế ngày càng gắn bó, tuỳ  thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, các thể  chế  đa  phương thế giới và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng với sự  phát   triển của ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường của các dân tộc.                 Toàn cầu hoá đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của  quan hệ  quốc tế  hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ  đã và  đang thúc đẩy mạnh mẽ  quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc  gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của   khoa học ­ công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ  thông tin, đã đưa các   quốc gia gắn kết lại gần nhau. Trước những biến đổi to lớn về  khoa học ­   công nghệ này, tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu   kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở  cửa, giảm và tiến tới dỡ  bỏ  hàng rào thuế  quan và phi thuế  quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân  chuyển vốn, lao động và kỹ  thuật trên thế  giới ngày càng thông thoáng hơn,  mở  đường cho kinh tế quốc tế phát triển. Đại diện cho xu thế  toàn cầu hoá  này là sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT)   vào năm 1948 với 23 nước thành viên sáng lập với mục tiêu xác lập những   nguyên tắc điều chỉnh và thúc đẩy thương mại quốc tế  phục vụ  cho phát   triển kinh tế  của mỗi nước thành viên. Kể  từ  1/1/1995, GATT đã được đổi  thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) điều tiết không chỉ thương mại   hàng hoá mà mở rộng sang cả thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí  tuệ. Với 144 nước thành viên chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương mại   thế giới, WTO trở thành một tổ chức có quy mô toàn cầu và là nền tảng pháp  lý cho quan hệ  kinh tế  quốc tế, là diễn đàn thường trực đàm phán thương  mại và là thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.               Xu thế khu vực hoá cũng đã xuất hiện ở những năm 1950, đã và đang   phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay, với sự ra đời của trên 40 tổ  chức kinh   tế, thương mại khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh Châu 
  2. Âu (EU) năm 1993 với 15 nước thành viên, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam   Á (ASEAN) năm 1967 với 9 nước thành viên, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu   Á ­ Thái Bình Dương ­ (APEC) năm 1989 với 21 nước thành viên chiếm trên  60% GDP và 50% kim ngạch thương mại thế giới, Hợp tác Á ­ Âu (ASEM)  năm 1996, Khu vực Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994.               Các tổ chức kinh tế ­ thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng của   WTO, tuân thủ các nguyên tắc của WTO, được WTO công nhận, đều nhằm  mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự  do hoá, thuận lợi hoá thương mại   và đầu tư, tạo lập lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, nhưng mỗi tổ chức  đều chọn những lĩnh vực mà mình có lợi thế  hơn để  tập trung nguồn lực,   hợp tác chiều sâu, theo những phương thức đa dạng nhằm tạo lợi thế  cạnh   tranh riêng cho khu vực.               Có thể  nói bản chất của các tổ  chức quốc tế  và khu vực như  đã nói   trên là để giải quyết vấn đề  thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá   là sản phẩm của quá trình cạnh tranh giành giật thị  trường gay gắt giữa các  quốc gia và giữa các thực thể  kinh tế  quốc tế. Với sự  phát triển mạnh mẽ  của cuộc cách mạng khoa học ­ công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển  kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của vấn đề  thị  trường tiêu thụ. Với sự hợp tác   quốc tế, những hàng rào cản trở  giao lưu thương mại và đầu tư  ngày càng  giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở thành một thị trường chung.               Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều nỗ  lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát   triển của chính mình. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh  phân chia thị trường. Cuộc khủng hoảng kinh tế ­ tài chính ­ tiền tệ ở châu Á  vừa qua không những không đảo ngược xu thế  liên kết khu vực, liên kết  quốc tế  về  thương mại, đầu tư  trên thế  giới mà thậm chí còn có phần kích   thích xu thế đó phát triển. Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng lên  làm cho tất cả các nước phải thường xuyên có những cải cách kịp thời trong   nước để  thích  ứng với những sự  biến động trên thế  giới. Vì vậy, hội nhập   quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế  và củng cố  an ninh chính trị, độc lập kinh tế  và bản sắc dân tộc của mỗi   nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ  tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen,  nhiều chiều ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác.               Toàn cầu hóa thể hiện trong một số hoạt động cụ thể như:   ∙          Gia tăng các luồng giao lưu quốc tế  về hàng hóa, dịch vụ, vốn,  công nghệ, lao động, thông tin, …
  3. ∙          Hình thành và phát triển các thị  trường thống nhất trên phạm vi  toàn cầu ∙          Sự phát triển về số lượng và hoạt động của các công ty đa quốc   gia   ***   B. CHỦ TRƯƠNG VÀ ĐƯỜNG LỐI HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM     B.1. Tiến trình hội nhập của Việt Nam               Đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế, Đại hội   Đảng lần thứ  VII đã chủ  trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ  đối  ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập quốc tế. Những bước   đi quan trọng đầu tiên của ta trong quá trình này đều được sự  chỉ  đạo chặt  chẽ và kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Nghị quyết   Trung  ương 3 ngày 29/6/1992 về  chính sách đối ngoại và kinh tế  đối ngoại  nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ  với các tổ  chức quốc tế, trong đó nhấn   mạnh "cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế   như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát   triển châu Á (ADB)... mở  rộng quan hệ  với các tổ  chức hợp tác khu vực,   trước hết ở châu Á ­ Thái bình dương". Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội VIII đã  quyết định "nhiệm vụ  đối ngoại quan trọng trong thời gian tới là củng cố   môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế  thuận lợi hơn nữa  để  đẩy   mạnh phát triển kinh tế ­ xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước",  và "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Nghị quyết 04  của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ngày 29/12/1997 nêu nguyên  tắc hội nhập quốc tế của ta là: "trên cơ  sở phát huy nội lực, thực hiện nhất   quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài". Nghị  quyết Đại  hội IX khẳng định: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh   thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả  hợp tác quốc tế, bảo đảm   độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ  nghĩa, bảo vệ  lợi ích dân tộc; an   ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường ". Tiếp đó,  ngày 27/11/2001, Bộ  Chính trị  đã ra Nghị  quyết 07­NQ/TW nêu rõ mục tiêu,  những quan điểm chỉ đạo, một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập  kinh tế quốc tế.               Với đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế  đúng đắn, chúng  ta đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu về  ổn định và phát triển  nền kinh tế; quan hệ kinh tế ­ chính trị đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc  
  4. tế  được nâng cao, tạo thế  và lực, khả  năng và cơ  hội để  tiếp tục phát triển  trong những năm tới. Ngày 17/10/1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia  nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông nam Á (ASEAN), từ 25/7/1995 đã chính  thức tham gia tổ  chức  này và từ 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ  thành  viên   AFTA.   Tháng   12/1994,   theo   Quyết   định   của   Bộ   Chính   trị   (1015  CV/VPTW   ngày 22/11/1994),   Việt Nam đã   gửi   đơn   xin   gia   nhập   Tổ   chức  Thương mại Thế  giới (WTO). Tiếp đó, tháng 3/1996, ta đã tham gia với tư  cách thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á­Âu (ASEM). Theo Quyết định  của Bộ  Chính trị  (493 CV/VPTW ngày 14/6/1996), ngày 15/6/1996 ta đã gửi  đơn   xin  gia  nhập  Diễn  đàn  Hợp   tác  Kinh  tế  châu   Á  ­  Thái  Bình  Dương  (APEC) và tháng 11/1998 đã chính thức được công nhận là thành viên của tổ  chức này. Đối với WTO, ta đã hoàn tất giai đoạn minh bạch hoá chính sách  trả  lời các câu hỏi về  chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư  mà các nước  WTO đặt ra và đã bắt đầu tiến hành đàm phán về mở cửa thị trường.   B.2. Tổ chức bộ máy Nhà nước liên quan đến công tác hội nhập               Tháng 7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội   các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sự  kiện này đánh dấu một cột mốc  quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế  thế  giới. Ngày 10/10/1995, Thủ  tướng Chính phủ  đã có Quyết định số  651/TTg thành lập Uỷ  ban Quốc gia  Điều phối Hoạt động của Việt Nam trong ASEAN để giúp Thủ tướng Chính  phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành, địa phương, tổ chức, đoàn thể nhân dân tham gia   các hoạt động trong ASEAN về lĩnh vực an ninh, chính trị, kinh tế, văn hoá,   xã hội, khoa học kỹ thuật và đối ngoại.               Tuy nhiên, tiến trình hội nhập kinh tế  quốc tế  đã nhanh chóng mở  rộng ra ngoài phạm vi ASEAN. Từ đầu năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin  gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tháng 3/1996, Việt Nam trở  thành một thành viên sáng lập của Hội nghị  Á­Âu (ASEM). Tháng 6/1996,  Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế  Châu Á ­ Thái  Bình Dương (APEC). Bên cạnh đó, việc đàm phán Hiệp định Thương mại  ViệtNam ­ Hoa Kỳ  và tham gia các cơ  chế  hợp tác kinh tế  đa phương khác  đòi hỏi phải có một cơ quan điều phối mang tính bao trùm hơn. Do vậy, ngày   10/2/1998 Thủ  tướng Chính phủ  đã ra Quyết định số  31/1998/QĐ­TTg thành  lập Uỷ  ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế  Quốc tế  (UBQG­HTKTQT) nhằm  thống nhất sự chỉ đạo của Chính phủ đối với quá trình Việt Nam gia nhập và   hoạt động trong các tổ chức kinh tế ­ thương mại quốc tế và khu vực.               Ngày 27/11/2001, Bộ  Chính trị  đã ra Nghị  quyết 07/NQ­TW xác định  những mục tiêu, nhiệm vụ của công tác hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở 
  5. đó, UBQG­HTKTQT đã được kiện toàn để đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình  mới.               Uỷ  ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế  quốc tế  gồm các thành viên sau   đây:   ∙          Chủ tịch Uỷ ban: Phó Thủ tướng Chính phủ ∙          Phó Chủ tịch Uỷ ban: Bộ trưởng Bộ Thương mại ∙          Tổng Thư  ký Uỷ  ban kiêm Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ  về  kinh tế ­ thương mại quốc tế: Thứ trưởng Bộ Thương mại ∙          Uỷ viên Thường trực: Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ∙          Các Uỷ viên:   ­         Thứ trưởng Bộ Ngoại giao ­         Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ­         Thứ trưởng Bộ Tài chính ­         Thứ trưởng Bộ Tư pháp ­         Thứ trưởng Bộ Công nghiệp ­         Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ­         Thứ trưởng Bộ Công an ­         Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ­         Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ­         Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ­         Thứ trưởng Bộ Bưu chính ­ Viễn thông ­         Thứ trưởng Bộ Văn hoá ­ Thông tin ­         Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ­         Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch               Ngoài ra, thành viên Uỷ ban còn bao gồm:             ­ Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương             ­ Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội     ***   C. GIỚI THIỆU VỀ CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ MÀ  VIỆT NAM ĐàVÀ SẼ THAM GIA TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP C.1. WTO   a) Mục tiêu: WTO được thành lập với 3 mục tiêu và chức năng cơ bản sau :
  6.   ∙          Thiết lập một hệ  thống luật lệ  quốc tế  chung  điều tiết mọi  hoạt động thương mại của các nước tham gia ký kết (đến tháng  1/2002 là 144 nước thành viên). ∙          một diễn đàn đa phương để các nước đàm phán về tự do hoá và  thuận lợi hóa thương mại, trong đó bao gồm cả  tự  do hoá thương  mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. ∙          một toà án quốc tế  để  giải quyết tranh chấp thương mại giữa   các nước thành viên.   Ngoài ra 3 mục tiêu và chức năng cơ bản trên, WTO còn tăng cường hợp tác  với các tổ chức quốc tế khác để  giải quyết các vấn đề  kinh tế  toàn cầu, trợ  giúp các nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi tham gia vào  hệ thống thương mại đa biên thế giới.   b) Những nguyên tắc cơ bản   Hoạt động của WTO dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:   ∙          Không phân biệt đối xử ∙          Tự  do hóa thương mại thông qua cắt giảm dần các hàng rào  thương mại ∙          Khuyến khích cạnh tranh công bằng, đảm bảo môi trường kinh   doanh ổn định, rõ ràng và dự đoán được ∙          Có đối xử  đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát   triển   c) Nội dung hoạt động:               Với thoả  thuận chung về  nguyên tắc của WTO, mà cụ  thể  tại Vòng  Urugoay vừa qua, các nước thành viên cam kết trong vòng 6 năm, thuế  đánh  vào hàng nông sản giảm trung bình 36%; mở  cửa thị  trường nông sản cho  nhập khẩu tối thiểu từ 3­5% mức tiêu thụ  nội địa và các cam kết về  thuế  ở  các lĩnh vực khác.               Trên cơ  sở  đó, mỗi nước thành viên phải soạn thảo lịch trình của  mình cho các loại sản phẩm mà mình sẽ  thực hiện giảm thuế  và mức giảm  thuế  cụ  thể. Lịch trình này sẽ  thông báo cho WTO và đàm phán cụ  thể  các   mức ưu đãi miễn trừ với các nước thành viên WTO, trên cơ sở song phương. 
  7. Đàm phán đó sẽ đi vào cụ thể từng loại mặt hàng, từng mức ưu đãi.               Cũng trên cơ sở cam kết đa phương trong khuôn khổ WTO về các lĩnh  vực chính sách thương mại, mỗi nước thành viên phải cụ  thể  hóa, ra tuyên  bố về mức ưu đãi mà mình có thể thực hiện để đàm phán với các nước thành  viên WTO. Thí dụ tại Vòng Urugoay vừa qua, người ta thoả thuận cắt giảm   trợ  cấp gây phương hại cho thương mại bình đẳng là 20% trong vòng 6   năm  với các nước công nghiệp phát triển và 10 năm với các nước khác. Thuế  hóa các biện pháp không mang hình thức thuế. Thống nhất một số nguyên tắc  về cấp giấy phép nhập khẩu, về vệ sinh động thực vật, quy chế xuất xứ ...               Ngoài những vấn đề nói trên, WTO còn đặt ra giải quyết các vấn đề:   ∙          Thương mại dịch vụ  như  ngân hàng, viễn thông, vận tải biển,   hàng không, xây dựng, du lịch, tư vấn, v.v... ∙          Quy chế xuất xứ ∙          Chống bán phá giá, chống bán hàng có trợ cấp ∙          Quyền sở  hữu trí tuệ: bảo hộ  bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng   hóa, kiểu dáng, … ∙          Xác định trị giá để tính thuế hàng hóa của hải quan ∙          Đầu tư liên quan tới thương mại, …   C.2. AFTA   a) Mục tiêu và các nguyên tắc hợp tác:   1. Tăng cường hợp tác kinh tế  theo tư  tưởng hướng ngoại, góp phần  thúc đẩy tự do hoá thương mại toàn cầu; 2. Các bên cùng có lợi; và 3.  Tất   cả   các   thành   viên   cùng  tham   gia  vào   các   đề   án  kinh   tế   của  ASEAN. Tuy nhiên, hai hoặc hơn hai nước có thể  triển khai thực  hiện trước mặc dù các nước khác chưa chuẩn bị sẵn sàng.   b) Nội dung hợp tác               Trọng tâm của hợp tác kinh tế trong ASEAN là Chương trình Khu vực  Thương mại Tự  do ASEAN (AFTA) với việc giảm thuế  nhập khẩu xuống   còn 0­5% và cắt giảm dần hàng rào phi quan thuế cản trở thương mại trong  
  8. vòng 15 năm kể từ 1/1/1993 cho 2 loại hàng chính là: hàng công nghệ và nông  sản chế biến.               Ngày 25/9/1994, Hội nghị  Bộ  trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26 tại   Chiang Mai (Thái Lan) đã quyết định rút ngắn thời hạn giảm thuế từ 15 năm  xuống còn 10 năm; đồng thời mở rộng diện mặt hàng giảm thuế bao gồm cả  hàng nông sản chưa qua chế biến. Như vậy, chương trình CEPT sẽ được kết   thúc vào năm 2003 và các nước thành viên sẽ đưa toàn bộ sản phẩm của mình   vào tham gia kế hoạch giảm thuế và phi quan thuế, trừ một số sản phẩm đặc   biệt liên quan đến an ninh, đạo đức, sức khoẻ con người và động­thực vật có  thể  loại trừ  và mặt hàng nông sản chưa chế  biến (UAP) có lịch trình riêng   kéo   dài   đến   năm   2010.   Tại   Hội   nghị   Thượng   đỉnh   ASEAN   lần   thứ   VI  (12/1998), ASEAN đã quyết định đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện AFTA.               Theo các cam kết của ASEAN thì:   Nước 0­5% Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore,  2002 Thái Lan Việt Nam 2006 Lào, Myanmar 2008 Cam­pu­chia 2010               Bên cạnh đó, ASEAN cũng đang hướng tới việc loại bỏ  hoàn toàn  thuế quan (thuế suất 0%).               Ngay sau khi một sản phẩm được hưởng  ưu đãi thuế  quan theo như  quy định nói trên, các quy định hạn chế định lượng như hạn ngạch số lượng,   hạn ngạch giá trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định   lượng đối với sản phẩm đó sẽ  được loại bỏ  hoàn toàn. 5 năm sau khi một   sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan, các biện pháp phi thuế khác cũng sẽ  được loại bỏ.               Tháng 10/1998, các nước ASEAN đã ký Hiệp định khung về Khu vực   Đầu tư  ASEAN (AIA) để  tăng cường và thu hút đầu tư  trong ASEAN. Nội  dung chính là mở cửa các ngành công nghiệp và dành đãi ngộ  quốc gia (NT)  ngay cho các nhà đầu tư ASEAN trừ những lĩnh vực cấm hoặc nhạy cảm của  
  9. riêng từng nước. Việt Nam và Lào sẽ  thực hiện  ưu đãi này chậm nhất vào  năm 2010. Các nước ASEAN còn lại vào năm 2003.               Các nước ASEAN đã hoàn thành vòng đàm phán (1996­1998) mở cửa  thị  trường dịch vụ  cho 7 ngành: du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải biển,   vận tải  hàng không, xây dựng, dịch vụ  kinh doanh, tài chính và tiếp tục mở  vòng đàm phán mới (1999­2001) cho các lĩnh vực dịch vụ còn lại, bao gồm tất   cả các phương thức cung cấp dịch vụ.               Ngoài ra, các nước ASEAN còn hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực  khác: công nghiệp, năng lượng, nông nghiệp, giao thông vận tải, hải quan,  khoa học công nghệ môi trường, tài chính, ngân hàng, hài hoà tiêu chuẩn chất  lượng, …   C.3. APEC               Mục tiêu của APEC là thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư vào  năm 2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát  triển. 15 lĩnh vực  ưu tiên thực hiện tự  do hoá và thuận lợi hoá thương mại,  đầu tư của APEC là:   a) Thuế quan:   ∙           Thực hiện liên tục giảm thuế ∙           Làm rõ công khai hoá chính sách thuế của nước mình   b) Phi quan thuế :   ∙           Thực hiện liên tục giảm hàng rào phi quan thuế ∙           Làm rõ công khai hoá chính sách phi quan thuế của nước mình
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2