intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tội phạm có các rối loạn tâm thần: Tổng quan nghiên cứu và đề xuất các hình thức đánh giá/can thiệp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

21
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tội phạm có các rối loạn tâm thần: Tổng quan nghiên cứu và đề xuất các hình thức đánh giá/can thiệp nghiên cứu tổng quan và đề xuất một số giải pháp tổng thể trong chiến lược phòng ngừa, đánh giá sàng lọc và can thiệp, điều trị cho các phạm nhân có rối loạn tâm thần tại các trại giam song song với việc quản lý, giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tội phạm có các rối loạn tâm thần: Tổng quan nghiên cứu và đề xuất các hình thức đánh giá/can thiệp

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 TỘI PHẠM CÓ CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT CÁC HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ/CAN THIỆP Lê Minh Công1 TÓM TẮT Tại Việt Nam, người phạm tội có những vấn đề về sức khỏe tâm thần đang là một chủ đề còn bỏ ngỏ. Điều này gây rất nhiều trở ngại cho ngành Tư pháp nói riêng và xã hội nói chung. Chúng tôi bước đầu triển khai một nghiên cứu tổng quan và đề xuất một số giải pháp tổng thể trong chiến lược phòng ngừa, đánh giá sàng lọc và can thiệp, điều trị cho các phạm nhân có rối loạn tâm thần tại các trại giam song song với việc quản lý, giáo dục. Tuy nhiên, những trở ngại về chính sách và nguồn lực con người đang là rào cản rất lớn với tiến trình này. Từ khóa: Sức khỏe tâm thần, rối loạn tâm thần, tội phạm, đánh giá, điều trị 1. Đặt vấn đề thần phạm tội nên tỷ lệ tái phạm gia tăng. Sức khỏe tâm thần (SKTT) nói Trong thực tiễn, chúng tôi cũng chưa ghi chung và các rối loạn tâm thần (RLTT) nhận các báo cáo nghiên cứu nào có bằng nói riêng đang là những vấn đề thách chứng hoặc có phạm vi đủ rộng để có thể thức của xã hội hiện đại. Theo Tổ chức xem xét trong việc xây dựng các giải Y tế thế giới (WHO - 2004), có gần 54 pháp và mô hình phòng ngừa, đánh giá triệu người trên thế giới mắc chứng tâm và điều trị, phục hồi các phạm nhân có thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực, có RLTT tại Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên khoảng 154 triệu người mắc chứng trầm cứu tổng quan về tội phạm có các rối cảm và khoảng 1 triệu người tự tử mỗi loạn tâm thần từ các quốc gia trên thế năm. Tại Việt Nam, từ năm 1999, Bộ Y giới, trên cơ sở đó, đề xuất một số hình tế đã triển khai dự án quốc gia về chăm thức đánh giá/can thiệp phù hợp với bối sóc SKTT cộng đồng. Tuy nhiên mô cảnh của Việt Nam là rất cần thiết. hình này được đánh giá là chưa hiệu quả. 2. Một số nghiên cứu về mối liên Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến các vấn quan giữa các hình thức tội phạm và đề xã hội, một trong các vấn đề chính là rối loạn tâm thần tỷ lệ tội phạm có các vấn đề tâm thần Các nghiên cứu cho thấy, RLTT có thể ngày càng gia tăng. Đây là thực trạng là vấn đề ở nhiều loại tội phạm khác nhau. đáng báo động của xã hội hiện đại và là Do đó, chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm và trở ngại rất lớn không chỉ đối với lĩnh mô tả các vấn đề tội phạm liên quan đến vực SKTT, các hoạt động tư pháp. RLTT. Trên cơ sở phân tích từ dữ liệu này, Trong thực hành tâm lý lâm sàng và chúng tôi sẽ đề xuất một số hình thức đánh thực thi pháp luật, chúng ta mới chỉ quan giá/can thiệp và khuyến nghị để phòng tâm đến các trường hợp phạm nhân có ngừa, giải quyết tình trạng đó ở tội phạm có biểu hiện của triệu chứng tâm thần và vấn đề tâm thần ở Việt Nam. được gửi đến giám định tại các cơ sở 2.1. Nghiên cứu về tội giết người pháp y tâm thần. Điều này tạo ra những Tội phạm giết người ngày càng gia bất cập, nhất là việc phòng ngừa tội tăng ở nhiều quốc gia với sự đa dạng về phạm có RLTT, hoặc điều trị người tâm cách thức cũng như động cơ phạm tội. Dữ 1 Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 68 Email: congle@hcmussh.edu.vn
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 liệu nghiên cứu do Sidney Bloch & Bruce và cộng sự (2001) cho thấy, tội phạm có S. Singh (2001) tổng hợp cho thấy, đa số RLTT tăng lên trong các vụ án giết người, nạn nhân là người quen biết hoặc ở trong tự sát và tai nạn. Tỷ lệ tội phạm có RLTT gia đình, hoặc có mối quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ ở các vụ án trên là tương với thủ phạm, trong đó chỉ có khoảng đương và không có sự khác biệt. Nghiên 20% nạn nhân là người lạ với thủ phạm cứu cũng ghi nhận, tội phạm giết người [1]. Vấn đề rất đáng quan tâm là rất nhiều ngày càng tăng ở nam giới tâm thần phân tội phạm giết người có các RLTT. Điều liệt và nhân cách ái kỷ. Nguy cơ tử vong đặc biệt là những quốc gia có tỷ lệ tội là nạn nhân của các vụ giết người và tai phạm giết người thấp như Anh lại có tỷ lệ nạn cao nhất ở những người có nghiện tội phạm giết người có RLTT cao hơn so rượu và sử dụng ma túy [3]. với các quốc gia có tỷ lệ tội phạm giết Báo cáo khảo sát quốc gia ở Anh và người cao như Hoa Kỳ. Tại Anh, có xứ Wales của Jenny Shaw, Isabelle M. khoảng 10% người phạm tội giết người bị Hunt, Sandra Flynn (2006) với khoảng tâm thần phân liệt và một tỷ lệ nhiều hơn 1.594 tội phạm giết người trong 3 năm người có vấn đề về nhân cách (đa số là (1996 - 1999) cho thấy, khoảng 34% tội nhân cách chống đối) và có vấn đề lạm phạm giết người có các RLTT, trong đó dụng chất (chủ yếu là rượu và ma túy). hầu hết chưa được tiếp nhận các dịch vụ Những người trầm cảm có khuynh hướng chăm sóc SKTT. Trong 34% tội phạm giết người, sau đó tự sát và khá nhiều phụ giết người có RLTT, 5% bị tâm thần nữ có xu hướng giết con sau đó tự sát. phân liệt (suốt đời), 10% có triệu chứng Nhiều vụ giết người do thủ phạm có các bệnh tâm thần tại thời điểm phạm tội, 9% cơn bùng nổ xung động bạo lực và không đã từng nhận được các bản án giảm nhẹ thể kiểm soát cảm xúc trong các cuộc trách nhiệm hình sự vì RLTT, 7% đã tranh cãi, đối đầu trong gia đình hoặc từng điều trị nội trú tâm thần và ghen tuông. Các nghiên cứu tổng hợp trốn/hoặc bỏ viện điều trị [4]. cũng cho thấy, khoảng 1/10 các thủ phạm Báo cáo nghiên cứu của Willcox D giết người cũng là tội phạm trấn lột hay E (1985) tại Contra Costa, California, một tội khác và 10 - 20% thủ phạm đã tự trong giai đoạn 1978 - 1980 cho thấy, có sát ngay sau khi giết người [1]. 49/71 (69%) người có RLTT liên quan Báo cáo nghiên cứu tổng hợp trong đến tội phạm giết người. Các RLTT bao 30 năm (1970 - 2000) tại New Zealand gồm: tâm thần phân liệt thể hoang tưởng của Alexander I. F Simpson và cộng sự cấp tính và mãn tính, RLTT do sử dụng (2004) cho thấy, các vụ giết người mà tội chất gây nghiện, sa sút trí tuệ do các bệnh phạm có vấn đề về SKTT chiếm khoảng lý nhồi máu cơ tim, nhân cách chống đối 8,7%; trong đó, 10% thủ phạm đã từng xã hội. Trên cơ sở dữ liệu này, các nhà được nhập viện điều trị trước khi phạm nghiên cứu đề nghị Hiệp hội Tâm thần tội, 28,6% chưa từng được tiếp nhận các Hoa Kỳ cần phải xây dựng các nguyên dịch vụ chăm sóc SKTT, đa số các nạn tắc, cam kết trong đánh giá và bắt buộc nhân và thủ phạm là người quen biết nhau điều trị đối với phạm nhân có RLTT để (74%) [2]. Nghiên cứu của Urara Hiroeh giảm nguy cơ tái phạm ở những phạm 69
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 nhân này [5]. Báo cáo nghiên cứu tổng liên quan đến một số vấn đề SKTT khác hợp của Paolo Roma và cộng sự (2012) nhau. Nghiên cứu của Gordon H, Grubin trong 60 năm ở nhiều quốc gia cho thấy, D (2004) cho thấy, tội phạm hiếp dâm có trầm cảm là rối loạn thường xuyên được liên quan đến vấn đề tổn thương não bộ báo cáo trong các trường hợp giết người - hoặc các dạng khuyết tật học tập hoặc tự sát (khoảng 39%), lạm dụng chất kích các vấn đề phát triển thần kinh khác như thích (20%), loạn thần (17%) [5]. chậm phát triển, tăng động giảm chú ý 2.2. Nghiên cứu về tội phạm về hoặc rối loạn phổ tự kỷ. Marshall và tình dục Barbaree (1990) cho rằng, một số cá Tội phạm tình dục bao gồm hiếp nhân có các xung động thần kinh (chưa dâm/cưỡng dâm và các loại tội phạm tình phải các rối loạn kiểm soát xung lực), dục khác như phô bày tình dục, cọ xát nhất là các xung động gây hấn thường có tình dục, tình dục nhìn trộm, điện thoại xu hướng bạo lực trong tình dục hoặc khiêu dâm, loạn dục với đồ vật và lạm hiếp dâm. Những dữ liệu nghiên cứu dục với trẻ em. Cưỡng dâm, hay hiếp cũng cho thấy, cá nhân có trải nghiệm dâm (rape) là một hành vi tình dục mà cảm xúc khó khăn từ nhỏ (thời ấu thơ) và theo quy định tại Điều 141, Bộ luật Hình những người tổn thương não bộ (khoảng sự (2015) là: “Người nào dùng vũ lực, đe 3,9%), bất thường ở thùy thái dương có dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng nguy cơ cao xâm hại tình dục/hoặc tội không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc phạm hiếp dâm [6]. thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện Ngoài những vấn đề của não bộ, tội hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý phạm hiếp dâm/cưỡng dâm cũng có muốn của nạn nhân thì bị phạt tù từ 02 những vấn đề RLTT. Những người có tội năm đến 07 năm”. phạm hiếp dâm liên quan đến SKTT Các dữ liệu nghiên cứu khác nhau thường là người bệnh tâm thần phân liệt cho thấy, đa số thủ phạm hiếp dâm (nguy cơ cao hơn gấp bốn lần so với không có RLTT, có các trường hợp sử người không có RLTT), rối loạn lưỡng dụng rượu, đặc biệt là ma túy. Tuy nhiên, cực (chủ yếu là hội chứng hưng cảm). thủ phạm của các vụ hiếp dâm thường có Những người tâm thần phân liệt là tội một quá trình phát triển bị rối loạn và có phạm tình dục thường có các vấn đề: tâm thể dính tới các tội phạm khác trong quá thần phân liệt thể paranoid, có lệch lạc khứ. Một số tội phạm hiếp dâm có liên tình dục xuất hiện trong bối cảnh bệnh quan đến sự thỏa mãn các xung động tấn tật/hoặc quá trình điều trị; có lệch lạc tình công, xâm chiếm, sự thèm muốn sử dụng dục là một biểu hiện của hành vi chống quyền lực của mình và làm nhục người đối xã hội (thường ở trong giai đoạn hưng khác. Nhiều thủ phạm hiếp dâm cũng có cảm với các triệu chứng dương tính); có năng lực trí tuệ/nhận thức và năng lực xã sa sút trí tuệ, tổn thương não bộ hoặc lạm hội kém, có khó khăn trong việc xây dụng chất. Nghiên cứu của Langstrom và dựng các mối quan hệ tình cảm và cảm cộng sự (2004) cho thấy, các chẩn đoán xúc. Mặc dù vậy, nhiều dữ liệu nghiên tâm thần ở tội phạm hiếp dâm phổ biến nhất là nghiện rượu (9,3%), nghiện ma cứu cũng chỉ ra, tội phạm hiếp dâm có 70
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 túy (3,9%), các rối loạn nhân cách 2.3. Nghiên cứu về tội phạm liên (2,6%), loạn thần (1,7%) [1]. quan đến các sự cố như gây hỏa hoạn, Bên cạnh những RLTT được chẩn gây thương tích cho người khác bằng đoán liên quan đến tội phạm tình dục như bạo lực tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực thì Các vấn đề về sự cố và gây thương các rối loạn chức năng tình dục cũng là tích thường có nhiều động cơ như trả thù, vấn đề rất cần được quan tâm. Rối loạn tìm cảm giác bạo lực, hành vi nhằm phá chức năng tình dục có liên quan bao hoại, che giấu tội phạm khác, do kích gồm: phô bày tình dục, cọ xát tình dục, động dâm dục hoặc vì tiền… Tuy nhiên, khoái cảm nhìn trộm (thị dâm), điện tỷ lệ không nhỏ tội phạm gây nên các sự thoại (hoặc hiện nay là internet), loạn cố hoặc gây thương tích là do các RLTT dụng với đồ vật và loạn dục với trẻ em. hoặc vấn đề SKTT khác như rối loạn hành Nghiên cứu của Craissati J. (2005) cho vi và tăng động giảm chú ý ở thanh thiếu thấy, khoảng 5-10% tội phạm tình dục có niên và tâm thần phân liệt, rối loạn nhân liên quan đến các chẩn đoán rối loạn cách (chủ yếu là rối loạn nhân cách chống chức năng tình dục [1]. Tội phạm tình đối), rối loạn khí sắc, trầm cảm, nghiện dục còn liên quan đến một vấn đề khác, chất và chậm/khuyết tật trí tuệ [1]. E. đó là sự theo đuổi. Đây là vấn đề lo lắng Fuller Torrey (1994) cho rằng, cá nhân có của nhiều người về sự quấy nhiễu lặp đi tiền sử bạo lực, không tuân thủ điều trị và lặp lại, dẫn tới việc làm cho nạn nhân lạm dụng chất kích thích là những yếu tố phải buồn phiền vì sự giao tiếp miễn dự báo trước về hành vi bạo lực và phạm cưỡng, hoặc cách tiếp cận gây sợ hãi và tội trong nhóm bệnh nhân tâm thần. Jari phiền muộn. Sự theo đuổi là vấn đề sức Tiihonen và cộng sự (1997) cho rằng, có khỏe nghiêm trọng, bởi vì sự quấy rối 7% đối tượng phạm tội bạo lực được chẩn liên tiếp sẽ dẫn đến các rắc rối về tâm lý đoán RLTT. Tội phạm bạo lực ở người và xã hội đáng kể cho nạn nhân. Một số tâm thần phân liệt cao gấp 7 lần so với người bị theo đuổi nhiều tháng hoặc người bình thường và ở người rối loạn khí nhiều năm có thể gây cảm xúc khó chịu, sắc là 8,8 lần. Khoảng 7% nam giới có buồn phiền nặng nề và thường gây RLTT liên quan đến hành vi vi phạm Luật những hạn chế nghiêm trọng cho cuộc Giao thông và xâm phạm tài sản của sống của họ. Hiện tượng này tương đối người khác. Tỷ lệ không nhỏ tội phạm phổ biến, 5-10% người dân cho biết có liên quan đến các hành vi sử dụng rượu những giai đoạn bị theo đuổi kéo dài một và ma túy, nhất là khi nam có RLTT có tháng hoặc hơn, các nạn nhân thường là sử dụng rượu thì tỷ lệ phạm tội cao gấp 4 nữ nhiều hơn nam (8:2) và nam giới lần so với nhóm tâm thần không có sử thường là thủ phạm nhiều hơn nữ (8:2), dụng rượu. Người RLTT ở tầng lớp kinh một số thủ phạm theo đuổi người cùng tế - xã hội thấp có tỷ lệ phạm tội cao hơn giới với mình. Theo các nghiên cứu thì gấp 1,5 lần so với nhóm khác. Hơn thế, tỷ những kẻ theo đuổi thuộc nhóm có các lệ tái phạm chung là 57%, trong đó đa số RLTT rõ rệt, đa phần là các rối loạn nhân là người có RLTT (85% của nhóm trên). cách mà tỷ lệ cao là các rối loạn nhân Nghiên cứu cũng chỉ ra, tỷ lệ người phạm cách thể paranoid [6]. 71
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 tội bạo lực là 10%, trong đó khoảng 25% các dữ liệu nghiên cứu. Bên cạnh đó, RLTT [7]. việc lạm dụng các chất kích thích cũng 2.4. Nghiên cứu về tội phạm trộm cắp là một trong những nguyên nhân gây ra Những dữ liệu thực tế cho thấy, hầu các RLTT và dẫn đến hành vi phạm tội hết tội phạm trộm cắp đều có động cơ và của hầu hết các loại tội phạm được đề nhu cầu chiếm hữu tài sản của người cập. Kết quả nghiên cứu sẽ là những dữ khác hoặc do tham lam. Tội phạm trộm liệu quan trọng cho việc đề xuất các hình cắp đa phần thuộc tầng lớp nghèo, kinh thức đánh giá/can thiệp, từ đó có thể góp tế khó khăn. Tuy nhiên, một tỷ lệ không phần hạn chế hành vi phạm tội ở những nhỏ có các vấn đề tâm thần, trong đó tỷ nhóm người có nguy cơ hoặc can thiệp lệ cao nhất là rối loạn cảm xúc, đặc biệt đối với những tội phạm có tiền sử RLTT là trầm cảm. Những người trầm cảm ăn trong thời gian chịu sự trừng phạt của cắp một cách ngẫu nhiên và do sơ ý vì pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất các khi trầm cảm, họ rất đau khổ và giảm tập hành vi lặp lại khi họ có cơ hội tái hòa trung chú ý vào đối tượng họ đang thực nhập cộng đồng. hiện hoạt động. Đôi khi người trầm cảm 3. Đề xuất các hình thức đánh ăn cắp vì tin rằng họ đáng bị trừng phạt giá/can thiệp đối với nhóm tội phạm có hoặc muốn mọi người biết đến sự đau các rối loạn tâm thần và một số kiến nghị khổ của họ. Tình trạng lạm dụng ma túy 3.1. Tiên lượng lâm sàng về các mối hay rượu cũng có liên quan đến tình nguy hiểm/nguy cơ ở tội phạm có rối trạng phạm tội trộm cắp, vì tình trạng loạn tâm thần để phòng ngừa nghiện làm cho họ giảm khả năng kiềm Tại nhiều quốc gia trên thế giới, việc chế và gây ra tình trạng vắng ý thức, sa quản lý các nguy cơ ở nhóm tội phạm có sút trí tuệ. Do đó, việc ăn cắp thường là RLTT tập trung ở nhiều bối cảnh khác do giảm sút quá trình nhận thức. Tình nhau. Ví dụ: Có thể thực hiện ở trường trạng rối loạn kiểm soát xung lực, cụ thể học với các học sinh có nguy cơ và hành là ăn cắp bệnh lý (Kleptomania) cũng là vi vi phạm pháp luật cao, ở tại cộng đồng vấn đề nghiêm trọng dẫn tới tình trạng (đặc biệt là các phường/xã) thường phạm tội này. Với nhóm người có ăn cắp xuyên tiếp xúc với các cá nhân có hành bệnh lý thì sự căng thẳng bị tăng cường vi phạm tội và ở các cơ quan cảnh sát trước khi ăn cắp sẽ được giải tỏa khi ăn điều tra, nơi tạm giữ hình sự với những cắp và các đồ vật ăn cắp được là những trường hợp vi phạm (nếu có nghi ngờ về thứ mà thực ra đối tượng không thèm RLTT của họ). muốn, về sau sẽ được vứt bỏ hoặc đem Tại Việt Nam, điều này đòi hỏi phải trả lại [1]. có một hướng dẫn chi tiết về việc đánh Từ các báo cáo nghiên cứu trên có giá SKTT dành cho các nhóm chuyên thể thấy, RLTT là một trong những môn ở cộng đồng khác nhau như nhà tâm nguyên nhân quan trọng chi phối hành vi lý trường học, nhân viên công tác xã hội phạm tội của hầu hết các loại tội phạm. tại địa phương hoặc nhân viên y tế tại các Các loại tội phạm giết người, hiếp dâm, trại giam giữ ban đầu (nhà tạm giam). gây thương tích, trộm cắp… có liên quan Thậm chí các cá nhân thuộc lĩnh vực đến RLTT đều chiếm tỷ lệ khá cao trong khác như giáo viên, cảnh sát… cũng cần 72
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 có hiểu biết cơ bản về RLTT để có thể xác định/chẩn đoán cũng phải có quyền sàng lọc và chuyển cho nhà chuyên môn chỉ định điều trị bắt buộc hay không với một cách phù hợp. Vì vậy, việc đào tạo bệnh nhân của mình. Nơi gửi và giới các nhà chuyên môn và có hướng dẫn cơ thiệu đến có thể là nhà tâm lý lâm sàng, bản là rất quan trọng, nhất là trong bối nhân viên công tác xã hội lâm sàng hoặc cảnh nhân lực của ngành Tâm thần tại tòa án, cơ quan điều tra. Điều này sẽ giúp Việt Nam hiện nay rất hạn chế. việc sàng lọc các mối nguy cơ từ bệnh 3.2. Giam giữ và điều trị cưỡng bức nhân tâm thần dẫn tới các loại tội phạm. Người có RLTT thường gây ra các Ngành Tâm thần Việt Nam đang gặp hành vi tự gây tổn thương. Hơn thế, nhiều trở ngại, nhất là sự thiếu thốn các người tâm thần thường không tuân thủ cơ sở điều trị tâm thần nội trú/bắt buộc điều trị tại cộng đồng. Họ có thể gây ra (bệnh viện, trung tâm…), sự thiếu và yếu các hành vi nguy hiểm cho bản thân hay về nguồn lực nhân viên y tế, thiếu các mô cho người khác. Vì vậy, đối với những hình điều trị/ phục hồi SKTT tại cộng người có hành vi vi phạm pháp luật hoặc đồng. Luật về SKTT cũng cần phải quy tội phạm có các RLTT thì việc điều trị định rõ ai là người cần phải điều trị cưỡng bức trong bệnh viện/hoặc những cưỡng bức/điều trị nội trú và ai là người nơi giam giữ có điều trị tâm thần là rất điều trị. Theo kinh nghiệm của nhiều cần thiết. quốc gia trên thế giới, những bệnh nhân Trong lĩnh vực đánh giá và điều trị tâm thần có nguy cơ cao trong việc gây tâm thần, tại Việt Nam hiện có hai hình nguy hại cho bản thân hoặc người khác thức can thiệp/điều trị như sau: 1) Mô thường phải điều trị cưỡng bức tại các hình can thiệp bắt buộc trong bệnh viện/ bệnh viện tâm thần, như bệnh nhân có rối trung tâm SKTT; 2) Mô hình điều trị/can loạn khí sắc, bệnh nhân loạn thần hoặc thiệp các RLTT dựa vào cộng đồng RLTT do nghiện chất. Việc yêu cầu điều (thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, trị cưỡng chế thường kéo dài từ 2 đến 7 hoặc điều trị ngoại trú). Với hình thức ngày tùy vào từng quốc gia, tập trung vào điều trị ngoại trú tại cộng đồng thì các các vấn đề cấp tính để nhà chuyên môn nhóm đối tượng có RLTT thuộc chương theo dõi, đánh giá, xác định có điều trị trình mục tiêu quốc gia mới được quan tiếp tục hay không. Sau đó việc điều trị tâm sàng lọc và có chính sách điều trị hỗ có thể kéo dài 2 - 4 tuần, hoặc lâu hơn, trợ là tâm thần phân liệt, động kinh và thậm chí vài tháng hoặc năm tùy thuộc trầm cảm. Các nhóm khác, nhất là nhóm vào mức rối loạn và nguy cơ của bệnh lý rối loạn nhân cách hoặc loạn dục dường tâm thần. như khá ít được quan tâm trong thực 3.3. Đối với các phạm nhân đã hành lâm sàng, người bệnh cũng chưa có được định bệnh tại trại giam hiểu biết về nhóm rối loạn này. Chính vì Tội phạm có các RLTT thường có tỷ thế chúng tôi cho rằng, việc xây dựng và lệ tái phạm cao. Theo nghiên cứu của thông qua luật về SKTT là rất cần thiết. Ralph C. Serin (1996), tỷ lệ tái phạm Trong đó quy định rõ ai là người có thẩm chung ở phạm nhân là 57%, trong đó đa quyền xác định/chẩn đoán các RLTT, số là người có RLTT (85% của nhóm đồng thời chính người có thẩm quyền trên). Do đó, để giúp phạm nhân hạn chế 73
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 tỷ lệ tái phạm tội thì một trong các giải SKTT là một việc không thể thiếu trong pháp chính là sàng lọc và điều trị các vấn hệ thống tòa án các quốc gia phát triển. đề tâm thần của bệnh nhân. Muốn chăm Việc đánh giá trong giai đoạn này sóc SKTT một cách hệ thống, hiệu quả thường được cơ quan pháp y tâm thần và thì điều quan trọng là phải có sự đánh giá chủ yếu là các bác sĩ hoặc chuyên gia một cách toàn diện để đưa ra biện pháp tâm lý lâm sàng có năng lực thực hiện. xử lý thích hợp trong hệ thống tư pháp Việc đánh giá giúp tòa án có các quyết hình sự. Việc đánh giá phải được thực định về việc định tội danh hay giảm trừ hiện một cách hệ thống thông qua các bối mức độ phạm tội, hoặc đề nghị giam giữ. cảnh khác nhau. Nền tảng của việc đánh Đánh giá và sàng lọc để điều trị giá là sàng lọc để xác định những người trong các trại giam (nhà tù): Việc đánh phạm tội RLTT và đưa ra phương pháp giá và sàng lọc này phải được thực hiện điều trị cần thiết. Phương pháp sàng lọc một cách rộng rãi và thường xuyên với nên xây dựng các bảng hỏi có cấu trúc phạm nhân ở các trại giam. Nguyên nhân một cách tổng quát để nhân viên trong hệ là nhiều phạm nhân có thể khởi phát các thống tư pháp có thể sàng lọc, sau đó gửi RLTT trong quá trình giam giữ, hoặc có cho các nhà chuyên môn trong lĩnh vực vấn đề tâm thần trước đó. Vì thế, sàng SKTT đánh giá chính thức. Một số công lọc các RLTT để được điều trị các RLTT cụ được sử dụng rộng rãi là Thang sàng là rất cần thiết, giúp tỷ lệ tái phạm giảm lọc để giới thiệu, Bảng sàng lọc các vấn và hiệu quả hơn trong quá trình cải huấn. đề tâm thần và Công cụ đánh giá sàng lọc Việc này phải được thực hiện ở tất cả các trong trại giam. trại giam (kể cả các trường giáo dưỡng) Đánh giá và sàng lọc bởi cơ quan và phải được thực hiện bởi các nhà cảnh sát: Cơ quan cảnh sát thường là đầu chuyên môn là bác sĩ tâm thần và nhà mối đầu tiên của hệ thống tư pháp hình tâm lý lâm sàng trong lĩnh vực pháp y và sự có tiếp xúc với tội phạm. Chính vì thế, tội phạm. Các cơ sở giam giữ cũng cần nhân viên cảnh sát cũng cần có các kiến tuyển chọn đội ngũ nhà chuyên môn này thức về SKTT và RLTT để có thể có sự để có thể có chiến lược điều trị RLTT sàng lọc ban đầu. Đồng thời họ có thể cho phạm nhân có RLTT. biết cách liên hệ với những nhà chuyên 3.4. Một số kiến nghị môn gần nhất (như bác sĩ tâm thần hoặc Dưới đây là một số kiến nghị cụ thể: nhà tâm lý lâm sàng) để sàng lọc và chẩn - Xây dựng luật về SKTT làm cơ sở đoán, từ đó có những quyết định phù pháp lý để có thể nâng cao các chiến lược hợp: bắt tạm giam hoặc kiến nghị được sàng lọc, đánh giá và điều trị, phục hồi, điều trị các RLTT. quản lý các RLTT tại cộng đồng. Việc sàng lọc tội phạm có RLTT - Có các nghiên cứu hoặc thu thập dữ cũng thường diễn ra trong nhà tạm giữ. liệu về tỷ lệ bệnh nhân có RLTT, yếu tố Vì vậy, ở nhiều quốc gia thì y tá/hoặc ảnh hưởng đến RLTT ở phạm nhân (nhất nhân viên y tế trong nhà tạm giữ cũng có là trong quá trình giam giữ) để có thể có thể thực hiện việc sàng lọc này. chiến lược dự phòng phù hợp. Đánh giá và sàng lọc tại tòa: Đánh - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá và sàng lọc các vấn đề rối loạn hay dữ liệu các RLTT của phạm nhân trong 74
  8. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 hệ thống tư pháp để quá trình sàng lọc, viện tâm thần để có thể gửi/chuyển bệnh đánh giá được hiệu quả. nhân tâm thần là phạm nhân đến điều trị - Cảnh sát là người tiếp xúc với khi cần thiết. phạm nhân đầu tiên nên việc được đào 4. Kết luận tạo thêm kiến thức về RLTT là rất cần Tỷ lệ phạm nhân có RLTT trong tất thiết trong việc sàng lọc cá nhân có cả các nhóm tội phạm là tương đối cao, RLTT hay không. Trên cơ sở đó có các tùy vào đặc điểm văn hóa và xã hội của khuyến nghị trong chẩn đoán xác định quốc gia, địa phương. Các RLTT khá đa tiếp theo hiệu quả. dạng, từ vấn đề sa sút nhận thức/trí tuệ - Tất cả các đối tượng bị cảnh sát tạm đến nhiều vấn đề thần kinh khác, cũng giữ cần trải qua một cuộc kiểm tra như các rối loạn như tâm thần phân liệt, SKTT. Điều này dẫn tới việc phải có hệ rối loạn lưỡng cực, rối loạn trầm cảm, thống nhân viên y tế có kiến thức và rối loạn hành vi, nghiện chất và rối loạn được đào tạo về sàng lọc SKTT tại đây nhân cách. Để giải quyết những vấn đề để có thể đảm đương việc sàng lọc này. trên cần tập trung vào các giải pháp - Cần tạo kênh thông tin giữa tòa án đồng bộ bao gồm phòng ngừa, sàng lọc và các chuyên gia (đặc biệt là các trung ban đầu, can thiệp/điều trị trong các nhà tâm pháp y tâm thần, bệnh viện tâm thần giam và chiến lược phục hồi sau khi hay trung tâm SKTT) để có thể hỗ trợ tòa mãn hạn tù. án một cách hiệu quả thông qua tiến trình Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu đánh giá và thu thập thông tin trước khi nào về chủ đề này. Chính vì vậy, chúng tòa xử chính thức. tôi khuyến nghị xây dựng luật về SKTT, - Các phạm nhân khi vào trại giam các chiến lược dự phòng tại cộng đồng (sau khi xử án) cần phải được kiểm tra (nhấn mạnh vào trường học và các cộng SKTT (kể cả trẻ vị thành niên), sau đó đồng dân cư), sàng lọc (tập trung vào phải được kiểm tra định kỳ, thường cảnh sát địa phương và nơi tạm giữ, tòa xuyên. Việc thực hiện này do các nhà án), hướng đến việc có các nhà chuyên chuyên môn (bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý môn trong cơ quan tư pháp (tòa án, trại lâm sàng) thực hiện. Vì vậy, trong trại giam) để có thể đánh giá liên tục và điều giam cần tuyển dụng hệ thống các nhà trị RLTT ở phạm nhân. Các nhân viên chuyên môn này, họ sẽ là người cung cấp thuộc lĩnh vực tư pháp cũng cần phải dịch vụ điều trị RLTT cho các phạm được đào tạo có kiến thức về RLTT và nhân có RLTT. Mặt khác, các trại giam SKTT để sàng lọc ban đầu và hỗ trợ điều cũng cần có sự liên kết với hệ thống bệnh trị RLTT ở phạm nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sidney Bloch & Bruce S. Singh (2001), Foundation of clinical Psychiatry (Recond Edition), Melbourne University Press 2. Alexander I. F. Simpson, Brian Mckenna, Andrew Moskowitz, Jeremy Skipworth (20024), “Homicide and mental illness in New Zealand, 1970-2000”, The British Journal of Psychiatry, Volume 185, Issue 5, November 2004, pp. 394-398 75
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 24 - 2022 ISSN 2354-1482 3. Urara Hiroeh, Louis Appleby, Preben Bo Mortensen, Graham Dunn (2001), “Death by homicide, suicide, and other unnatural causes in people with mental illness: a population-based study”, The Lancet, Vol 358, Issue 9229, 2001, pp. 22-29 4. Jenny Shaw, Isabelle M. Hunt, Sandra Flynn, Janet Meehan (2006), “Rates of mental disorder in people convicted of homicide: National clinical survey”, The British Journal of Psychiatry, Volume 188, Issue 2, February 2006 , pp. 143-147 5. Wilcox, D. E. (1985), “The relationship of mental illness to homicide”, American Journal of Forensic Psychiatry, 6(1), 1985, pp. 3-15 6. Marshall W, Barbaree H (1990), “An integrated theory of sexual offending”, Handbook of Sexual Assaults: Issues, Theories and Treatment of the Offender, New York: Plenum; 1990. pp. 363-385 7. E. Fuller Torrey (1994), “Violent Behavior by Individuals With Serious Mental Illness”, Psychiatric Services, Volume 45, Issue 7, pp. 653-662 CRIMINALS WITH MENTAL DISORDERS: LITERATURE VERVIEW AND RECOMMENDATIONS FOR ASSESSMENT/INTERVENTION ABSTRACT In Vietnam, criminals with mental disorders have been the open topic. This causes many obstacles for the Judiciary sector in particular and society in general. We initially developed several overview studies and proposed some overall solutions in strategies for prevention, evaluation, screening, intervention, and treatment strategies together with management and education for prisoners with mental disorders. However, the constrains of policy and human resource are major barriers to this progress. Keywords: Mental health, mental disorders, crime, assessment, treatment (Received: 24/11/2021, Revised: 29/12/2021, Accepted for publication: 31/8/2022) 76
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1