
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
TÔ THỊ HỒNG GẤM
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN KỸ THUẬT SỐ
VÀ TẬP TRUNG NGÂN HÀNG ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2025

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
TÔ THỊ HỒNG GẤM
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN KỸ THUẬT SỐ
VÀ TẬP TRUNG NGÂN HÀNG ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Ngành: Tài chính - Ngân hàng
MÃ SỐ: 9
340201
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀO LÊ KIỀU OANH
TS. TRẦN THỊ KIM OANH
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2025

1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cần thiết của đề tài
1.1.1. Bối cảnh lý thuyết
Ổn định ngân hàng là nền tảng thiết yếu của ổn định tài chính – yếu tố then chốt thúc
đẩy tăng trưởng bền vững và phát triển toàn diện. Với vai trò trung gian tài chính chủ lực, hệ
thống ngân hàng đảm nhiệm kết nối vốn, điều phối thanh khoản và quản trị rủi ro trong nền
kinh tế, do đó ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả phân bổ nguồn lực và sức chống chịu với các
cú sốc kinh tế.
Trong bối cảnh đó, hai hướng chính sách nổi bật là thúc đẩy tài chính toàn diện (TCTD)
và điều chỉnh cấu trúc thị trường ngân hàng, cụ thể là mức độ tập trung. TCTD nhằm mở rộng
tiếp cận tài chính, giúp phân tán rủi ro, tăng cơ sở tiền gửi và kỷ luật thị trường, nhưng cũng
có thể gây mất ổn định nếu thiếu năng lực giám sát và hệ thống kiểm soát rủi ro hiệu quả. Sự
phát triển của TCTD kỹ thuật số làm thay đổi căn bản cách cung ứng dịch vụ tài chính, mở
rộng tiếp cận nhưng cũng làm gia tăng rủi ro công nghệ và chênh lệch tiếp cận giữa các nhóm
dân cư. Trong khi đó, tập trung ngân hàng có thể hỗ trợ ổn định hệ thống nhờ hiệu quả quy
mô, năng lực công nghệ và khả năng chống chịu khủng hoảng, nhưng đồng thời làm suy giảm
kỷ luật thị trường và gia tăng rủi ro lan truyền nếu vượt ngưỡng an toàn. Mức độ tập trung
này cũng có tác động trái chiều đến TCTD, khi vừa có thể mở rộng tiếp cận tài chính, vừa có
thể hạn chế cạnh tranh.
Hiện chỉ có một số nghiên cứu xem xét tác động đồng thời của TCTD và tập trung
ngân hàng đến ổn định ngân hàng, nhưng chủ yếu sử dụng chỉ số đo lường truyền thống hoặc
tiếp cận cấu trúc thị trường từ góc độ cạnh tranh (phi cấu trúc). Ngoài ra, ít nghiên cứu nào
phân tích vai trò điều tiết của phát triển tài chính – một yếu tố có thể làm thay đổi đáng kể
hướng và mức độ tác động của TCTD và tập trung đến ổn định ngân hàng. Khoảng trống này
đặt ra nhu cầu cấp thiết cho các nghiên cứu cập nhật, toàn diện và phù hợp với bối cảnh số
hóa tài chính hiện nay.
1.1.2. Bối cảnh thực tiễn
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã bộc lộ những điểm yếu trong cấu
trúc nguồn vốn ngân hàng, đặc biệt là sự lệ thuộc vào vốn ngắn hạn quy mô lớn. Trong khi
đó, các khoản tiền gửi nhỏ lẻ lại cho thấy tính ổn định cao hơn trước các cú sốc thanh khoản.
Từ đó, nhiều quốc gia thúc đẩy tài chính toàn diện kỹ thuật số như một trụ cột mới nhằm củng
cố nền tảng vốn và ổn định tài chính sau khủng hoảng.

2
Bước sang kỷ nguyên số, TCTD phát triển nhanh chóng dưới hình thức kỹ thuật số
(DFI), nhờ sự lan tỏa của công nghệ di động, internet và ngân hàng số. Các sáng kiến như
UFA2020 của WB – IMF hay Nguyên tắc G20 về Hòa nhập tài chính số năm 2016 phản ánh
nỗ lực toàn cầu trong mở rộng tiếp cận tài chính. Đại dịch COVID-19 càng thúc đẩy xu hướng
này khi các dịch vụ không tiếp xúc trở thành ưu tiên hàng đầu.
Trên thực tế, TCTD kỹ thuật số đang phát triển mạnh mẽ từ cả phía cung và cầu. Các
tổ chức tài chính đầu tư vào ví điện tử, ngân hàng số, e-KYC, hệ thống AI/ML đánh giá tín
dụng (World Economic Forum, 2025), trong khi người dân cũng chuyển mạnh sang sử dụng
dịch vụ tài chính số, nhất là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên, tốc độ phát triển này đi
kèm với rủi ro mới về công nghệ và dữ liệu, như các vụ MobiKwik (Ấn Độ, 2021) hay tấn
công SIM tại Kenya, làm gia tăng nguy cơ lan truyền khủng hoảng nếu không có biện pháp
kiểm soát phù hợp (Betham, 2024; Phartiyal & Rocha, 2021).
Cùng lúc đó, xu hướng tập trung hóa ngân hàng cũng gia tăng sau khủng hoảng 2008,
với làn sóng M&A nhằm nâng cao năng lực tài chính và tuân thủ Basel III. Tại Mỹ, số ngân
hàng giảm từ 7.400 (2008) xuống còn hơn 4.000 (2020), với tài sản tập trung vào nhóm ngân
hàng lớn (Mashange, 2024). Các nền kinh tế mới nổi như Malaysia, Indonesia, Việt Nam
cũng thúc đẩy hợp nhất nội địa. Bài học từ Malaysia cho thấy mức độ tập trung cao giúp cải
thiện hiệu quả và tiếp cận tài chính. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào một số ít ngân hàng lớn cũng
tiềm ẩn rủi ro lan truyền hệ thống – như trường hợp Banco Popular tại Tây Ban Nha năm
2017.
Đáng chú ý, tác động của TCTD kỹ thuật số và tập trung ngân hàng đến ổn định hệ
thống không giống nhau ở các quốc gia, mà phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính. Ở Úc
– nơi có thị trường tài chính phát triển và giám sát hiệu quả – hai yếu tố này vẫn hỗ trợ ổn
định hệ thống (RBA, 2025). Trong khi đó, tại Kenya và Nigeria – nơi giao dịch di động chiếm
tới 65% GDP – các ngân hàng nhỏ lại khó duy trì biên lợi nhuận và đầu tư công nghệ do thiếu
quy mô khách hàng đủ lớn (Digipay, 2025).
Từ những bằng chứng nêu trên, có thể thấy TCTD kỹ thuật số và tập trung ngân hàng
là hai xu thế song hành có ảnh hưởng sâu rộng đến ổn định ngân hàng. Tuy nhiên, hiện còn
thiếu các nghiên cứu phân tích đồng thời hai yếu tố này trong mối liên hệ với bối cảnh phát
triển tài chính – một khoảng trống vừa mang tính lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với
hoạch định chính sách.

3
1.2. Mục tiêu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện kỹ thuật số và tập trung ngân hàng đến ổn
định tài chính của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh phát triển tài chính. Từ đó, luận án đề
xuất một số hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện kỹ thuật số, tập trung ngân
hàng nhằm góp phần tăng cường ổn định tài chính cho hệ thống ngân hàng tại các quốc gia.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Luận án xác định những mục tiêu cụ thể như sau:
Thứ nhất, xác định tác động của TCTD kỹ thuật số (thông qua chỉ số tổng hợp và các
khía cạnh thành phần) và tập trung ngân hàng đến ổn định ngân hàng tại các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu.
Thứ hai, kiểm định khả năng tồn tại ngưỡng tác động của TCTD kỹ thuật số và tập
trung ngân hàng đến ổn định ngân hàng tại các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, nhằm phát
hiện tính chất phi tuyến trong tác động này.
Thứ ba, phân tích chiều hướng tác động của tài chính toàn diện kỹ thuật số và tập trung
ngân hàng đến ổn định ngân hàng trong bối cảnh phát triển tài chính tại các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu.
Thứ tư, đề xuất các hàm ý chính sách nhằm tăng cường ổn định ngân hàng tại các quốc
gia trong mẫu nghiên cứu dựa trên các kết quả định lượng thu được.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Sau khi xác định được mục tiêu nghiên cứu như đã trình bày ở trên, một số câu hỏi
nghiên cứu sau đây được đặt ra:
Thứ nhất, TCTD kỹ thuật số (thông qua chỉ số tổng hợp và các khía cạnh thành phần)
và tập trung ngân hàng tác động như thế nào đến ổn định ngân hàng tại các quốc gia trong
mẫu nghiên cứu?
Thứ hai, có tồn tại tác động ngưỡng mà tại đó tác động của TCTD kỹ thuật số và tập
trung ngân hàng đến ổn định ngân hàng thay đổi về chiều hướng?
Thứ ba, sự thay đổi về chiều hướng tác động của TCTD kỹ thuật số và tập trung ngân
hàng đến ổn định ngân hàng trong bối cảnh phát triển tài chính của các quốc gia như thế nào?
Thứ tư, dựa trên các kết quả thực nghiệm, có thể đề xuất những hàm ý chính sách nào
nhằm tăng cường ổn định ngân hàng tại các quốc gia trong mẫu nghiên cứu?

