intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Triết học: Giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

77
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích cơ bản của luận án này là Trên cơ sở nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân, luận án đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Triết học: Giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng  CAND Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước và Chủ  tịch Hồ  Chí Minh  quan tâm giáo dục và rèn luyện; được nhân dân thương yêu đùm bọc, giúp   đỡ. Họ  luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện và kiên quyết  đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế  lực thù  địch và bọn tội phạm; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội   chủ nghĩa, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Các Học viện CAND là nơi đào tạo nguồn nhân lực chủ  yếu cho lực  lượng CAND, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng lớp lớp sỹ  quan Công an có  phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có lòng dũng cảm, có năng lực chuyên môn   nghiệp vụ, đảm bảo làm lực lượng nòng cốt, tiên phong trong mọi nhiệm vụ  được giao. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, Đảng ủy, Ban Giám đốc   và đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy luôn quan tâm chỉ đạo   và   tổ   chức   thực   hiện   việc   giáo   dục   kiến   thức   chuyên   môn   cũng   như  GDYTCT cho học viên, coi đây  là nhiệm vụ  quan trọng và thường xuyên.  Việc GDYTCT  cho học viên các Học viện CAND  là vấn đề  quan trọng  trong chiến lược phát triển con người của Đảng, Nhà nước và ngành Công   an thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Giáo dục YTCT  cho học viên  nhằm làm cho mỗi học viên có nhận thức sâu sắc và có niềm tin vững chắc  đối với chủ  nghĩa Mác – Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, đường lối, quan   điểm của Đảng và chế độ  xã hội chủ  nghĩa; nhận rõ bản chất và âm mưu  chống phá của các thế lực thù địch...Từ đó có lập trường, bản lĩnh chính trị,  kiên định vững vàng trước những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế  lực thù địch và trước mọi cám dỗ của cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, thành tích đạt được, quá trình GDYTCT  trong các Học viện CAND vẫn còn một số  mặt hạn chế  nhất định: chất  lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên còn bất cập; YTCT của một   số học viên chưa cao; chương trình, kế hoạch giáo dục chính trị bị giản lược   đến mức tối thiểu; nội dung giáo dục chậm đổi mới, thiếu cập nhật những   thông tin mới, nhất là những vấn đề chính trị phức tạp, nhạy cảm; phương   pháp giáo dục còn mang tính hình thức, đơn điệu, cứng nhắc, chưa hấp dẫn,  chưa thuyết phục, chưa tạo ra sự  hứng thú đối với người học; công tác cổ  động, tuyên truyền chưa sâu, rộng; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống các  
  2. 2 quan điểm sai trái, thù địch; hiệu quả GDYTCT chưa cao, chưa thật sự vững   chắc… Hiện nay cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đặc biệt cuộc   đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ  diễn ra gay gắt và quyết liệt. Mặt trận   chính trị, tư tưởng đang hết sức nóng bỏng. Chủ  nghĩa đế  quốc và các thế  lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, triệt để lợi  dụng sự  khủng hoảng của CNXH, điên cuồng chống phá cách mạng nước  ta. Chúng công kích, xuyên tạc, bôi nhọ  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng   Hồ Chí Minh; kích động bạo loạn chính trị;… đồng thời mưu đồ “phi chính  trị hóa lực lượng vũ trang”, nhằm làm cho lực lượng vũ trang mất phương   hướng chính trị  dẫn đến vô hiệu hoá và làm  thay đổi nhận thức các tầng  lớp nhân dân đặc biệt là thanh niên, sinh viên bởi đây là đối tượng dễ bị dao  động nhất.  Trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị  ­ kinh tế thế  giới, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường...  một bộ phận không nhỏ  cán bộ, đảng viên, trong đó có lực lượng công an, có cả sĩ quan cấp cao thoái   hóa về  tư  tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí...;  một bộ phận học viên ngại học tập chính trị, xa rời lý tưởng, có lối sống thực   dụng, ích kỷ, mưu cầu danh lợi, một số học viên chưa thật sự tu dưỡng, rèn   luyện nên đã sa vào tệ nạn như lô đề, cá độ, cờ bạc, cầm đồ… Những vi phạm  về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ chiến sĩ CAND nói trên, tuy  không phải là phổ biến nhưng nó đã làm mất lòng tin của nhân dân, gây ảnh   hưởng đến uy tín và danh dự của lực lượng CAND. Đây là những hành động,  việc làm mà các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ công an phải kiên quyết đấu tranh,  khắc phục để xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, ngày càng  được nhân dân tin yêu, quý trọng, xứng đáng là lực lượng vũ trang tin cậy của   Đảng, Nhà nước và Nhân dân.  Vì vậy Đại hội XII đã chỉ  rõ trong thời gian t ới ph ải: Đổi mới nội  dung, ph ương th ức giáo dục chính trị, tư  tưở ng, lý tưở ng, truyền thống,  bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nướ c, xây dựng đạo đứ c, lối   sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp  và pháp luật cho th ế h ệ trẻ.  [30, tr.162].  Với tầm quan tr ọng nêu trên, nghiên cứu sinh ch ọn đề  tài:   “Giáo   dục ý thức chính trị  cho học viên các Học viện Công an nhân dân  ở   Việt Nam hiện nay”  làm đề  tài luận án tiến sĩ ngành Triết học, chuyên   ngành Chủ nghĩa xã hội khoa h ọc. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
  3. 3 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn   về  GDYTCT cho học viên các Học viện CAND, luận án đề  xuất những   giải pháp  cơ  bản  nhằm nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các  Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay.  2.2. Nhiệm vụ của luận án ̉ ­  Tông quan các công trình khoa h ọc nghiên cứu  ở  Việt Nam và nước  ngoài có liên quan đến đề  tài “Giáo dục ý thức chính trị  cho học viên các   Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. ­ Làm rõ một số vấn đề  lý luận về GDYTCT cho học viên và đưa ra   các tiêu chí để  đánh giá chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện   CAND Việt Nam hiện nay. ­ Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và xác định những vấn   đề  đặt ra trong GDYTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam hiện  nay. ­ Dự  báo những yếu tố tác động và đề  xuất những giải pháp cơ  bản   góp phần  nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND   Việt Nam hiện nay.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình GDYTCT cho học viên hệ đào  tạo đại học chính quy tập trung trong các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu ­ Phạm vi nội dung: Quá trình GDYTCT cho học viên đại học chính  quy các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay. ­ Phạm vi không gian:  Luận án nghiên cứu qua khảo sát, đánh giá quá   trình GDYTCT cho học viên hệ đào tạo đại học chính quy tập trung trong các  Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay (Học viện An ninh nhân dân, Học viện  Cảnh sát nhân dân và Học viện Chính trị CAND, riêng Học viện Tình báo của   Bộ Công an do tính chất đặc thù của ngành, nên tác giả không khảo sát).  ­   Ph ạm   vi   th ời   gian:   Quá   trình   GDYTCT   cho   h ọc   viên   các   Học  việ n   CAND   đượ c   nghiên   cứ u   từ   khi   có   Ch ỉ   th ị   s ố   11/CT­BCA­X11   ngày   13/6/2007   v ề   tăng   cườ ng   công   tác   chính   tr ị   tư   t ưở ng   trong   l ực   lượ ng Công an nhân dân đ ến năm 2018. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận   án 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
  4. 4 ­ Cơ sở lí luận của luận án là hệ thống quan điểm, nguyên lí cơ bản của   chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng  Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước và của ngành Công an  về GDYTCT cho cán bộ, chiến sĩ công an. ­ Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng của quá trình GDYTCT cho học  viên các Học viện CAND qua các số liệu, tư liệu, báo cáo tổng kết của các học viện   và qua khảo sát, điều tra xã hội học. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa kết quả nghiên  cứu của các công trình khoa học khác, cũng như trong hoạt động thực tiễn  GDYTCT  cho học viên ở các học viện, trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phương pháp nghiên cứu ­ Lu ận án sử  dụng ph ươ ng pháp  lu ận  củ a chủ  nghĩa duy v ật bi ện   ch ứng và chủ  nghĩa duy v ật l ịch s ử. ­ Phương pháp cụ  thể: Thực hiện mục đích, nhiệm vụ  nghiên cứu,   luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp phân tích ­ tổng hợp: phương pháp này được dùng để  tìm hiểu, nghiên cứu các văn kiện, nghị  quyết của Đảng; chính sách, pháp   luật của Nhà nước; chỉ  thị, điều lệnh của ngành; các công trình khoa học  trong và ngoài nước… liên quan đến luận án; + Phương pháp lôgíc và lịch sử: phương pháp lôgíc để tìm thấy mối liên hệ  bản chất, tính tất yếu, quy luật các vấn đề liên quan đến nội dung luận án. Luận   án trình bày vấn đề theo trình tự thời gian để thấy được các quan điểm, tư tưởng   về GDYTCT cho học viên qua các thời kỳ; + Phương pháp thống kê, so sánh, quan sát: luận án thống kê các số  liệu có liên quan đến quá trình GDYTCT cho học viên, so sánh, đối chiếu và   quan sát thực tế để đảm bảo sự tin cậy của số liệu;  +  Phương pháp  tổng kết thực  tiễn  và  nghiên cứu  lý   luận:  bắt  đầu   nghiên cứu từ thực tiễn quá trình GDYTCT làm cơ sở kết hợp nghiên cứu lý   luận chung có liên quan đến đề  tài nghiên cứu từ  đó xây dựng khung lý   thuyết, đánh giá thực trạng, rồi đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng  cao chất lượng GDYTCT cho học viên; + Phương pháp điều tra xã hội học: thông qua bảng hỏi ANKET cho   đối tượng là giảng viên  ở  03 học viện (60 phiếu) và học viên (90 phiếu).   Sau khi có kết quả  điều tra xã hội học, tác giả  tiến hành tổng hợp, phân   loại, phân tích số  liệu, vẽ mô hình, đồ  thị  nhằm so sánh, đối chiếu và đưa   ra các kết luận khách quan làm căn cứ thực tiễn cho luận án. + Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn, trao đổi trực tiếp  với những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, giáo dục trong và ngoài  
  5. 5 ngành về các nội dung liên quan đến quá trình GDYTCT cho học viên, qua  đó tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến luận án. 5. Đóng góp mới của luận án ­ Luận án góp phần hệ thống, luận giải, làm sáng rõ các vấn đề lý luận về  YTCT và quá trình GDYTCT cho học viên nước ta nói chung và  ở các Học viện   CAND nói riêng. ­ Luận án góp phần làm rõ thực trạng quá trình GDYTCT cho học viên,  những vấn đề đặt ra và dự báo những yếu tố tác động đến quá trình GDYTCT  cho học viên các Học viện CAND ở Việt Nam hiện nay. ­ Luận án đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao  chất lượng trong quá trình GDYTCT cho sinh viên nói chung cũng như đối với   học viên trong ngành Công an nói riêng. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học  Kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm những   vấn đề  lý luận và thực tiễn GDYTCT cho sinh viên nói chung và cho học  viên ở các Học viện CAND nói riêng.  6.2. Ý nghĩa thực tiễn Ở  mức độ  nhất định, kết quả  nghiên cứu của luận án có thể  làm tài   liệu tham khảo việc giảng dạy, nghiên cứu về  những vấn đề  liên quan;   đồng thời có thể  làm tài liệu tham khảo, phục vụ  công tác quản lý nhằm   nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam  hiện nay.  7. Kết cấu luận án Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần  phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương (8 tiết). Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN  1.1.  CÁC   CÔNG   TRÌNH,   ĐỀ  TÀI  NGHIÊN   CỨU   CÓ   LIÊN  QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu  ở  trong và ngoài nước có liên   quan đến ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị Vấn đề ý thức chính trị, chính trị, tư tưởng nói chung và giáo dục ý thức   chính trị nói riêng đối với thanh niên, sinh viên đã và đang được nhiều nhà khoa   học ở trong và ngoài nước nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau,  tùy theo  mục đích, nhiệm vụ  và phạm vi của vấn đề  nghiên cứu. Tuy nhiên, theo tìm  
  6. 6 hiểu, nghiên cứu và với sự hiểu biết của bản thân, tôi nhận thấy về cơ bản các   tác giả, tác phẩm của những nhà nghiên cứu thường tập trung chủ yếu phân tích,  làm rõ về khái niệm, vai trò, cấu trúc của ý thức chính trị hoặc nghiên cứu dưới  góc độ chính trị ­ tư tưởng và công tác giáo dục chính trị ­ tư tưởng cho các đối   tượng  khác   nhau,   nh ư:   giai   c ấp   công   nhân,   học   sinh,   sinh   viên   nói  chung… 1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến ý thức chính trị  và giáo dục ý thức chính trị đối với lực lượng vũ trang Xác định công tác giáo dục ý thức chính trị trong lực lượng vũ trang là  một công tác quan trọng, vì vậy, trong những năm qua được sự quan tâm của các   cấp ủy Đảng trong và ngoài lực lượng cho nên đã có nhiều nhà khoa học trong và   ngoài ngành nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như: Cuốn sách Phát triển ý thức   chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới của tác giả Lê  Văn Quang; Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị,  Nâng cao chất   lượng giáo dục chính trị trong đào tạo Sĩ quan Hải Quân hiện nay ; Quân đội nhân  dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Nâng cao ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ   nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự  trong Quân đội hiện nay ;  Cuốn sách Công an nhân dân học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí   Minh, Nxb Chính trị quốc gia; Cuốn sách Giá trị đạo đức truyền thống trong việc   giáo dục đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả  Phạm Bá Lượng; Cuốn sách Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và   vấn đề giáo dục đạo đức người sinh viên Công an, sách chuyên khảo dành cho đào  tạo tiến sĩ của tác giả Phạm Bá Lượng;  Đề tài cấp Bộ: BA­2007.T31­028 do Mai  Quang Hiện (Chủ nhiệm); Đề tài cấp Bộ, Cục Bảo vệ chính trị V: BA.2007–A42­ 010 do Hoàng Phước Thuận (Chủ nhiệm); Đề tài cấp Bộ, Viện Chiến lược và  Khoa học Công an: CĐ­2007­V21­005 do Nguyễn Quang Thiện (Chủ  nhiệm);  Cuốn sách Sơ thảo biên niên sự kiện lịch sử Cục Công tác chính trị (1967­2012)   của tác giả Đặng Thái Giáp, Phạm Bá Hậu; Luận án tiến sĩ của Lương Ngọc  Vĩnh, Hiệu quả công tác giáo dục chính trị ­ tư tưởng trong học viên các học viện   quân sự ở nước ta hiện nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Bộ Công an, Học  viện Chính trị CAND, “Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng Công   an nhân dân hiện nay”, Hội thảo khoa học; Cuốn sách Công an nhân dân học tập,   thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, Nhà xuất bản Công an nhân dân; Cuốn sách  Văn   hóa ứng xử công an nhân dân Việt Nam của tác giả Trần Đại; Cuốn sách Công tác  giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay  của tác  giả Trương Giang Long và Nguyễn Trọng Đạo (đồng chủ biên); Bộ Công an, Hội  đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị Công an nhân dân, “Phê phán các  quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị,  những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng”, Hội   thảo khoa học; Cuốn sách Giáo dục lý tưởng cách mạng niềm tin cộng sản, cho   thanh niên Công an nhân dân hiện nay, Nhà xuất bản CAND; Cuốn sách “Tự diễn   biến”, “Tự chuyển hóa” và vấn đề giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối   sống cho thanh niên hiện nay của tác giả Trương Giang Long chủ biên...
  7. 7 1.2.   GIÁ   TRỊ   CỦA   CÁC   CÔNG   TRÌNH   ĐÃ   ĐƯỢC   TỔNG  QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU   TRONG LUẬN ÁN 1.2.1. Những giá trị của các công trình đã được tổng quan Những công trình khoa học kể trên là nguồn tư liệu tham khảo giá trị cho  luận án. Tuy nhiên, trên cơ  sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các công trình   nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy đặc điểm chung của đa số những công trình   trên đã đề cập đến các góc độ khác nhau của ý thức chính trị, đặc biệt góc độ tư  tưởng chính trị. Trên thực tế, ý thức chính trị  có nhiều cấp độ  biểu hiện với  những phương thức hết sức phong phú, đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận. Hiện  nay, vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện CAND ở Việt   Nam vẫn chưa được nghiên cứu ở tầm luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa   xã hội khoa học. Tóm lại, mặc dù có được những giá trị thông qua các công trình nghiên  cứu như vừa phân tích ở trên và về cơ bản các công trình nghiên cứu đều ít,   nhiều đề  cập đến ý thức chính trị, chính trị  ­ tư  tưởng và coi nó như  là một   trong những cơ sở để xây dựng yêu cầu, tiêu chí giáo dục YTCT cho học viên   CAND nhưng qua thu thập tài liệu tổng quan, nghiên cứu và theo hiểu biết của   cá nhân, nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp về: Giáo dục ý thức   chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân  ở Việt Nam hiện nay   dưới góc độ của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học và dưới góc độ một   luận án tiến sĩ. Vì vậy, trên cơ sở tiếp cận từ góc độ lý luận của triết học, chủ  nghĩa xã hội khoa học, chính trị học, văn hoá học, giáo dục học… kế thừa, tiếp   thu có chọn lọc những thành quả của các nhà khoa học nghiên cứu trước và  bám sát yêu cầu thực tiễn của đất nước hiện nay, tác giả luận án muốn làm   sáng tỏ hơn nữa về sự cần thiết phải giáo dục YTCT và chúng ta phải làm gì,  như thế nào để giáo dục YTCT cho thanh niên, sinh viên nói chung và học viên   CAND nói riêng ở Việt Nam hiện nay, góp phần thúc đẩy sớm xây dựng thành   công  một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn  minh. 1.2.2. Những vấn đề  đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận  án Bên cạnh những giá trị của các công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả  nhận thấy, các công trình vẫn còn có những khoảng trống nhất định do cách  tiếp cận khác nhau. Để thực hiện tốt mục tiêu đề ra, luận án sẽ tập trung vào  nghiên cứu, luận chứng và giải quyết một số vấn đề cơ bản sau: Một là, khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn về   YTCT và giáo  dục YTCT cho học viên các Học viện C AND Việt Nam trong giai đoạn hiện  nay;
  8. 8 Hai là, làm rõ nội dung, hình thức, phương pháp, đặc điểm và các tiêu  chí để đánh giá chất lượng giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện   Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay; Ba là, đánh giá khách quan thực trạng giáo dục ý thức chính trị cho học  viên các Học viện CAND thời gian qua và xác định những vấn đề đặt ra đối với  giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện trong ngành Công an ở Việt  Nam hiện nay. Nghiên cứu, làm rõ những hạn chế và nguyên nhân của giáo dục ý  thức chính trị cho học viên trong ngành. Bốn là, dự báo những yếu tố tác động và đề xuất những giải pháp cơ  bản  nhằm nâng cao chất lượng giáo dục YTCT cho học viên trong các Học  viện CAND Việt Nam hiện nay. Đây là những vấn đề  đang đặt ra cả về lý luận và thực tiễn đối với   quá trình giáo dục YTCT cho học viên các Học viện CAND  ở nước ta hiện   nay, đòi hỏi cần phải được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo, sâu sắc   và toàn diện, làm cơ sở lý luận cho việc triển khai giáo dục YTCT cho sinh   viên, học viên trong các học viện, trường đại học trong thực tiễn  ở  Việt   Nam hiện nay. Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN 2.1. Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ  CỦA HỌC  VIÊN CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN 2.1.1. Quan niệm về ý thức chính trị 2.1.1.1. Ý thức Theo quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, ý thức là sự  phản ánh  hiện thực khách quan vào trong bộ  não con người. Ý thức không phải là  bản sao giản đơn, thụ động hiện thực khách quan. Xét về cấu trúc và chức năng ý thức bao gồm các thành tố cấu thành  là tri thức, thái độ (tình cảm), ý chí và niềm tin. 2.1.1.2. Chính trị Theo quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, chính trị  liên quan đến   quyền lực và vấn đề là ở  chỗ quyền lực không được phân phối đồng đều   giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.  Xét về mặt cấu trúc, chính trị được định hình bởi các yếu tố cơ bản sau:  Hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính trị, hệ thống chính trị, các quan hệ chính  trị ­ xã hội, hoạt động chính trị, phong trào chính trị  2.1.1.3. Ý thức chính trị, ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa
  9. 9 Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện và tồn tại trong   xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, nó phản ánh đời sống chính trị của   xã hội, trong đó cốt lõi là mối quan hệ giữa các giai cấp và các quốc gia dân tộc.  Ý thức chính trị  xã hội chủ  nghĩa là hệ  thống quan điểm, tư  tưởng  lý luận, tâm lý, tình cảm, ý chí và niềm tin của giai cấp công nhân về địa  vị, vai trò lịch sử, về mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, về đường lối chiến  lược, sách lược của họ  trong quá trình đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây  dựng xã hội mới theo con đường xã hội chủ  nghĩa, được thể  hiện trong   cương lĩnh chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản và chính  sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.  2.1.2. Ý thức chính trị  của học viên các Học viện Công an nhân  dân 2.1.2.1. Khái quát về các Học viện Công an nhân dân Học viện Chính trị Công an nhân dân Học   viện   Chính   trị   CAND   được   thành   lập   theo   Quyết   định   số  315/QĐ­TTg ngày 01/3/2014 của Thủ  tướng Chính phủ, là cơ  sở  giáo dục  đại học công lập trực thuộc Bộ Công an. Có chức năng đào tạo, bồi dưỡng   cán bộ có trình độ đại học, sau đại học và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh  đạo, chỉ huy thuộc lĩnh vực xây dựng lực lượng CAND; đào tạo, bồi dưỡng   lý chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng CAND; đào tạo, bồi dưỡng   chức danh và quy hoạch chức danh lãnh đạo, chỉ  huy trong CAND và thực   hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế, hợp tác với các ngành về giáo dục, đào tạo   theo kế hoạch của Bộ Công an; là trung tâm nghiên cứu khoa học của lực   lượng CAND. Học viện An ninh nhân dân Học viện An ninh nhân dân   được thành lập ngày 25/6/1946 theo   Nghị định số 215/NĐ­P2 của Bộ  Nội v ụ. Tr ải qua h ơn 70 năm xây dự ng  và phát triển, từ m ột tr ường hu ấn luy ện công an, đào tạo nghề, đến nay   Học viện An ninh nhân dân trở  thành một trong nh ững trung tâm đào tạo   đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học lớn c ủa c ả  n ước, là cơ  sở  giáo dục đại học trọng điểm của ngành Công an và đang phấn đấu phát   triển thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của Quốc gia. Học viện Cảnh sát nhân dân Học viện Cảnh sát nhân dân được thành lập từ ngày 15/05/1968, trải  qua chặng đường lịch sử gần 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển,  Học viện Cảnh sát nhân dân đã tự hào đóng góp nhiều thành tựu quan trọng   trong giáo dục đào tạo và trong xây dựng lực lượng công an của nước nhà.  Từ khi mới thành lập học viện mới chỉ đào tạo sơ học, nhưng cho đến ngày   nay, Học viện đã hoàn chỉnh các cấp học: Đào tạo Đại học, sau đại học,  bồi dưỡng chuyên đề, đào tạo chức danh từ  quy hoạch lãnh đạo chỉ  huy 
  10. 10 cấp phòng, cấp trưởng, phó trưởng công an quận, huyện đến bồi dưỡng   phó giám đốc cho công an các tỉnh, thành phố và cấp vụ, cục tương đương.  Không những thế, Học viện còn đào tạo học viên cho các nước bạn Lào,  Campuchia với nhiều loại hình đại học, sau đại học và đặc biệt là cả  bồi   dưỡng cả cán bộ cao cấp. 2.1.2.2. Đặc điểm chung của học viên trong các Học viện Công an   nhân dân  Với  đặc trưng là khối trường trong lực lượng vũ trang,  học viên  trong các Học viện CAND được tuyển chọn rất chặt chẽ, khắt khe theo   những quy định riêng của ngành. Ngoài những quy định chung của Bộ Giáo   dục đào tạo, họ  còn phải đáp  ứng những điều kiện khác như: có lý lịch  trong sáng, có sức khỏe tốt, có trình độ  kiến thức cao, có phẩm chất đạo  đức tốt, có lối sống lành mạnh, có lý tưởng cách mạng tốt; vừa đóng vai trò  là học viên, vừa đóng vai trò là một quân nhân; được thụ hưởng những điều   kiện tốt nhất để  học tập, sinh hoạt, rèn luyện và nghề  nghiệp sau khi ra   trường; là đối tượng chịu  ảnh hưởng rất lớn của những tác động của mặt  trái của cơ chế thị trường thời mở cửa và đặc biệt là đối tượng để các thế  lực thù địch, phản động hướng tới. Những đặc điểm này vừa mang lại   những thuận lợi, thời cơ, nhưng đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thử  thách cho các học viện và học viên trong GDYTCT và giáo dục đạo đức  cách mạng cho họ. 2.1.2.3. Biểu hiện ý thức chính trị của học viên các Học viện Công   an nhân dân Ý thức chính trị của học viên các Học viện CAND là ý thức chính trị   xã hội chủ nghĩa ; là tổng hòa nhận thức, tình cảm (thái độ), ý chí và niềm   tin chính trị  của họ; phản ánh hiện thực đời sống chính trị  ­ xã hội, thực   tiễn hoạt động của lực lượng CAND, của học viện và của học viên; được   hình thành chủ  yếu trong quá trình học tập, rèn luyện, công tác tại học   viện; là yếu tố  quan trọng định hướng cho hành động của học viên phấn   đấu theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của học viện và công tác sau này. Nội hàm ý thức chính trị của học viên các Học viện CAND bao gồm: Một là, nhận thức về chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,   quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;   lý  tưởng độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, mục tiêu, nhiệm vụ  của cách  mạng và lực lượng công an, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ  nước của   dân tộc, đặc biệt là truyền thống đấu tranh anh dũng của lực lượng công an  và nhân dân trong các cuộc kháng chiến; Hai là, những tình cảm tốt đẹp đối với Đảng, Bác Hồ, quê hương,   đất nước và chế  độ  xã hội chủ  nghĩa; lòng yêu nước và yêu chủ  nghĩa xã  hội, yêu thương đồng chí, đồng đội, yêu thương nhân dân, yêu thương con 
  11. 11 người, tấm lòng nhân ái, bao dung; thái độ phân biệt rõ đối tượng, đối tác;  phải – trái, đúng – sai, không mơ hồ mất cảnh giác về bản chất, âm mưu,   thủ  đoạn chống phá của các thế  lực thù địch; tuyệt đối trung thành với  Đảng, Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân; kiên quyết phê phán,  đấu tranh với các quan điểm sai trái và mọi hành vi tiêu cực;  Ba là, động cơ, thái độ  học tập, rèn luyện đúng đắn và ý chí quyết  tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ  cách mạng, nhiệm vụ của lực lượng công an và nhiệm vụ của bản thân. Bốn là, có niềm tin vững chắc vào sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản   Việt Nam, quản lý của Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp trên, của nhà trường,  vào thắng lợi của sự  nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, xây dựng và  bảo vệ Tổ quốc, vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc, của lực lượng công   an, của tập thể  và của chính mình trong thực hiện và hoàn thành xuất sắc   nhiệm vụ.  2.2. GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC HỌC   VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN – QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ 2.2.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị và giáo dục ý thức   chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân 2.2.1.1. Quan niệm về giáo dục và giáo dục ý thức chính trị Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có  kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người đưa đến sự hình thành  và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Giáo dục YTCT là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng   Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà  nước trong quần chúng; định hướng giá trị, lý tưởng cách mạng, cung cấp thông tin   về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quần chúng nhằm nâng cao nhận thức   chính trị, hình thành tri thức và văn hóa chính trị, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính   trị, thúc đẩy tính tích cực tự giác, sáng tạo của quần chúng vào sự nghiệp xây dựng   và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng và dân tộc.  2.2.1.2. Quan niệm giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học   viện Công an nhân dân Giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện C AND là tổng hòa   các hoạt động chủ  động, tự  giác, có kế  hoạch của chủ  thể  với những nội   dung, hình thức, phương pháp phù hợp, để tác động đến đối tượng học viên,   tạo nên sự chuyển biến tích cực, nâng cao nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm   tin chính trị, góp phần hoàn thiện nhân cách người sĩ quan CAND Việt Nam,   hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an   toàn xã hội.
  12. 12 Trong đó mục đích của việc giáo dục ý thức chính trị cho học viên trong các   Học viện Công an nhân dân là dạy cho họ thành những sĩ quan có đạo đức cách   mạng, có bản lĩnh, nghiệp vụ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc...  Nội dung giáo dục Một là,  nâng cao sự  hiểu biết toàn diện,  sâu sắc chủ  nghĩa Mác ­  Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng,  chính sách, pháp luật của Nhà nước, thế  giới quan phương pháp luận biện  chứng, nhân sinh quan cách mạng; luôn kiên định và tuyệt đối tin tưởng vào  sự lãnh đạo của Đảng, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, giáo dục tình cảm cách mạng, mà cốt lõi là lòng yêu nước gắn liền  với yêu CNXH, tình yêu  thương  nhân  dân, đồng chí, đồng đội  cho học viên  CAND.  Ba là, giáo dục phẩm chất, lối sống cho học viên CAND: cần kiệm liêm   chính, chí công vô tư, thực hành triết lý “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.  Bốn là,  giáo dục những vấn đề  về  cảnh giác, nhận diện những âm   mưu, thủ  đoạn của các thế  lực thù địch, về  những diễn biến của tình hình   kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước cũng như trên thế giới.  Hình thức giáo dục  ý thức chính trị  cho học viên:  Giáo dục chính  khóa, giáo dục ngoại khóa, tự giáo dục…  Phương pháp giáo dục  ý thức chính trị  cho học viên: Phương pháp  thuyết trình, phương pháp đối thoại,  phương pháp thực tiễn, phương pháp  trực quan, phương pháp nêu gương… Đặc điểm của giáo dục ý thức chính trị  cho học viên các Học viện   CAND  Một là, giáo dục ý thức chính trị cho một đối tượng đặc thù: học viên  trong các H ọc viện CAND là nhữ ng đối tượ ng đã đượ c tuyể n ch ọn v ới  nh ững yêu c ầu cao c ả  v ề  lý lị ch, sức khỏe và trình độ  hơn các trườ ng  khác, là yêu c ầu b ắt  bu ộc,  hàng đ ầu,  chu ẩn  đầu vào trườ ng v ới  yêu   c ầu cao; trong quá trình h ọc   h ọc viên ph ải đượ c giáo dụ c v ề  lý luận  chính tr ị, giáo dụ c v ề  nhân sinh quan và thế  giới quan đúng đắn, giáo  dụ c lòng trung thành v ới Đảng Cộng s ản và Nhà nướ c Cộng hòa xã hộ i   ch ủ   nghĩa   Việt   Nam;   h ọc   viên   ph ải   đượ c   rèn   luyệ n   theo   tiêu   chuẩn  chiến sĩ công an kh ỏe, có tác phong nhanh nh ẹn, có ý chí và sứ c b ền bỉ  để  thích  ứ ng với môi trườ ng và điề u kiện công tác, chiến đấ u; có bả n  lĩnh, dũng c ảm đ ấu tranh, t ấn công tội ph ạm ; có đạo đ ức trong sáng,  nghiêm ch ỉnh ch ấp hành pháp lu ật của Nhà nướ c, nghị  quy ết, ch ỉ  th ị  củ a ngành, điề u lệ nh CAND; có đ ộng cơ  ph ấn đấu tố t trong học t ập,   rèn luyện, công tác và trong quan h ệ  v ới đ ồng độ i và nhân dân, đượ c  kế t n ạp Đảng trướ c khi thi t ốt nghi ệp;  quá trình đào tạo ph ải giúp cho  
  13. 13 h ọc viên khi ra trườ ng  đượ c trang b ị  các kiế n thứ c nghiệp v ụ  và kỹ  năng thực hiện các biệ n pháp nghiệp vụ  t ươ ng   ứng cần thiết để  đảm  bảo hoàn thành các công việc được giao. Hai là, giáo dục ý thức chính trị cho học viên các Học viện CAND là  quá trình giáo dục có tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật cao, ngoài những quy định   của Bộ Giáo dục và đào tạo thì do tính đặc thù của ngành nên quá trình giáo   dục ý thức chính trị cho học viên trong các Học viện CAND còn quy định chặt   chẽ bởi Cục Đào tạo Bộ Công an và những quy định của Bộ Công an; Ba là, ngày nay, trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp trên mặt   trận tư tưởng chính trị nên quá trình giáo dục ý thức chính trị cho học viên trong các  Học viện CAND luôn luôn gắn với quá trình đấu tranh trên mặt trận tư tưởng chính  trị. 2.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục ý thức chính trị  cho học viên các Học viện Công an nhân dân Một là, chất lượng hoạt động của chủ thể giáo dục ý thức chính trị   (tổ  chức Đảng, lãnh đạo đơn vị, các đoàn thể quần chúng, cán bộ quản lý, phòng  khảo thí và kiểm định chất lượng đào tạo và  đội ngũ giảng viên...). Thật vậy,  chất lượng GDYTCT cho học viên phụ thuộc rất lớn vào số lượng phải đủ và  chất lượng phải cao của đội ngũ những người trực tiếp GDYTCT cho học viên. Hai  là,  chương  trình,  nội dung, hình  thức,  phương pháp, phương   tiện,  môi trường  GDYTCT   cho  học  viên.  Đây  là tiêu  chí  có vai trò   định  hướng cho hoạt động, nó đòi hỏi khả  năng tham gia của các lực lượng  đồng thời còn là cơ  sở  để  xác định tiêu chí làm căn cứ  để  đánh giá chất  lượng. Ba là, chất lượng ý thức và hành vi chính trị của học viên. Chất lượng  GDYTCT của học viên được đánh giá bằng kết quả tiếp thu nội dung giáo dục  chính trị và sự chuyển biến tích cực, toàn diện về ý thức chính trị (nhận thức,   tình cảm, ý chí, niềm tin) và được thể hiện bằng hành vi, hành động chính trị của   họ trong học tập, rèn luyện, sinh hoạt; bằng kết quả học tập, rèn luyện hàng   tháng, kỳ, năm, trong quá trình học tập tại các học viện và trong quá trình công   tác sau này. Kết luận chương 2 Giáo dục YTCT cho học viên các Học viện CAND Việt Nam hiện nay là   một nội dung hoạt động của công tác tư  tưởng văn hoá của Đảng trong lực  lượng vũ trang nói chung và đối với lực lượng công an nói riêng nhằm phổ biến  những nguyên lý cơ  bản của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh,   đường lối, quan điểm của Đảng giúp cho họ hình thành, củng cố phát triển thế  giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, từ  đó nhằm nâng cao bản lĩnh  
  14. 14 chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống và năng lực hoàn thành nhiệm   vụ được giao. Tiến hành GDYTCT cho học viên, xuất phát từ  quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin về  xây dựng nhân tố  chính trị  của lực lượng công an,  cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, xuất phát từ  tư  tưởng Hồ  Chí  Minh   “lấy   chính   trị   làm   gốc”,   xuất   phát   từ   đặc   điểm,   nhiệm   vụ   từng   trường, đặc điểm của từng học viên để  xây dựng mô hình người chiến sĩ  CAND   trong  thời   bình.   Bồi   dưỡng  cho  họ   lòng  trung  thành  vô  hạn  với  Đảng, với Tổ quốc xã hội chủ  nghĩa, thường xuyên nâng cao trình độ  mọi   mặt, nâng cao tính chủ  động sáng tạo sẵn sàng thực hiện thắng lợi nhiệm  vụ được giao. Trên cơ sở phân tích về mặt lý luận, thực tiễn những vấn đề cơ bản về  bản chất, vai trò, nội dung, hình thức, phương pháp GDYTCT cho học viên,  đồng thời kế thừa, vận dụng những thành tựu GDYTCT của đất nước trong   những năm qua để  xem xét vấn đề nâng cao chất lượng GDYTCT trong giai   đoạn hiện nay. Từ quan niệm chất lượng GDYTCT cho học viên ­ tổng hợp các mặt hoạt   động, các yếu tố của nó được phản ánh ở phẩm chất, năng lực của cả chủ thể và   đối tượng trong việc đáp ứng mục tiêu, yêu cầu GDYTCT để xác định tiêu chí   đánh giá chất lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND. Những   tiêu chí này bao gồm: những chỉ số đánh giá năng lực lãnh đạo, tổ chức thực  hiện các nhiệm vụ giáo dục chính trị, hiệu quả các hình thức, biện pháp, phương   tiện giáo dục chính trị và chất lượng chính trị, tư tưởng của học viên với tư cách là  kết quả của giáo dục so với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục đã xác định. Đó là  căn cứ  để  đánh giá thực trạng GDYTCT và những vấn đề  đặt ra đối với việc   GDYTCT cho học viên các Học viện CAND ở nước ta hiện nay. Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO HỌC VIÊN CÁC  HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN  NAY 3.1.  THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG  CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ  CHO HỌC VIÊN   CÁC HỌC VIỆN CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.1. Thực trạng chất lượng giáo dục ý thức chính trị  cho học  viên các Học viện Công an nhân dân ở Việt Nam hiện nay 3.1.1.1. Chất lượng của chủ thể giáo dục ý thức chính trị
  15. 15 Với vai trò là chủ thể trực tiếp trong quá trình giảng dạy, giảng viên   lý luận chính trị  có vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng và hiệu  quả của quá trình giảng dạy lý luận chính trị  và góp phần hình thành nhân   cách người chiến sĩ công an. Xuất phát từ  vị  trí, vai trò của chủ  thể  trong   GDYTCT cho học viên, trong những năm vừa qua các học viện trong ngành   đã không ngừng nỗ lực về mọi mặt, khắc phục những khó khăn trước mắt,  từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác giáo dục, đào tạo; đặc   biệt là đội ngũ giảng viên và những cán bộ làm công tác quản lý, rèn luyện học   viên. Từ đó, chất lượng của chủ thể GDYTCT nói chung cũng từng bước được   cải thiện, bước đầu đã đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn. Thế  nhưng so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ý thức   chính trị  cho học viên thì phẩm chất, năng lực của đội ngũ những người  trực tiếp giáo dục ý thức chính trị cho học viên còn tồn tại những hạn chế  nhất định: Trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn, một bộ phận cán bộ, giảng   viên còn chưa thật sự  hiểu sâu sắc về  nhiều mặt nên tỏ  ra chưa thực sự  vững vàng về quan điểm lập trường chính trị, chưa lý giải cho mình, cho   học viên tình hình phức tạp, sự  phát triển phong phú của thực tiễn thế  giới, trong nước cũng như  của lực lượng vũ trang. Vì thế  hiệu lực chỉ  huy, quản lý học viên, quản lý giáo dục của một bộ  phận cán bộ, giảng  viên chưa đáp  ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, nhất là với   các tình huống phức tạp, các điểm nóng và nhất là trong cuộc đấu tranh   chống các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. 3.1.1.2.   Về   chương   trình,   nội   dung,   hình   thức,   phương   pháp,   phương tiện và môi trường giáo dục ý thức chính trị  Trong những năm gần đây, trước tình hình phức tạp trên lĩnh vực tư  tưởng và nhận thức được tầm quan trọng, vai trò đặc biệt của GDYTCT  nói chung và từ  nội dung, chương trình GDYTCT cho học viên trong các  Học viện CAND nói riêng, Bộ  Công an, Cục Đào tạo, đến Đảng  ủy, Ban   Giám đốc học viện đều quan tâm lãnh đạo, chỉ  đạo trực tiếp, sâu sát đến   việc lựa chọn, thiết kế nội dung, chương trình, tạo mọi điều kiện tốt nhất   để các chủ thể trực tiếp thiết kế nội dung, chương trình sau đó còn mời các   chuyên gia trong và ngoài nước đóng góp ý kiến để nội dung, chương trình   trước khi đưa vào sử  dụng phải khoa học, phù hợp với từng đối tượng và   phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo. Đặc biệt, đối với nội dung, chương   trình các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn được Cục Đào tạo   của Bộ  Công an chỉ đạo xây dựng và được kiểm tra giám sát chặt chẽ  việc  xây dựng. Chính vì thế mà tính khoa học, tính hợp lý của nội dung các chương  trình ngày càng được nâng cao.  Tuy nhiên, bên cạnh những mặt  đã đạt được  ở  trên thì nội dung,  chương   trình,   hình   thức,   phương   pháp,   phương   tiện   và   môi   trường   GDYTCT cho học viên các Học viên CAND trong những năm qua cũng còn  
  16. 16 bộc lộ  một số  những bất cập  ảnh hưởng đến kết quả  GDYTCT cho học   viên như: Một là, mâu thuẫn giữa thời lượng giảng dạy trên lớp ngày càng giảm,   đặc biệt là các môn khoa học Mác – Lênin với số lượng và nội dung môn học   ngày càng tăng đã tạo ra sự quá tải của chương trình giáo dục.  Hai là, ngoài hình thức giáo dục thông qua những bài giảng chính khóa thì  các hình thức giáo dục khác chưa được khai thác, vận dụng một cách triệt để,  hay chưa được quan tâm đầu tư một cách đúng mức.  Ba là,  ngày   nay,   các   Học   viện   trong   ngành   đã   tích   cực   đổi   mới   phương pháp dạy học, đặc biệt là áp dụng các phương pháp dạy học tiên  tiến nhưng phát triển chưa thực sự mạnh mẽ.  3.1.1.3. Chất lượng ý thức chính trị  và hành vi chính trị  của học   viên Trong những năm vừa qua, với sự biến động của tình kinh tế, chính trị, xã hội ở  trong nước, khu vực và trên thế giới, quá trình GDYTCT cho học viên các Học viện   CAND đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, GDYTCT cho học viên đã góp phần   trực tiếp củng cố xây dựng nền tảng chính trị vững chắc làm cơ sở nâng cao chất  lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng công an trong tình hình mới.  Nhận định đó được minh chứng bằng các điểm chủ yếu sau: Ý thức  chính trị  của học viên từng bước được nâng cao ; về  phẩm chất chính trị,  đạo đức, năng lực hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của học viên:   phẩm chất, năng lực toàn diện của các sĩ quan trong các Học viện CAND   trong những năm gần đây khi ra trường đã được nâng lên, phản ánh chất   lượng GDYTCT cho học viên trong các trường công an nói chung và trong  học viện công an nói riêng. Chất lượng đó đã đáp ứng được nhu cầu cán bộ  của thực tiễn các đơn vị  trong những năm qua và phản ánh sự  đúng đắn,  khoa học của phương châm giáo dục trong các trường của ngành Công an.  Tuy nhiên, bên cạnh những gì đã đạt được  ở  trên, chất lượng của  sản phẩm đào tạo cũng đã phản ánh những hạn chế  nhất định của chất   lượng GDYTCT cho học viên các Học viện CAND: Vẫn còn một số  học   viên còn yếu kém, nhất là  trong nhận thức;  do còn hạn chế  nhận thức về  CNXH và con đường đi lên CNXH  ở  nước ta, nên một bộ  phận học viên   chưa nắm vững một số vấn đề  về  nhiệm vụ  an ninh xã hội trong tình hình   mới, cho nên khi xác định đâu là “đối tượng”, đâu là “đối tác” của cách mạng  Việt Nam chưa được rõ ràng; từ hạn chế về nhận thức chính trị, dẫn tới một  bộ phận học viên không vững vàng về  bản lĩnh chính trị, nhất là trước khó  khăn thử thách họ tỏ ra dao động về lập trường tư tưởng chính trị, không làm  chủ được bản thân. 3.1.2. Nguyên nhân của thành công và hạn chế trong giáo dục ý thức  chính trị cho học viên các Học viện Công an nhân dân Việt Nam hiện nay
  17. 17 3.1.2.1. Nguyên nhân của những thành công Nguyên nhân khách quan Một là, có vai trò quyết định đến chất  lượng, kết quả GDYTCT cho học  viên các Học viện CAND là Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp.  Hai là, trong nh ững năm g ần đây, các c ấp  ủ y Đảng trong Công  an nhân dân,  Cụ c  Đào tạo , Ban Đ ảng  ủy H ọc vi ện đã nhận th ứ c khá   toàn diện, không ng ừng đề  cao trách nhiệm đố i với việ c GDYTCT cho  h ọc viên các H ọc vi ện CAND.  Ba là, s ự  tác động củ a tình hình chính trị  trên th ế  giới đến việc   giáo dục ý th ức chính tr ị cho h ọc viên các Học viện Công an nhân dân.  Bốn là, giáo dục ý thức chính trị  cho học viên các Học viện CAND   được tiến hành trong điều kiện đất nước hoà bình, đổi mới, mọi hoạt động   học tập, rèn luyện và xây dựng lực lượng Công an theo đ ịnh hướ ng chính  quy, tinh nhu ệ, t ừng b ướ c hi ện đạ i. Nguyên nhân chủ quan Một là,   s ự  c ố  g ắng n ỗ  l ực, v ượ t qua m ọi khó khăn củ a các lự c   lượ ng trong h ọc vi ện, t ừng b ướ c nâng cao ch ất l ượ ng giáo dục ý thứ c   chính tr ị  cho h ọc viên .  Hai là, được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám đốc học viện mà  điều kiện đảm bảo về vật chất, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại,  từng bước đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng GDYTCT cho học viên.  Ba là,  được sự  quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ  của Đảng uỷ  chính  quyền, quận, phường và nhân dân địa phương nơi học viện cũng là một trong  những nhân tố  quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng GDYTCT cho học   viên.  3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, trong những năm gần đây tình hình thế giới, khu vực và trong  nước diễn biến phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường, nó đã và đang  tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến nhiều mặt học viên CAND.  Thứ hai, với sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh   công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế thì mặt trái của quá trình hội  nhập quốc tế và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới tác động   không nhỏ đến lực lượng Công an nói chung và đối với học viên Công an nói riêng. Thứ  ba, sự  tác động của cuộc đấu tranh tư  tưởng, ý thức hệ  đến   việc GDYTCT cho học viên các Học viện CAND.  Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, công tác giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, bồi dưỡng   trình độ, năng lực lý luận và thực tiễn cho mọi thành phần chủ thể giáo dục   có lúc, có nơi, có bộ phận chưa được chú trọng. 
  18. 18 Thứ hai, giữa các thành phần chủ thể trong giáo dục chưa có sự phối   hợp chặt chẽ, có hiệu quả  với nhau đối với những hoạt động nhằm nâng   cao chất lượng nội dung, chương trình, hình thức, biện pháp GDYTCT.  Thứ ba, sự phân bổ thời lượng và tự ý thức của học viên còn nhiều bất   cập.  Thứ tư, việc đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho giáo dục   ý thức chính trị vẫn còn hạn chế.  3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ  ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC Ý THỨC  CHÍNH   TRỊ   CHO   HỌC   VIÊN   CÁC   HỌC   VIỆN   CÔNG   AN   NHÂN  DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo  dục  ý thức chính trị  với những hạn chế, bất cập của c hủ  thể  tiến  hành giáo dục ý thức chính trị cho học viên 3.2.1.1. Vẫn còn một bộ  phận không nhỏ  cán bộ  quản lý, giảng   viên nhận thức chưa đúng đắn, đầy đủ  về giáo dục ý thức chính trị cho   học viên  Sự  quan tâm chỉ  đạo của Đảng  ủy, Ban Giám đốc , đội ngũ giảng  viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các Học viện CAND chưa tương xứng  với yêu cầu công tác GDYTCT mà ngành đặt ra, mặc dù hiện nay đã có nhiều  đổi mới nhưng vẫn nặng về  hình thức; quá trình GDYTCT  cho  học  viên  trong các học viện thường là các hình thức giáo dục lồng ghép thông qua các   môn Khoa học Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, Đường lối cách mạng  của Đảng Cộng sản Việt Nam... Mặt khác nhiều giảng viên, báo cáo viên   giảng dạy  các  môn  khoa học xã hội và nhân  văn,  giảng nghị  quyết,  nói   chuyện chuyên đề  thời sự  cho học viên nhưng không để  ý đến việc họ  có  muốn nghe  hay  không. Giảng viên  chủ  yếu  tập trung vào nội dung chuyên   môn mà không chú trọng nhiều đến GDYTCT cho học viên; một bộ phận cán  bộ  quản lý học viên còn có tư  tưởng xem trọng chuyên môn, chuyên ngành,   xem nhẹ  các môn giáo  dục tư  tưởng, chính trị, do đó việc bố  trí thời  gian,  chất lượng, giáo án, bài giảng cho các môn học này chưa khoa học... điều này  gây  ảnh hưởng không  tốt  trong nh ận thức, thái độ  của  học  viên đối với  quá trình giáo dục.  3.2.1.2.  Năng lực, phẩm chất  của một bộ  phận nhỏ  giảng viên,   cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu giáo dục  ý thức chính trị cho học   viên  Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý học viên trong các học viện phần lớn  còn trẻ, ở các lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau nên có những hạn chế nhất định   về năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, kiến thức thực tiễn; trình độ tin học,  ngoại ngữ còn nhiều hạn chế dẫn đến kỹ năng áp dụng các phương pháp dạy 
  19. 19 học tích cực, phương pháp hiện đại chưa đạt được hiệu quả;  nhiều khoa, bộ  môn chưa đủ về số lượng giảng viên song số đông l ại là bộ phận trợ giảng, dẫn  đến đội ngũ giảng viên chính phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau. Điều  đó đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng GDYTCT cho học viên; bên cạnh đó trước  tác động của nền kinh tế thị trường, họ cũng bị tác động của thực tiễn đời sống   xã hội, còn có những biểu hiện tiêu cực về phẩm chất đạo đức nhà giáo, về  phẩm chất chính trị... nên đã ảnh hưởng nhất định tới việc  GDYTCT cho học   viên; còn một số giảng viên giảng dạy lý luận chính trị nhưng vẫn còn tình trạng  tiêu cực về các vấn đề của xã hội, những tồn tại của hệ thống chính trị một cách  thái quá, điều này sẽ trở thành một vấn đề nguy hiểm đối với những  học viên  còn hạn chế trong nhận thức.  3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần   phải phát huy vai trò chủ  thể  giáo dục của học viên với sự thiếu ý thức, tự giáo dục của học viên 3.2.2.1. Năng lực tự  giáo dục của một bộ  phận   học  viên chưa   ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ  của quá trình giáo dục ý thức chính   trị Tự  giáo dục là một yếu tố  gắn liền với quá trình giáo dục. Tự  giáo   dục bao gồm khả  năng tự  học, tự  rèn luyện, tự  đánh giá, tự  kiểm tra, tự  điều tiết, điều chỉnh hành vi của mình sau quá trình tác động có mục đích   của chủ  thể.Tự  giáo dục biểu hiện  ở  chỗ  mỗi chủ  thể  tự  giáo dục  để  hướng toàn bộ năng lực, hành động của mình vào sự hình thành thế giới nội   tâm bắt đầu từ  tự  ý thức cho đến quá trình tham gia tích cực, tự  giác vào  việc tạo ra cho  bản thân  những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường  để  họ  tồn tại và phát triển. Thế  nhưng, việc tự  học, tự  rèn luyện của học viên các Học viện   CAND  Việt  Nam hiện nay, nói chung còn hạn  chế. Phần lớn học  viên   không có kế  hoạch sử  dụng thời gian tự học cho các môn khoa học Mác ­   Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các môn Khoa học xã hội và nhân văn một  cách hợp lý 3.2.2.2. Mặt trái của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường làm xuất   hiện tâm lý  ngại học, lười học dẫn đến  vi phạm,  thờ   ơ  về  chính trị   trong một bộ phận không nhỏ học viên Hiện nay, do mặt trái của cơ chế thị trường cùng với sự thiếu ý thức   trong tự  giáo dục, tự rèn luyện, nên một bộ phận học viên sinh ra lười học,   ngại học, học đối phó, ý thức chấp hành nội quy, quy chế, điều lệnh chưa  cao, thậm chí có hành vi vi phạm điều lệnh CAND, vi phạm pháp luật.  3.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về đổi mới căn bản  và toàn diện giáo dục với những bất cập về  chương trình,  nội dung, 
  20. 20 hình thức, phương pháp, môi trường giáo dục ý thức chính trị cho học  viên  3.2.3.1. Những bất cập trong đổi mới chương trình, nội dung giáo dục Chươ ng trình giáo dục chính trị còn thiếu tính hệ thống, lôgic, liên   thông, trùng lặp, ch ưa tương xứng v ới m ục tiêu, yêu cầu đào tạo. N ội  dung  GDYTCT  ở  các  Học viện CAND  thườ ng dừng lại  ở  những quan  điểm, lý luận chung, chưa đi sâu phân tích làm rõ những căn cứ  lý luận,   gắn với thực tiễn công tác, chiến đấu trên lĩnh vực bảo vệ an ninh  quốc  gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Tính chiến đấu, tính thuyết ph ục  của công tác  GDYTCT  chưa cao, thiếu s ắc bén trong đấu tranh chống  các luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực phản động.  3.2.3.2. Hình thức, phương pháp và môi trường giáo dục ý thức chính trị   chưa theo kịp với sự phát triển của thời đại kinh tế tri thức và công nghệ thông   tin Hiện nay, ở hầu hết các trường cao đẳng, đại học ở nước ta thì những   hình thức truyền thống trong dạy học với công thức “thầy – giáo án, phấn   bảng ­ trò, thầy đọc – trò chép” vẫn đang tồn tại khá phổ biến. Trong đó việc   ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông   tin trong quá trình dạy học đang đòi hỏi và đang tạo ra xu thế làm thay đổi sâu  sắc hình thức, phương pháp, môi trường giáo dục, đào tạo. Các phương pháp   giáo dục cần có sự  hỗ  trợ  của phương tiện dạy học hiện đại và các phần   mềm dạy học cho phép thay đổi vị trí vai trò của các yếu tố truyền thống và   đang hướng đến quá trình dạy học “lấy người học làm trung tâm” với những  phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của người học. Xu hướng đó đang  đặt ra một thách thức lớn đối với các nhà trường và đối với mọi thành phần  chủ thể trong quá trình dạy học trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ  thông tin.  3.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tăng cường giáo dục  ý thức  chính trị trong tình hình mới với sự  hạn chế của các nguồn lực phục  vụ cho quá trình giáo dục 3.2.4.1. Thời gian  dành  cho hoạt động giáo dục  ý thức chính trị  cho học viên còn hạn chế  Trên thực tế ở các học viện hoạt động GDYTCT cho học viên chỉ được  thực hiện thông qua các nội dung lồng ghép, hình thức giáo dục gián tiếp thông  qua các môn khoa học lý luận chính trị, thông qua các hoạt động đoàn thanh  niên... mà chưa  dành nhiều thời gian cho việc xây dựng  kế  hoạch,  chương  trình, nội dung có tính chất chính khóa. Trong các Học viện CAND những môn  lý luận chính trị chỉ là những môn đại cương, số đơn vị học trình, thời gian học 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2