intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Văn hóa học: Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

126
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu tổng quát: Nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 – 2013 để xem nó có đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của khán giả đương đại không, yếu tố dân gian trong diễn xướng âm nhạc chèo được giữ nguyên hoặc tăng lên hay giảm đi, trong những vở chèo mới thành công thì việc diễn xướng âm nhạc diễn ra như thế nào? Nếu không giữ được những đặc trưng cơ bản, thì âm nhạc sẽ góp phần chuyển hóa chèo sang một hình thức sân khấu chuyên nghiệp khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Văn hóa học: Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Thị Thanh Phƣơng DIÔN X¦íNG ¢M NH¹C CHÌO GIAI §O¹N 1951 §ÕN 2013 - TRUYÒN THèNG Vµ BIÕN §æI Chuyên ngành: Văn hóa dân gian M s : 62 22 01 30 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội - 2015
  2. Công trình đƣợc hoàn thành tại: VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. PHẠM LÊ HÒA Phản biện 1: GS. TS Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên cứu Văn hóa Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Bích Hà Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội Phản biện 3: PGS. TS Nguyễn Thị Hiền Viện Văn hóa Nghệ thuật Qu c gia Việt Nam Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện, họp tại Viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam Số 32 Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội Vào hồi ...... giờ ...... ngày ...... tháng ..... năm ............. Có thể tìm đọc luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Là một thành tố trong di sản văn hoá dân gian Việt Nam, trong quá trình hình thành và phát triển, chèo cổ truyền đã tích tụ, sản sinh và lưu truyền cho hậu thế nhiều tích diễn, nhiều mảnh trò, và nhiều vở chèo, đặc biệt là kho tàng âm nhạc với gần 200 làn điệu có giá trị về nghệ thuật. Với bề dày trên nửa thế kỷ hoạt động của nghệ thuật chèo đương đại, những vở chèo mới liên tục ra đời trong sự câu thúc chung của sự nghiệp phát triển văn hoá nghệ thuật, và hơn hết là nhu cầu phục vụ đời sống tinh thần của công chúng, phục vụ cách mạng. Trong quá trình ấy, bên cạnh những thành công trong nhiều vở chèo, thì có những lúc, những thời điểm diễn xướng âm nhạc đã thoát ly khỏi gốc rễ văn hóa chèo bởi sự cách tân quá đà, đẩy chèo sang một hình thức sân khấu khác. Bên cạnh đó, lại có những vở diễn sử dụng nhiều làn điệu chèo cổ truyền, mà vẫn đem lại sự cảm nhận không phải là vở chèo đích thực. Có thể nói, trong sự tích hợp văn hóa nửa cuối thế kỷ XX đến nay, những thay đổi từ bối cảnh xã hội, môi trường diễn xướng, chính sách văn hóa, chủ thể sáng tác, sự tác động từ các hình thái kinh tế, nghệ thuật của thời kỳ đổi mới, hội nhập, toàn cầu hóa, hình thức tổ chức, và năng lực của đơn vị nghệ thuật (năng lực quản lý của lãnh đạo, năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ của diễn viên, nhạc công...) cùng nhu cầu khán giả là những tác động cơ bản tạo nên sự biến đổi của nghệ thuật chèo, trong đó có diễn xướng âm nhạc.
  4. 2 Mặc dù âm nhạc chèo đương đại đã được giới nghiên cứu chèo bàn đến, nhưng đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên biệt nào về vấn đề diễn xướng âm nhạc chèo, để thấy rõ sự biến đổi của nó từ loại hình sân khấu dân gian sang sân khấu chuyên nghiệp. Sự biến đổi ấy diễn ra như thế nào, những yếu tố văn hóa dân gian làm nên đặc trưng cơ bản của âm nhạc chèo còn giữ được hay đang giảm dần trong chèo đương đại?. Đây là vấn đề khoa học dường như bị lãng quên, chưa được giới nghiên cứu chèo quan tâm, lý giải, và nó trở thành lý do để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu trong đề tài Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi, tạo nên tính mới của luận án. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu tổng quát: Nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 – 2013 để xem nó có đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của khán giả đương đại không, yếu tố dân gian trong diễn xướng âm nhạc chèo được giữ nguyên hoặc tăng lên hay giảm đi, trong những vở chèo mới thành công thì việc diễn xướng âm nhạc diễn ra như thế nào? Nếu không giữ được những đặc trưng cơ bản, thì âm nhạc sẽ góp phần chuyển hóa chèo sang một hình thức sân khấu chuyên nghiệp khác. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở văn hóa dân gian của nghệ thuật chèo nói chung, diễn xướng âm nhạc chèo nói riêng. Phân tích hiện tượng biến đổi của diễn xướng âm nhạc xuất phát từ thực tiễn phát triển của nghệ thuật chèo, phản ánh quy luật kế
  5. 3 thừa và phát triển của văn hóa nghệ thuật. Khảo sát, nghiên cứu mối quan hệ giữa âm nhạc và kịch bản chèo đương đại, để thấy sự gắn kết giữa các thành tố nghệ thuật đồng cấu tạo - một đặc điểm thể hiện tính chỉnh thể nguyên hợp của văn hóa dân gian vẫn còn nguyên giá trị khi xem xét, đánh giá hiện tượng biến đổi của nghệ thuật chèo. 3. Đ i tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về diễn xướng làn điệu, nhạc không lời trong chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu bao gồm nội dung diễn xướng và cách thức diễn xướng. Do đó, nó vừa có tính đặc thù của chuyên ngành nghệ thuật chèo, vừa có xu hướng rộng mở trong toàn ngành sân khấu và âm nhạc. - Phạm vi nghiên cứu: Các khảo sát chủ yếu dựa trên thực tế liên hoan, hội diễn sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc, chỉ nghiên cứu các vở diễn trên sân khấu chèo chuyên nghiệp, không đề cập đến sân khấu chèo không chuyên. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống hay quan điểm hệ thống 4.2. Phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian 4.3. Các phương pháp thu thập và xử lý thông tin thứ cấp 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tà 5.1. Giả thuyết khoa học Diễn xướng âm nhạc đã biến đổi trong quá trình kế thừa và biến đổi chung của nghệ thuật chèo. Nếu không giữ được yếu tố
  6. 4 dân gian - đặc trưng của chèo cổ truyền, âm nhạc sẽ góp phần làm giảm chất chèo trong những vở diễn, thậm chí đẩy nghệ thuật chèo sang một hình thức sân khấu mới. 5.2. Ý nghĩa về mặt khoa học - Góp phần hệ thống những vấn đề lý luận về âm nhạc chèo. - Đây là hướng nghiên cứu mới, và sẽ được xác định trong đề tài nghiên cứu Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi. 5.3. Ý nghĩa về mặt thực tiễn - Làm tài liệu phục vụ công tác học tập, nghiên cứu cho học sinh, sinh viên, học viên và diễn viên, nhạc công các đơn vị nghệ thuật, các trường nghệ thuật có đào tạo bộ môn chèo chèo. - Luận án đề xuất hướng phát triển âm nhạc chèo trong bối cảnh hiện nay. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (11 trang) và Phụ lục (22 trang), nội dung luận án gồm ba chương. Chƣơng 1: Tính diễn xướng dân gian của nghệ thuật chèo, cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu âm nhạc chèo (41 trang) Chƣơng 2: Biến đổi trong diễn xướng âm nhạc chèo đương đại (44 trang) Chƣơng 3: Những vấn đề đặt ra và một vài khuyến nghị qua trường hợp nghiên cứu đề tài luận án (32trang).
  7. 5 Chƣơng 1 TÍNH DIỄN XƢỚNG DÂN GIAN CỦA NGHỆ THUẬT CHÈO, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ÂM NHẠC CHÈO 1.1. Nghệ thuật chèo trong văn hóa dân gian Có nhiều cách hiểu về văn hóa dân gian (Folklore). Theo GS. Đinh Gia Khánh: “ba thành tố chủ yếu của văn hóa dân gian là nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian và ngữ văn dân gian. Tất nhiên, lại còn một số thành tố thứ yếu, phụ trợ” [51, tr.854]. Nghệ thuật chèo chính là một thành tố góp phần tạo nên diện mạo chung của “Văn hoá dân gian” theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, thì bản thân nghệ thuật chèo cổ truyền đã mang trong mình đủ đầy những thành tố của “Văn hóa dân gian”. 1.1.1. Văn chương trong kịch bản chèo cổ truyền Thuộc thể loại sân khấu tự sự, kể chuyện, chèo cổ truyền đã khai thác cốt truyện của văn học dân gian. Trong quá trình phát triển, còn du nhập cả tích truyện nước ngoài. Từ chỗ chỉ mang tính tự sự đơn thuần, chèo cổ đã thu nhận thêm yếu tố trữ tình, hiện thực, có giá trị phản ánh cuộc sống và mang tính khuyến giáo đạo đức. Chèo dung nạp hầu hết các thể thơ ca dân gian: các thể thơ lục bát (cùng các biến thể) thơ thất ngôn, thất ngôn bát cú, song thất lục bát, thơ bốn chữ thường gặp trong các thể loại ca hát dân gian như hát quan họ, hát nói, hát ví, ca trù, hát xẩm, hát đúm…
  8. 6 1.1.2. Yếu tố của tạo hình dân gian trong chèo cổ truyền “Tạo hình dân gian” trong nghệ thuật chèo cổ truyền không chỉ dừng lại ở vai trò trang trí, màu sắc phục trang, hoá trang, hay sử dụng đạo cụ, mà cao hơn thế, nghệ thuật tạo hình dân gian đã ảnh hưởng đến nghệ thuật biểu diễn, mang tính triết học. 1.1.3. Ảnh hưởng của nghệ thuật diễn xướng dân gian vào chèo Trong các công trình nghiên cứu về nghệ thuật chèo, hầu hết các tác giả thống nhất quan điểm: chèo bắt nguồn từ trò nhại (thế kỷ thứ X) và được sinh ra từ những lễ hội làng xã. Tuy nhiên, chỉ những trò diễn chứa đựng một nội dung, ý nghĩa nào đó đối với con người, có tính thẩm mỹ mới được tích hợp vào chèo. Về nghệ thuật ca hát: làn điệu chèo cổ truyền mang âm hưởng của dân ca cổ truyền Bắc Bộ, đó là các loại hát nói đậm đặc chất tự sự: hát cửa đình, hát giặm ( Hà Nam), hát đúm, hát ví, các kiểu ngâm thơ sa mạc, bồng mạc. Hiện tượng hỗn dung giữa ca múa dân gian vào tích diễn trong chèo để lại dấu vết trong nhiều điệu hát, lời ca bắt nguồn từ xoan, ghẹo, hát quan họ, chầu văn, hát Huế. Điệu thức chèo là điệu thức ngũ cung, thường gặp trong các thể loại ca hát dân gian người Việt. Đó là các cung: huỳnh, nao, pha, Bắc, Nam. Múa chèo được cho là bắt nguồn từ múa dân gian Việt Nam. Từ những động tác có nguồn gốc dân vũ, múa chèo cũng tiếp nhận thêm những yếu tố ngoại sinh, sáng tạo và cách điệu hoá, mỹ lệ hoá nên những hệ thống động tác với đặc điểm nổi trội là uyển
  9. 7 chuyển, ước lệ và cách điệu, luôn có mối quan hệ gắn bó và chi phối lẫn nhau, góp phần làm nên giá trị thẩm mỹ chèo. Múa chèo được phân thành những loại sau: Múa hành động; Múa tính cách; Múa minh hoạ; Múa dư hứng; Múa trang trí… 1.2. Cơ sở lý thuyết sử dụng trong đề tài luận án 1.2.1. Khái niệm truyền thống và biến đổi Một: Về khái niệm“truyền thống” - “Truyền thống là thói quen hình thành đã lâu trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.”[142, tr.1053]. Một cách định nghĩa rõ hơn về truyền thống: Quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những yếu tố xã hội và văn hóa, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, lễ nghi... và được duy trì trong các tầng lớp xã hội và giai cấp trong một thời gian dài…[44, tr.630]. Với nội hàm của cả hai cách định nghĩa trên, danh xưng chèo cổ, chèo cổ truyền, hay chèo truyền thống, chèo sân đình (theo cách gọi chưa thống nhất hiện nay) trong chừng mực nào đó, có điểm chung là: đều dùng để chỉ nghệ thuật chèo vốn có từ xưa và được truyền lại. Sử dụng thuật ngữ “truyền thống” ở tên đề tài luận án này, chúng tôi muốn nói về âm nhạc chèo đã có từ xa xưa, được tiếp nối đến hiện nay. Trong “truyền thống” mặc nhiên đã có sự biến đổi do nhu cầu khách quan của nghệ thuật chèo trên con đường phát triển.
  10. 8 Nhưng tựu trung, nó vẫn là sản phẩm của văn hóa dân gian, khác với chèo hiện đại cũng có sự kế thừa từ truyền thống, song đã chuyển đổi từ loại hình sân khấu dân gian sang sân khấu chuyên nghiệp. Hai: Khái niệm và lý thuyết biến đổi văn hóa trong nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo Biến đổi: là thay đổi thành khác trước [142, tr. 64]. Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm: “Thuyết Truyền bá văn hóa (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.River 1914,...) cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc sự truyền bá của các đặc trưng văn hóa từ xã hội này sang xã hội khác”, Thuyết Vùng văn hóa (đại diện là C.L. Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925,...) đưa ra các khái niệm cơ bản về vùng văn hóa, loại hình văn hóa, trung tâm văn hóa, tổ hợp văn hóa, sự biến đổi văn hóa diễn ra rất đa chiều và nhiều cấp độ tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi trường và sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì? Thuyết Tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfiel 1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua mối quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu thế đối với người dân bản địa [18, tr.10]. Trong nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo, thuyết biến đổi văn hóa và thuyết vùng văn hóa giúp giải thích những vấn đề cốt lõi của tiến trình vận động và biến đổi của nghệ thuật chèo nói chung, diễn xướng âm nhạc chèo nói riêng Có thể nói, giao lưu, tiếp biến văn hóa đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương cách sáng tác, hoạt động biểu diễn (do tiếp thu và ảnh hưởng từ các nghệ
  11. 9 thuật khác du nhập vào Việt Nam). Quy luật trung tâm và ngoại vi là động lực thúc đẩy việc phải làm mới chèo (để phản ánh đa diện các khía cạnh của cuộc sống và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa của công chúng đương đại). Trở lại với thuật ngữ Biến đổi sử dụng trong nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo, có thể hiểu đó là những thay đổi hết sức lớn, mà không chỉ là sự kế thừa và đưa vào những nhân tố mới. 1.2.2. Diễn xướng âm nhạc chèo “Diễn xướng là một phương thức, một cách trình bày sáng tác dân gian. Diễn xướng là có diễn (phô động tác, hành động), có xướng (sử dụng lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu). Đây là đặc tính của nhiều sáng tác Folklore nếu không chú ý, không thể tiếp thu các sáng tác ấy một cách đầy đủ ở hai mặt trí tuệ và thẩm mỹ...” [53, tr.365]. Khái niệm Diễn xướng âm nhạc chèo chúng tôi sử dụng trong đề tài luận án được hiểu là: nội dung và cách thức diễn xướng làn điệu, nhạc không lời (hát và diễn tấu dàn nhạc) qua sự thể hiện của diễn viên, nhạc công trong vở diễn sân khấu chèo. Khái niệm này như một thuật ngữ mới, trong chừng mực nhất định, nó gần với khái niệm âm nhạc sân khấu chèo, đặc biệt là chèo cổ truyền, bởi tính chất “hát - múa - diễn” nhằm khu biệt với âm nhạc chèo đã tách khỏi môi trường vở diễn sân khấu, trở thành những tác phẩm trình diễn độc lập. 1.2.3. Làn điệu và sự chuyển hóa mô hình làn điệu chèo 1.2.4. Những phương tiện biểu hiện trong làn điệu chèo
  12. 10 1.2.5. Một số khái niệm mới trong diễn xướng âm nhạc chèo đương đại 1.3. Diễn xƣớng âm nhạc chèo cổ truyền 1.3.1. Hát, Múa, Diễn - đặc trưng của diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền Diễn xướng âm nhạc chèo là một tổng thể phức hợp gồm nhiều khía cạnh như hát, nhạc đệm, múa, diễn xuất (kèm theo đạo cụ, trang phục). Chẳng hạn khi diễn xướng làn điệu Bình thảo (Thị Mầu lên chùa), nhân vật Thị Mầu vừa hát vừa múa như cơn lốc xoay quanh nhân vật Thị Kính, vừa diễn hành vi trêu ghẹo tiểu Kính… 1.3.2. Vai trò, cách thức diễn tấu của dàn nhạc (nhạc cụ) trong diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền Dàn nhạc chèo không chỉ đệm cho các làn điệu hát mà còn có chức năng biểu hiện đa dạng nhằm đáp ứng các tình huống sân khấu. Đây chính là điểm khác biệt giữa dàn nhạc thuần tuý chỉ đệm cho hát và dàn nhạc sân khấu chèo. Ngẫu hứng, ứng tấu dựa trên mô hình làn điệu là một thủ pháp trong phong cách diễn tấu của dàn nhạc chèo cổ truyền. 1.4. Tổng quan nghiên cứu âm nhạc chèo 1.4.1. Những công trình viết về nghệ thuật chèo đề cập đến âm nhạc Từ những hoạt động thực tiễn như tiếp cận trò diễn, vở diễn, tiếp cận nghệ nhân chèo, các tác giả tìm hiểu, mô tả, trích dẫn các hệ thống làn điệu, các lối hát, lối nói, lời ca.... để thấy vai trò, chức
  13. 11 năng, cách thức và hiệu quả sử dụng nó trong nghệ thuật chèo. Nổi bật trong hướng nghiên cứu này có các tác giả: Hà Văn Cầu, Vũ Huy Chấn, Vũ Khắc Khoan, Trần Việt Ngữ, Trần Bảng,Trần Đình Ngôn,Tào Mạt, Tất Thắng. 1.4.2. Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về âm nhạc chèo Nghiên cứu chuyên sâu về âm nhạc chèo có các tác giả: Tô Vũ, Hoàng Kiều, Bùi Đức Hạnh, Đôn Truyền, Nguyễn Thị Nhung, Trần Vinh, Nguyễn Thị Thanh Phương. Ngoài ra, những bài viết về âm nhạc trong các hội nghị, hội thảo của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Đình Tấn, Ngọc Chung, Hoàng Kiều, Bùi Đức Hạnh, Bùi Đình Thảo, Văn Thịnh, Trần Vinh... tuy có khác nhau, song tựu chung đều là những suy nghĩ, trăn trở trước thực trạng bảo lưu và phát triển âm nhạc chèo. Tiểu kết Nghiên cứu cơ sở văn hóa dân gian với các khái niệm, lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền là việc làm quan thiết, giúp nghiên cứu sinh tiếp cận vấn đề nghiên cứu mạch lạc, khoa học. Bên cạnh đó, nghiên cứu diễn xướng âm nhạc trong chèo cổ truyền sẽ là cơ sở để đối sánh với diễn xướng âm nhạc chèo đương đại, từ đó nhận diện sự biến đổi của diễn xướng âm nhạc chèo trong quá trình phát triển. Qua tổng quan tình hình nghiên cứu âm nhạc chèo, có thể khẳng định về cơ bản, những vấn đề lý luận của nghệ thuật chèo cổ truyền, trong đó bao gồm cả âm nhạc đã được xác lập. Tuy vậy,
  14. 12 nghiên cứu diễn xướng âm nhạc chèo, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào tiếp cận, minh định vấn đề này. Nghiên cứu sinh hy vọng đề tài Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013 - truyền thống và biến đổi sẽ lý giải những vấn đề khoa học chưa được đề cập, và đó chính là tính mới của luận án, là tâm huyết của nghiên cứu sinh, góp phần định hướng phát triển diễn xướng âm nhạc chèo trong bối cảnh văn hóa hiện nay. Chƣơng 2 BIẾN ĐỔI TRONG DIỄN XƢỚNG ÂM NHẠC CHÈO ĐƢƠNG ĐẠI 2.1. Những cách thức diễn xướng âm nhạc chèo đương đại Diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951-1953, tựu trung được thể hiện chủ yếu trong 5 cách thức sáng tạo sau: Thứ nhất: Viết lời mới lồng vào điệu cũ (còn gọi là bình cũ rượu mới). Thứ hai: iao hưởng hóa nhạc chèo. Thứ ba: Sáng tác âm nhạc chèo theo hướng ca kịch. Thứ tư: Cách tân đồng bộ trên cơ sở ca hát truyền thống. Thứ năm: Dung hoà. Tuy nhiên, những cách thức sáng tạo âm nhạc kể trên không phải là đại diện duy nhất của chèo mỗi thời kỳ, mà vẫn có sự đan xen (ít hay nhiều) giữa chúng với nhau. 2.2. Sự kế thừa chèo cổ truyền trong làn điệu chèo đương đại 2.2.1. Làn điệu trong chèo cổ truyền
  15. 13 Qua nghiên cứu, làn điệu chèo cổ truyền có những đặc trưng cơ bản sau: Một là: Sáng tác theo phương thức tập thể, truyền miệng, chủ yếu có nguồn gốc từ ca dao, dân ca châu thổ Bắc Bộ. Trong quá trình phát triển, đã tiếp nhận các thể thơ chữ Nôm, chữ Hán. Làn điệu chèo cổ truyền thuộc loại hình thơ phổ nhạc. Hai là: Làn điệu chèo cổ truyền được được sáng tạo theo phương thức bẻ làn, nắn điệu (xử lý, ứng dụng và chuyển hóa mô hình nhạc chèo). Ba là: Hệ thống mô hình làn điệu chèo cổ truyền có mối quan hệ tương tác với hệ thống nhân vật, đáp ứng tính sân khấu. B n là: Nói chèo là lối nói có giai điệu, dễ bắt vần sang hát (gồm các thể loại nói sử, ngâm, vỉa...). Năm là: Làn điệu chèo cổ truyền có tiết tấu đặc trưng, có cấu trúc theo lối phân trổ. Ngoài ra, còn bắt gặp dạng kết cấu liên khúc như Tú Bà đánh Kiều (chèo Kiều) hay Hề trong vở Từ Thức. Các dạng cấu trúc thường gặp trong âm nhạc chèo cổ truyền là: Cấu trúc của liên khúc thƣờng là : Vỉa + hát + vỉa + hát + vỉa + hát. Cấu trúc của một làn điệu thƣờng ở hai kiểu nhƣ sau: a) (Vỉa) Trổ mở đầu + trổ thân bài + trổ nhắc lại + trổ kết. b) Trổ thân bài + trổ nhắc lại 1 + trổ nhắc lại 2 + nhắc lại 3... 2.2.2. Làn điệu chèo đương đại: Kế thừa phương thức sáng tác của chèo cổ truyền: sáng tạo tập thể và kế thừa phương thức bẻ làn, nắn điệu (ứng dụng, xử lý, chuyển hóa mô hình làn điệu chèo) của chèo cổ truyền.
  16. 14 2.3. Sự biến đổi trong làn điệu chèo đƣơng đại 2.3.1. Phương thức sáng tác chuyên nghiệp thay thế phương thức sáng tác dân gian mang tính tập thể, khuyết danh, truyền miệng 2.3.2. Những thay đổi trong làn điệu chèo đương đại Thứ nhất: Về cấu trúc làn điệu chèo đương đại Thứ hai: Về cách phổ thơ Thứ ba: Sử dụng thang âm, điệu thức và bổ sung loại nhịp mới vào âm nhạc chèo đương đại Thứ tư: Thủ pháp phối bè trong chèo đương đại 2.4. Biến đổi về hát trong diễn xướng âm nhạc chèo đương đại Thứ nhất: Hát theo làn điệu chèo cổ truyền (lồng điệu nhưng rút gọn cấu trúc). Thứ hai: Hát theo cách bẻ làn, nắn điệu (chuyển hóa mô hình làn điệu). Thứ ba: Hát các làn điệu sáng tác mới. Thứ tư: Sự biến đổi của hát đồng ca trong chèo hiện đại. 2.5. Biến đổi của nhạc không lời trong diễn xƣớng chèo đƣơng đại Trong chèo cổ truyền, khái niệm “nhạc không lời” chưa được xác lập (vì thực chất vẫn chỉ mang ý nghĩa là giai điệu hoá âm hình tiết tấu của lưu không, xuyên tâm). Nhạc không lời
  17. 15 trong chèo đương đại góp phần mô tả tâm trạng nhân vật, phác hoạ cảnh trí, tình huống, và có lúc là linh hồn của vai diễn, giúp người xem cộng cảm với những nỗi niềm sâu kín, những sắc thái vui, buồn… “Nhạc không lời” phải thoát ly được vai trò làm “nền” để đạt hiệu quả sân khấu. Tiểu kết Trong tiến trình phát triển của văn hóa, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX đến nay, nghệ thuật chèo nói chung, diễn xướng âm nhạc chèo nói riêng đã có nhiều biến đổi, thậm chí xuất hiện những hình thức mới làm thay đổi diện mạo của nghệ thuật này. Bên cạnh việc kế thừa truyền thống, diễn xướng âm nhạc chèo đã có nhiều biến đổi, đã xuất hiện những yếu tố mới trong âm nhạc. Người xưa đã sáng tạo chèo theo một chu trình mở, có nghĩa là đã xem công việc đồng sáng tạo, tính ngẫu hứng, ứng diễn và tính tập thể, truyền miệng như là những thủ pháp nghệ thuật trong diễn xướng âm nhạc chèo. Chèo ngày nay được sáng tạo theo chu trình khép kín mang tính chuyên nghiệp. Từ kịch bản, âm nhạc, mỹ thuật, múa và đạo diễn đều do từng cá nhân chịu trách nhiệm. Mặc dù phương thức dân gian đã được phát huy tối đa trong diễn xướng âm nhạc, song phải thừa nhận rằng phương thức sáng tác chuyên nghiệp, cá thể hóa, văn bản hóa đã làm yếu tố dân gian giảm dần, tính ngẫu hứng, ứng diễn mờ nhạt và dường như khó phát huy trong diễn xướng âm nhạc chèo đương đại.
  18. 16 Chƣơng3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ QUA TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 3.1. Những vấn đề đặt ra Qua diễn xướng âm nhạc chèo giai đoạn 1951 đến 2013, nhiều yếu tố mới đã nẩy sinh trong quá trình phát triển. Có yếu tố thuận theo những đặc trưng qui phạm của nghệ thuật chèo truyền thống, được giới chèo chấp nhận và khích lệ. Nhưng cũng có nhiều yếu tố du nhập thủ pháp của những dòng âm nhạc khác trở nên xa lạ với thẩm mỹ chèo, không được công chúng yêu chèo chấp nhận (âm nhạc trong hướng làm chèo cải biên và giao hưởng hóa nhạc chèo). Vấn đề quan thiết đặt ra cho những người làm nghệ thuật chèo hiện nay chính là: làm sao giữ gìn được bản sắc văn hóa chèo, và đáp ứng nhu cầu thưởng thức của công chúng yêu chèo. Để thực hiện tốt điều đó, về diễn xướng âm nhạc chèo, theo chúng tôi, cần quan tâm những vấn đề sau: Một là: Tạo dựng mối quan hệ gắn kết giữa các thành tố nghệ thuật đồng cấu tạo trong diễn xướng âm nhạc chèo đương đại Mối quan hệ hữu cơ giữa kịch bản, âm nhạc và các thành tố đồng cấu tạo thể hiện đặc tính cơ bản của văn hóa dân gian (tính tổng thể nguyên hợp) giữ vai trò quan trọng trong sáng tạo vở diễn chèo (qua phân tích diễn xướng âm nhạc trong lớp trò “chôn sống hề già). Đặc tính này được minh định qua những cách thức sáng tạo âm nhạc chèo đương đại. Ví như trong cách thức làm ca kịch mới, những ca khúc mới không có ý thức kế thừa truyền thống về
  19. 17 âm nhạc, được phối âm, phối khí một mặt đã tạo nên sự tương thích giữa các thành tố nghệ thuật trong vở diễn, nhưng mặt khác, đã góp phần biến đổi chèo sang hình thức sân khấu khác. Hai là: Minh định hiện tượng kịch cắm ca dưới góc nhìn diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền Hiện tượng “kịch cắm ca” không phải bây giờ mới được bàn luận, mà đã được giới chèo đề cập từ thập kỷ 50 - 60 (thế kỷ XX). Tuy nhiên, giải thích hiện tượng này từ góc nhìn diễn xướng âm nhạc chèo, với những đặc tính nguyên hợp của văn hóa dân gian, trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa các thành tố đồng cấu tạo và đặc biệt là mối quan hệ giữa kịch bản và âm nhạc chèo thì hầu như chưa có tác giả nào nghiên cứu. Theo chúng tôi, khái niệm “kịch cắm ca” được hiểu là: sự đối nghịch về bản chất của âm nhạc chèo cổ truyền với cách viết, cách tư duy, dàn dựng vở diễn theo kiểu kịch nói. Tuy nhiên, chúng tôi phân biệt những vở chèo có tiếp thu một vài yếu tố kịch xuất phát từ đề tài mới, nội dung mới (đòi hỏi phải có hình thức biểu hiện tương thích) khác với “kịch cắm ca”. Việc tiếp thu một số yếu tố của kịch nói cũng là chuyện bình thường trong sự giao thoa giữa nghệ thuật này với nghệ thuật khác để chèo gần gũi hơn với cuộc sống văn hóa đương đại. Qua phân tích diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền, đối sánh với “kịch cắm ca”, (lớp trò Súy Vân giả dại), chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất: Âm nhạc trong chèo cổ truyền là hình thức diễn xướng âm nhạc (thể hiện sự kết hợp các thành tố hát - múa - diễn).
  20. 18 Đặc trưng hát - múa - diễn tạo nên sự gắn bó hữu cơ, hòa vào nhau để làm nên chỉnh thể chèo, mà “kịch cắm ca” không phát huy được tính ba trong một đó của nghệ thuật biểu diễn chèo truyền thống, bởi đề tài phản ánh, phương thức sáng tác, cách dàn dựng và nghệ thuật biểu diễn của diễn viên đã theo ngôn ngữ của nghệ thuật kịch nói. Thứ hai: Diễn xướng âm nhạc chèo nằm trong môi trường vở diễn chèo cổ truyền. Một trong những thủ pháp của chèo cổ truyền là kể chuyện bằng diễn xướng âm nhạc thông qua nghệ thuật biểu diễn của diễn viên, nhạc công. Nói chèo là lối nói có thanh điệu, hoàn toàn khác với ngôn ngữ đối thoại của kịch nói. Thể loại hát nói (ngâm, vỉa, nói sử...) chính là hình thức bắc cầu từ nói sang hát. Vì vậy, những vở diễn sử dụng ngôn ngữ đối thoại của kịch nói, không qua giai đoạn chuẩn bị (bắc cầu) mà vào thẳng làn điệu chèo cổ truyền, sao tránh khỏi sự hụt hẫng, đột ngột, tạo cho người thưởng thức cảm giác kịch cắm ca.Trong khi đó, với những vở chèo mà kịch bản được soạn theo lối nói thơ, văn biền ngẫu của chèo, thì các làn, điệu đều có sự chuẩn bị thanh điệu từ nói bắt sang hát, đem lại cảm giác hòa quyện, ngọt ngào, hoàn toàn không có cảm giác “kịch cắm ca”.Vì vậy, khi chuyển thể kịch bản kịch nói sang chèo, nhất thiết phải được viết dưới dạng kịch bản văn học chèo. Nghiên cứu hiện tượng “kịch cắm ca” từ góc nhìn diễn xướng âm nhạc chèo cổ truyền, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến những đặc trưng cơ bản đã góp phần làm nên bản sắc văn hóa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2