Tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn
lượt xem 2
download
Tài liệu trình bày tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn như yêu cầu sinh thái; cách nhân giống, tiêu chuẩn cây giống tốt và những giống phổ biến hiện nay; kỹ thuật trồng và chăm sóc; phòng trị sâu bệnh chính; thu hoạch và cách bảo quản nhãn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn
- KỸ THUẬT TRỒNG NHÃN Nhãn có tên khoa học là Euphoria longana hay Dimocarpus longan, thuộc họ Sapindaceae. Trong 100g thịt quả chứa: 109,0 calo; 1,0g protein; 0,5g chất béo; 12,38 22,55% đường tổng số; +28,0 I.U. Vit A; 43,12163,70mg Vit C; 196,5mg Vit K,...Như vậy, quả nhãn ngoài các chất khoáng thì độ đường, vitamin C và K khá cao là các chất dinh dưỡng rất cần cho sức khỏe của con người, thích hợp với ăn tươi. Nhãn tươi và nhãn chế biến là mặt hàng giá trị có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Nhãn ở miền Nam được xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia, Lào, ... I. YÊU CẦU SINH THÁI 1. Nhiệt độ Nhãn thường được trồng chủ yếu trong vĩ độ từ 1528o Bắc và Nam của xích đạo. Nhiệt độ bình quân hàng năm 2127oC thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển. 2. Lượng mưa Nhãn cần lượng mưa thích hợp hàng năm khoảng 13001600mm. Lúc cây ra hoa gặp thời tiết nắng ấm, tạnh ráo có lợi cho việc thụ phấn, đậu quả tốt và năng suất sẽ cao. 3. ánh sáng Nhãn cần nhiều ánh sáng, thoáng. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây nhãn thích hợp với ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ. ánh sáng chiếu được vào bên trong tán giúp cây phát triển và thường sai trái, ánh sáng còn giúp đậu trái, vỏ bóng và vị ngọt, ngon. 4. Nước Nhãn là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng và rất dễ nhạy cảm với việc ngập nước kéo dài. Ngược lại, nếu gặp khô hạn trong thời gian dài sẽ làm cho cây sinh trưởng chậm, ra hoa và đậu trái khó khăn. 5. Đất đai Đất cát pha thịt, đất đỏ, đất phù sa có thành phần cơ giới nhẹ thích hợp cho việc trồng nhãn hơn trên các loại đất khác. Cây nhãn sinh trưởng tốt trong điều kiện đất thoát nước, tơi xốp, pH nước khoảng 5,56,5. II. CÁCH NHÂN GIỐNG, TIÊU CHUẨN CÂY GIỐNG TỐT VÀ NHỮNG GIỐNG PHỔ BIẾN HIỆN NAY 1. Cách nhân giống: a. Chiết cành: Đây là phương pháp nhân giống phổ biến nhất trên nhãn, thời điểm chiết tốt nhất là vào đầu mùa mưa. Chọn cành chiết trên cây mẹ có năng suất cao, phẩm chất tốt, sinh trưởng tốt, không nhiễm sâu bệnh hại quan trọng. Chọn cành chiết có đường kính 0.81.5cm, chiều dài từ 0.50.8m, tùy giống. Dùng dao bén khoanh vỏ cành 1 đoạn dài từ 0.51 cm cách ngọn cành 0.50.8m tùy giống, cạo sạch vỏ (có thể dùng chất kích thích ra rễ thoa phía trên vết khoanh), dùng bao nylon bó chỗ khoanh lại, khoảng 12 tuần thì tiến hành bó bầu. Vật liệu bó bầu có thể là rễ lục bình, bột xơ dừa. Khoảng 1,52 tháng sau khi bó bầu sẽ ra rễ, khi rễ thứ cấp ra đều và chuyển sang màu vàng lợt thì cắt xuống giâm đến khi cây ra được 1 đợt đọt và bắt đầu già thì có thể đem trồng. b. Ghép mắt Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp cần thay đổi giống nhanh từ giống nhãn có phẩm chất kém sang giống có năng suất cao và phẩm chất ngon. Từ các gốc nhãn có
- sẵn, sẽ ghép giống cần ghép vào. Trường hợp này thường áp dụng kiểu ghép chữ U hoặc chữ H. Dùng dây PE quấn kín mối ghép, sau 23 tuần tháo dây ra, khoảng 5 ngày sau tiến hành cắt ngọn gốc ghép. Hiện nay phương pháp ghép cành trên nhãn cũng được áp dụng rộng rãi để nhân nhanh các giống nhãn có phẩm chất tốt, năng suất cao phổ biến ra sản xuất. 2. Tiêu chuẩn cây giống tốt: Thân cây thẳng, vững chắc. Chiều cao cây giống từ 80 cm trở lên (đối với cây ghép), từ 60 cm trở lên (đối với cây chiết). Đường kính cành giống từ 1,01,2 cm (đo cách vết ghép khoảng 2 cm về phía trên đối với cây ghép), từ 0,8 cm trở lên (đo cách mặt giá thể bầu ươm 10 cm đối với cây chiết). Có 2 hoặc hơn 2 cành (đối với cây ghép) và chưa phân cành hoặc có hơn 2 cành (đối với cây chiết). Có 12 đợt lộc mới sinh ra sau ghép hoặc chiết. Số lá trên thân chính hiện diện đầy đủ từ vị trí chiều cao cây đến ngọn. Lá đã trưởng thành, xanh tốt và có hình dạng, kích thước đặc trưng của giống. 3. Những giống phổ biến hiện nay: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) có thể trồng một số giống nhãn đạt năng suất cao, phẩm chất ngon như nhãn Xuồng cơm vàng, nhãn Super (nhóm nhãn long), nhãn Tiêu da bò (tiêu Huế) a. Giống nhãn Xuồng cơm vàng (Hình 1): Giống này có nguồn gốc và được trồng đầu tiên tại Bà Rịa Vũng Tàu. Đây là giống có nhiều triển vọng. Khả năng sinh trưởng khá. Năng suất ổn định, cây 1520 năm tuổi có năng suất trung bình 100140kg/cây/năm. Quả trên chùm to đều, trọng lượng quả trung bình 1625g. Thịt quả có màu trắng hanh vàng, dầy thịt 5,56,2 mm, tỷ lệ % thịt (phần ăn được)/quả 6070%, độ Brix 2124%. Cấu trúc thịt: ráo, dai, dòn. Mùi vị ngọt, khá thơm, dùng để ăn tươi là chính. Vỏ trái khi chín có màu vàng da bò. Giống nhãn Xuồng cơm vàng rất thích hợp trên vùng đất cát giồng, nếu trồng trên đất khác nên trồng bằng cây tháp dùng gốc nhãn có sẵn tại địa phương. b. Giống nhãn Super (Hình 2): Cây ra hoa tự nhiên, mùa thu hoạch chính (vụ 1) vào tháng 67 DL, vụ phụ (vụ 2) vào tháng 121 DL. Năng suất ổn định, cây 4 năm tuổi có năng suất trung bình 30 kg/cây/năm. Trọng lượng quả trung bình 1014g. Thịt quả có màu trắng, hanh vàng, dầy thịt 58 mm, tỷ lệ % thịt/quả 6570%, độ Brix 2125%. Cấu trúc thịt: ráo, dòn. Mùi vị ngọt, ít thơm. Vỏ trái khi chín có màu vàng sậm đến vàng sáng. c. Giống nhãn Tiêu da bò (Hình 3): Giống này còn được gọi là Tiêu Huế. Đây là giống được trồng phổ biến do có khả năng sinh trưởng rất cao. Năng suất ổn định, cây 810 năm tuổi có năng suất trung bình 120 180kg/cây/năm. Trọng lượng quả trung bình 812g. Thịt quả màu trắng đục, dầy thịt 56 mm, tỷ lệ % thịt/quả 6065%, độ Brix 2023%. Cấu trúc thịt: khá ráo, dai. Mùi vị ngọt trung bình, ít thơm.
- Hình 1: Giống nhãn xuồng cơm vàng Hình 2: Giống nhãn Super Hình 3: Giống nhãn tiêu da bò Hình 4: Ghép nhãn xuồng cơm vàng lên giống nhãn Long Hình 5: Thay giống mới trên cây nhãn bằng phương pháp ghép bo III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC A. THIẾT KẾ VƯỜN
- 1. Đào mương lên líp Vùng đất thấp như ở ĐBSCL cần phải đào mương lên líp nhằm xả phèn, mặn và nâng cao tầng canh tác. Líp có chiều rộng trung bình 78 m, mương rộng 23 m, sâu 11,5 m (Hình 6). Vùng đất cao phải chọn nơi có nguồn nước suối hoặc nước ngầm để tưới cho cây nhãn vào mùa nắng. 2. Trồng cây chắn gió: Khi qui hoạch vườn nhãn nên trồng cây chắn gió để hạn chế việc rụng hoa, trái trong mùa mưa bão. Hàng cây chắn gió được trồng dọc theo phía ngoài, thẳng góc với hướng gió (Hình 7). 3. Khoảng cách trồng: Trồng cây trong vườn có thể theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật, hình nanh sấu hoặc theo đường vành nón cho vườn đồi ở vùng đồi núi. Khoảng cách trồng cây thường thay đổi từ 48m tùy vào giống, đất đai và mô hình trồng. Giống nhãn Tiêu da bò là giống sinh trưởng rất mạnh nên có thể trồng thưa hơn so với các giống nhãn khác (Hình 8,9). Đối với vùng đất ở ĐBSCL có thể trồng với khoảng cách 5 x 4 m hoặc 6 x 5 m. Sau 710 năm, khi cây giao tán thì tỉa bớt cây ở giữa (bỏ 1 cây, chừa 1 cây) để tránh cạnh tranh ánh sáng. Tương tự, những vùng đất ở miền Đông Nam Bộ, miền Trung và Duyên hải Nam Trung Bộ có thể trồng nhãn với khoảng cách trên. B. Kỹ thuật trồng và chăm sóc: 1. Thời vụ trồng: Vùng ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên bắt đầu trồng nhãn khi mùa mưa ổn định, thường từ tháng 67 hàng năm. Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ bắt đầu trồng nhãn vào đầu mùa mưa, thường vào tháng 9 hàng năm. 2. Chuẩn bị hố và cách trồng: Miền Đông, miền Trung và Tây Nguyên: Hố trồng nhãn có kích thước 1 x 1 x 0,7 m, trộn đều 2040 kg phân hữu cơ hoai, 300500 g hỗn hợp NPK 16168 và 0,51,0 kg vôi với đất mặt rồi gạt xuống hố. Khi trồng đặt cây xuống giữa hố, mặt bầu cây giống cần cao hơn mặt đất vườn 20 cm, dùng dao cắt đáy bầu, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên, nén đất xung quanh bầu, cắm cọc giữ chặt cây con, dùng rơm hay cỏ khô đậy kín mô, tưới nước. Đồng Bằng Sông Cửu Long: nên làm mô trên đất đã được lên líp, mô đất đấp thành hình tròn đường kính khoảng 0,60,8 m, độ cao thường là 0,30,6 m. Đất đấp mô được trộn với 100200 g hỗn hợp NPK 16168, 0,5 1,0 kg vôi, 1520 kg phân hữu cơ hoai và tro trấu, 10 20g Regent để sát trùng. Khi trồng dùng dao cắt đáy bầu, đặt cây xuống giữa mô và mặt bầu bằng với mặt mô, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên và lắp đất lại nén đất xung quanh, cắm cọc giữ chặt cây con. Sau đó dùng rơm hay cỏ khô đậy kín mô. Tưới nước giữ ẩm cho cây mỗi ngày một lần nếu nắng khô, nếu có mưa thì ngưng tưới. 3. Tủ gốc giữ ẩm: Hằng năm nên đắp thêm đất hay bùn ao vào chân mô. Vào mùa nắng cần phủ kín xung quanh tán cây bằng rơm, thân đậu hay cỏ khô. Phải phủ cách xa gốc nhãn 20 cm để phòng nấm bệnh gây hại (Hình 10). 4. Làm cỏ và trồng xen Khi cây nhãn chưa khép tán cần làm sạch cỏ xung quanh gốc theo đường kính tán cây (Hình 11), thông thường làm 45 đợt/năm kết hợp mỗi lần bón phân. Có thể trồng xen một
- số loại cây khác trong vườn nhãn để lấy ngắn nuôi dài (Hình 12). Nên trồng xen cây họ đậu để cải tạo đất và tạo nguồn phân hữu cơ cho cây nhãn. 5. Tưới nước: Cần cung cấp nước thường xuyên trong mùa nắng khi cây còn nhỏ, nhất là trên vùng đất pha cát rất dễ bị thiếu nước. Cây trưởng thành chịu đựng khô hạn khá hơn nhưng phải cung cấp đủ nước vào các giai đoạn cần thiết trong vụ nhãn (Hình 13). Nên tưới nước cho cây từ khi bắt đầu ra hoa, trái phát triển và sau khi thu hoạch. Bắt đầu ngưng tưới ngay khi xử lý ra hoa cho cây. Đến khi cây vừa nhú hoa thì tiến hành tưới nước trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây thiếu nước thì có thể tưới nhẹ cho cây. Tuy nhãn có thể chịu đựng được ngập trong thời gian ngắn nhưng cây phát triển kém, do đó cần thoát nước kịp thời. Hình 6: Líp trồng nhãn ở ĐBSCL Hình 7: Hàng cây chắn gió bảo vệ vườn nhãn Hình 8,9: Khoảng cách cây là 7 m (cây được tỉa cành hàng năm nên chưa giao tán lúc 7 năm tuổi)
- Hình 10: Tủ gốc giữ ẩm cho nhãn vào mùa nắng 6. Tỉa cành và tạo tán Tạo tán : Khi cây còn nhỏ cần tỉa bỏ ngọn cây cách mặt đất khoảng 0,81 m và những cành dầy đặc, cành vượt, cành đan chéo nhau, trên thân cây. Tuyển chọn lại 34 cành phân bố đều theo các hướng, cách nhau 1020 cm. Cành thứ nhất nên cách mặt đất 5080 cm. Sau khi trồng 1218 tháng tiến hành tỉa bỏ những cành mọc thẳng đứng, cành hướng vào giữa tán cây, cành bị che khuất mọc gần gốc,...nên theo định hướng tạo dáng cây có một bộ khung cơ bản thông thoáng. Tỉa cành : Việc cắt, tỉa cành cho cây thông thoáng giúp các cành trong tán cây có thể nhận được đầy đủ ánh sáng làm cho quá trình quang hợp của cây được đầy đủ. Mức độ cắt tỉa ở cây nhãn còn tùy thuộc vào giống, tuổi cây, trạng thái sức khỏe của cây, mùa vụ,…để có thể quyết định đốn đau hay cắt nhẹ. Sau khi thu hoạch xong cần cắt bỏ đồng loạt những đọt đã mang trái hay không mang trái ở vụ trước nhằm tạo ra bộ tán đều và đồng loạt (Hình 14). Cắt bỏ những cành bị sâu bệnh, cành mọc nằm bên trong tán. 7. Bón phân Dinh dưỡng là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành trái (ngoại trừ các yếu tố như thời tiết, nhiệt độ và lượng mưa). Bón phân hợp lý sẽ làm cho năng suất được ổn định. Thiếu phân, đặc biệt là thiếu đạm và kali sẽ làm cho trái rụng, trái nhỏ và cơm mỏng. Việc cung cấp phân cũng giống như tưới nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến suốt vụ, đặc biệt là sự phát triển của chùm hoa, sự ra trái và thời kỳ sinh trưởng, ra đọt ở vụ sau. Liều lượng phân bón cho nhãn cần căn cứ vào độ lớn của cây, sản lượng quả hàng năm, giống và độ màu mỡ của đất để bón phân. a. Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản Đối với cây 13 năm tuổi: sau khi trồng cây nhãn bắt đầu ra đợt đọt non thứ 2 thì bón phân. Năm đầu tiên cây còn nhỏ nên pha phân vào nước để tưới, phải tưới cách gốc 2025 cm để tránh phân làm cháy rễ. Hàng năm bón thêm phân hữu cơ hoai mục 510kg/cây.
- Bảng 1: Khuyến cáo bón phân cho cây nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản Tuổi cây Liều lượng (g/cây/năm) (năm) Số lần bón (lần/năm) N Urê P2O5 Super lân K2O KCl 1 4 5 100 217,4 50 303,0 100 166,7 2 3 4 200 434,8 70 424,2 150 250,0 3 4 300 652,2 100 606,1 200 333,3 b. Bón phân thời kỳ khai thác Đối với cây trên 3 năm tuổi: số lượng phân bón kể trên tăng dần từ 2030% mỗi năm và số lần bón được chia ra như sau: Lần 1: Sau khi thu hoạch trái 1 tuần bón: 60%N + 60%P2O5 +25% K2O.Lần 2: Trước khi cây ra hoa 5 tuần bón: 40% P2O5 + 25% K2O.Lần 3: Đường kính quả khoảng 1cm bón: 40%N + 25% K2O.Lần 4: Trước khi thu hoạch trái 1 tháng bón: 25% K2O. Hàng năm cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục khoảng 1020kg/gốc/ năm hoặc bón phân tro trấu, xác thân đậu, vỏ đậu. *Chú ý: Tùy tình hình sinh trưởng, năng suất nhãn của vụ trước mà gia giảm lượng phân bón NPK cho vụ nhãn kế tiếp. Trước khi cây ra hoa, nếu bón phân không hợp lý (nhiều đạm) thì rất dễ dẩn đến cây ra đọt quá mạnh, ức chế quá trình phân hóa mầm hoa. Do đó trong giai đoạn này cần phải giảm bớt đạm, gia tăng hàm lượng lân và kali để lá sớm thuần thục và trổ hoa sớm. c. Phương pháp bón phân Vùng ĐBSCL: Cuốc rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, sâu 1020 cm cho phân vào lấp đất lại tưới nước. Vùng Đông Nam Bộ, miền Trung và Duyên Hải Nam Trung Bộ: Đào rãnh xung quanh tán cây rộng 2030 cm, sâu 1020 cm. Lượng phân bón được cho vào rãnh sau đó lấp đất lại và tưới nước. d. Phun phân bón qua lá: Để bổ sung dinh dưỡng kịp thời cho cây, có thể dùng hình thức phun phân bón qua lá. Sau khi thu hoạch, cắt tỉa cành xong, có thể phun một số loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm cao như NPK: 301010, 4044, 331111,...nhằm giúp cho bộ lá mới ra đều
- và khỏe mạnh. Sau khi khoanh vỏ khoảng 47 ngày, để thúc đẩy lá mau thuần thục và sớm trổ, có thể dùng một trong các loại phân bón qua lá như Bloom Plus (Schultz) NPK:106010 (20gr/10 lít nước) hoặc MKP 05234 (50gr/10 lít nước). Không nên xịt các loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm cao vào lúc này vì có thể dẩn đến sự xuất hiện lá non mới, cây tiếp tục ra lá, không ra hoa hoặc hoa ra không đều, dễ hình thành bông lá (trên chùm hoa có mang lá) và những lá non mới này sẽ cạnh tranh dinh dưỡng với hoa, trái non. Trong giai đoạn từ khi trái non cho đến trước lúc thu hoạch, để bổ sung thêm dinh dưỡng, có thể sử dụng các loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm và kali cao như NP K:131021, 10035, 251017,5 . 8. Xử lý ra hoa a. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Tiêu da bò: a.1. Một số kinh nghiệm và kỹ thuật cần thiết khi xử lý ra hoa: Cây nhãn Tiêu da bò 2 năm có thể cho được 3 vụ quả. Tuy nhiên, tỷ lệ ra hoa tự nhiên là rất thấp, cho nên phải tiến hành biện pháp xử lý ra hoa. Kỹ thuật khoanh vỏ trên cây (còn được gọi là khấc cành) để xử lý cho cây ra hoa là kỹ thuật chính yếu(Hình 15). Sau khi thu hoạch quả vụ trước tiến hành bón phân, loại bỏ những cành cằn cỏi, vô hiệu. Khi lá nhãn của đợt thứ 2 có màu xanh đọt chuối (thường gọi lá lá lụa, Hình 16), dùng dao hay sứa khoanh vỏ vòng tròn quanh thân cành. Chỉ khoanh vỏ trên những cành chính và nên để lại 12 cành thường được gọi là nhánh thở để có nhựa luyện nuôi cây. Vết khoanh rộng khoảng 1.52 mm (đối với cành nhỏ), 35 mm (đối với cành lớn), dùng dây nilon quấn chặt nhiều vòng vào chỗ đã khoanh. Từ lúc khoanh vỏ đến khi cây nhãn ra hoa khoảng 2035 ngày (tùy vào tuổi cây), thời gian này không được tưới nước cho cây. Khi thấy chùm hoa nhãn đã nhú ra được khoảng 5 cm thì tháo bỏ dây và bắt đầu tưới nước trở lại. a.2. Các giai đoạn phát triển trong một vụ nhãn trên giống nhãn Tiêu da bò có thể tóm tắt như sau Tỉa cành à Khoanh cành : 6090 ngày (23 cơi đọt) Khoanh cành à Chuẩn bị ra hoa : 3035 ngày. Ra hoa à Đậu quả : 2530 ngày. Đậu quả à Thu hoạch : 90105 ngày. Tổng cộng: Thời gian từ lúc khoanh vỏ đến thu hoạch trái nhãn: 5 5,5 tháng. QUI TRÌNH XỬ LÝ RA HOA TRÊN NHÃN TIÊU DA BÒ
- a.3. Một số nguyên nhân hạn chế sự thành công khi xử lý ra hoa trên cây nhãn Tiêu da bò: Giai đoạn khoanh vỏ: không ít nhà vườn tiến hành khoanh vỏ cho cây không đúng thời điểm mà lại xử lý quá sớm (lá non còn màu đỏ trên đọt) hoặc quá trể (lá đã chuyển sang màu xanh đậm) nên tỷ lệ thành công thấp. Tiến hành xử lý ra hoa cho cây quá sớm ngay cơi đọt thứ nhất, lúc này cây chưa hồi phục kịp sau giai đoạn mang trái ở vụ trước, cây có bộ lá không khoẻ, lá nhỏ dẩn đến sự hình thành bông yếu, trái nhỏ. Nhưng nếu đợi đến cơi đọt thứ 3, 4 mới khoanh vỏ thì càng khó xử lý cho cây ra hoa đồng loạt vì càng về sau thì cây ra đọt càng không tập trung, đọt không đều. Chiều rộng của vết khoanh : đã có nhiều trường hợp chết cành hoặc chết cả cây xảy ra là do khi khoanh vỏ cho cây ra hoa không ít nhà vườn đã tạo ra một vết khoanh quá lớn. Hoặc như trường hợp khi cây chưa kịp ra hoa thì hai dấu vết khoanh đã liền nhau do chiều rộng của vết khoanh quá nhỏ. Vị trí khoanh vỏ: khoanh vỏ ở gốc thân chính hay trên cành cấp 1 nhưng lại không chừa "nhánh thở" cho cây hoặc để lại những cành quá nhỏ, những cành phía dưới, cành nằm bên trong tán cây dẫn đến trường hợp cây chết trước khi ra hoa. Bón phân không hợp lý: bón hoặc phun các loại phân bón qua lá quá nhiều đạm trong giai đoạn xử lý ra hoa cho cây dẫn đến cây dễ ra lá hoặc hình thành bông lá. Tưới nước: trong giai đoạn xử lý cho cây ra hoa mà lại tưới nước quá nhiều hoặc do điều kiện thời tiết như mưa nhiều, mưa liên tục thì cây lại tiếp tục ra lá. Cắt tỉa cành: cắt tỉa cành nhiều quá sẽ làm cho cây đâm nhiều chồi, hình thành nhiều chùm hoa, năng suất cao trong vụ này nhưng lại giảm ra hoa trong vụ tới. Phòng trừ sâu bệnh: không phòng trừ sâu bệnh kịp thời điển hình như sâu đục gân lá nên lá non trên đọt bị biến dạng, gân lá bị cháy đen, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, hình thành đọt mới.
- b. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng Nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng mỗi năm cho một vụ quả. Khi thu hoạch xong cần tỉa cành đồng loạt. Bón phân đầy đủ theo khuyến cáo. Nên phun thuốc ngừa sâu phá hại lá đồng thời kết hợp phun một số loại phân bón lá có hàm lượng đạm cao như N PK (301010) với liều lượng 10g/810 lít nước để nuôi bộ lá cho tốt. Bắt đầu ngưng tưới nước khi lá của đợt đọt thứ 2 trở nên già và bắt đầu cho đợt đọt thứ 3. Đến khi cây vừa nhú hoa có thể tưới nước trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây thiếu nước có thể tiến hành tưới nhẹ cho cây. c. Xử lý ra hoa trên cây nhãn Long, nhãn Super: Cây nhãn long hay nhãn super một năm có thể thu hoạch 2 vụ trái: vụ thuận, vụ nghịch. Vụ thuận: Khoảng giữa đến cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1 tiến hành bón phân, tỉa cành, sửa tán cây. Thông thường tỉa đọt (đã thu quả) chỉ để lại 3 đôi lá kép ở cành mang quả. Có thể phun thêm các loại phân bón lá có công thức đạm cao như NPK (301010). Khi lá đọt thứ 2 từ màu đỏ chuyển sang xanh nhạt là thời điểm phát hoa xuất hiện nên tiến hành tưới nước trở lại . Vụ nghịch: Sau khi thu hoạch nhãn vụ thuận khoảng tháng 67 dương lịch thì nhanh chóng tỉa cành và tiến hành bón phân điều khiển cho cây ra một đợt đọt non trong thời gian nhất định. Để giúp cho cây ra hoa đồng loạt có thể phun bổ sung thêm các loại phân bón lá có tỉ lệ NPK như sau: 05234; 106010; 63030. Sau khi chùm hoa xuất hiện cũng tiến hành chăm sóc như trên. 9. Tăng đậu quả, hạn chế rụng quả non a. Tăng đậu quả : Dùng Progibb (GA3) liều lượng 0,1g/10 lít nước hoặc H3BO3 1,0g/10 lít nước, phun vào các thời điểm trước khi cây nở hoa, 30% hoa nở và cây vừa đậu quả sẽ làm tăng tỷ lệ đậu quả. b. Khắc phục hiện tượng rụng trái non: vườn phải trồng cây chắn gió, tưới nước, bón phân đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm chống rụng quả non như: CRT, Thiên Nông,... từ khi trái có đường kính 0,3 0,5 cm. 10. Tỉa trái trên chùm: Việc tỉa trái giúp gia tăng kích thước, trái to, giảm hiện tượng ra trái cách năm, chùm trái sẽ có trái đồng đều về độ lớn. Tiến hành tỉa trái sau khi kết thúc thời kỳ rụng trái sinh lý, lúc này trái non đang ở vào giai đoạn khoảng 46 tuần sau khi đậu trái, kích thước trái khoảng bằng hạt đậu nành. Tỉa những trái bị sâu bệnh, trái dị hình, trái ở đầu ngọn của chùm. 11. Bao quả Biện pháp đơn giản là dùng lưới, túi chuyên dùng để bao quả hoặc túi nhựa PE có đục những lỗ nhỏ sao cho nước không đọng ở đáy túi trong quá trình bao quả. Thời điểm bao tốt nhất là trái có đường kính 1cm. Chú ý phòng trừ sâu bệnh trước khi bao quả.
- Hình 11: Làm cỏ xung quanh gốc nhãn Hình 12: Trồng xen đu đủ trong vườn nhãn Hình 13: Tưới nước cho nhãn bằng hệ thống tưới phun dưới tán cây Hình 14: Cắt đọt cành sau khi thu hoạch Hình 15: Khoanh vỏ trên thân cành trên cây Hình 16: Giai đoạn lá lụa trên câynhãn Tiêu da bò IV. PHÒNG TRỊ SÂU BỆNH CHÍNH A. sâu hại 1. Sâu đục gân lá (Acrocercops hierocosma Meyr) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng màu xám nâu, kích thước sải cánh khoảng 4 mm, cánh trước dài và hẹp, trên cánh có những vân màu trắng bạc, cánh sau hình dùi có nhiều lông tơ mịn dài.
- ấu trùng dài khoảng 5mm có màu xanh nhạt. Sâu chui ra khỏi gân lá để hoá nhộng, nhộng dài khoảng 5 mm được che phủ bên ngoài bằng một màng mỏng đính trên mặt lá nhãn. Sâu gây hại trên nhãn, vải. Hiện nay loài này ngày càng gây hại quan trọng trên nhãn ở các tỉnh ĐBSCL. Bướm cái thường đẻ trứng trên các cành, lá nhãn non. Sâu nở ra ăn phá bằng cách đục vào gân chính của lá, làm đứt nghẻn mạch nhựa của lá, lá không phát triển được hoặc bị méo mó. Triệu chứng lá bị cháy khô đầu trông rất giống lá bị bệnh. Khi các đợt lộc bị gây hại nặng ảnh hưởng đến sự phát triển bộ lá, làm giảm khả năng ra hoa hoặc trái bị rụng.(Hình 17 và 18). Phòng trị: Tỉa cành để các đợt ra lộc tập trung dễ kiểm soát. Phun thuốc trong giai đoạn cây ra đọt non bằng các loại thuốc như: Fenbis, Sagomycin, Cymbus, Applaud hoặc các loại thuốc gốc cúc tổng hợp khác. Hình 17: Triệu chứng sâu đục gân lá nhãn Hình 18: Sâu và nhộng sâu đục gân lá nhãn 2. Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis (Guenée)) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại bướm có chiều dài sãi cánh 20 – 23mm, toàn thân màu vàng, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu đen. Trứng có hình elip dài khoảng 2 2,5mm, trứng lúc mới đẻ có màu trắng sữa, khi sắp nở có màu vàng nhạt.(Hình 19). ấu trùng mới nở có màu trắng sữa, đầu màu nâu, về sau chuyển thành màu trắng hơi ửng hồng, trên lưng mỗi đốt cơ thể có 4 chấm màu nâu nhạt, trên các đốm có mang 1 sợi lông cứng nhỏ. ấu trùng trải qua 5 tuổi, ấu trùng phát triển đầy đủ dài 17 – 20 mm. Nhộng dài khoảng 12 13 mm nằm trong một cái kén bằng tơ, ban đầu có màu nâu nhạt khi sắp vũ hóa có màu nâu đậm và có thể thấy rõ các chấm đen trên cánh. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp ở nơi tối hoặc mặt dưới lá cây ký chủ. Cả thành trùng đực và cái đều ăn mật hoa. Trưởng thành cái đẻ trứng trên trái, đặc biệt là nơi tiếp giáp giữa các trái. Sâu có thể gây hại từ khi trái còn nhỏ đến sắp thu hoạch, nặng nhất là khi trái bắt đầu có cơm. Trái non bị sâu đục thường biến dạng, khô và rụng, trái lớn nếu bị hại sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất. Sâu thường hóa nhộng ở nơi tiếp giáp giữa các trái hoặc trên bề mặt trái. Trong tự nhiên nhộng thường bị ký sinh bởi 2 loài ong Brachymeria lasus (Walker) và Brachymeria nosatoi Habu. Phòng trị: Vệ sinh vườn bằng cách thu gom những trái bị nhiễm đem tiêu hủy. Cắt tỉa cành sau khi thu hoạch cho vườn thông thoáng. Dùng bẫy đèn với ánh sáng đen (Black light) để bẩy trưởng thành. Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại. Phun thuốc nếu có 1% số trái trong vườn bị tấn công, có thể dùng các loại thuốc như Vovinam, Fenbis, Karate, Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush. Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng.
- Hình 19: Thành trùng sâu đục trái Conogethes punctiferalis 3. Bọ xít (Tessaratoma papillosa (Drury)) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng có màu nâu nhạt, cơ thể to, chiều dài thân khoảng 2530 mm có dạng hình 5 cạnh, cánh trước có dạng cánh nửa cứng. Trứng dạng hình cầu, kích thước khoảng 2mm, màu nâu nhạt, được đẻ thành từng ổ xếp cạnh nhau trên mặt lá. ấu trùng cũng có dạng như thành trùng tuy nhiên cánh chưa phát triển hoàn chỉnh, kích thước nhỏ hơn và có màu vàng nâu, khả năng di chuyển kém linh hoạt hơn thành trùng.(Hình 20 và 21). Bọ xít là đối tượng gây hại nguy hiểm trên nhãn vùng ĐBSCL, gây hại chủ yếu vào giai đoạn cây ra đọt non, rụng hoa, rụng trái, chết các cành của phát hoa ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và sinh trưởng của cây. Phòng trị: Tỉa cành để các đợt hoa và đọt non ra tập trung. Dùng vợt bắt trưởng thành vào sáng sớm. Trong tự nhiên có các loài thiên địch như kiến vàng, ong ký sinh có thể tấn công trứng bọ xít, do vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho thiên địch tự nhiên phát triển nhằm hạn chế bớt sự gây hại của bọ xít. Phun thuốc khi thấy mật số bọ xít cao, có thể dùng cá loại thuốc như Vovinam, Secsaigon, Confidor, Fastac, Sherpa... Hình 20: Thành trùng bọ xít Tessaratoma papillosa Hình 21: Bọ xít chích hút trên chùm nhãn 4. Rệp sáp (Pseudococus sp.) (Aleurodicus dispersus) (Nipaecoccus sp.) Hình thái và cách gây hại: Rệp sáp gồm rất nhiều loài gây hại trên nhãn. Khả năng sinh sản của rệp sáp rất cao, con cái có thể đẻ trứng hoặc đẻ trực tiếp ra con. ấu trùng tuổi nhỏ ít có khả năng di chuyển, chúng thường kết hợp với các loại kiến để
- phân tán sang nơi khác. Rệp sáp có thể gây hại trên các bộ phận của cây như cành, lá, hoa trái. Cả ấu trùng và trưởng thành đều chích hút nhựa cây, trong quá trình gây hại chúng thải ra mật thu hút nấm bồ hóng đến phát triển, sự phát triển của nấm bồ hóng trên tán lá làm giảm khả năng quang hợp của cây, trên trái làm giảm giá trị thương phẩm. Ngoài ra vết thương do rệp gây ra giúp các loại nấm bệnh khác dễ dàng xâm nhập vào cây.(Hình 22 và 23). Phòng trị: Phun nước vào tán cây để rửa trôi rệp. Nên tỉa bỏ những trái bị nhiễm ở giai đoạn đầu để tránh sự nhân mật số rệp sáp. Tìm diệt các loại kiến có hại để hạn chế sự lây lan. Hạn chế trồng xen với những cây dễ nhiễm rệp sáp như đu đủ, mãng cầu,... Phun thuốc khi thấy mật số cao bằng các loại thuốc như: Pyrinex, Fenbis, Supracide, Pyrinex, Admire, DC tron plus...Khi phun có thể kết hợp các loại chất bám dính để tăng hiệu quả của thuốc. 5. Sâu Đục Trái (Acrocercops cramerella Snellen) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại ngài nhỏ có chiều dài sãi cánh 12 mm, toàn thân màu nâu nhạt, râu và chân rất dài, cánh trước có hình lá liễu thon dài có những vân trắng, cánh sau hình dùi rìa, cánh mang nhiều lông tơ. Thời gian sống của trưởng thành khoảng 7 ngày. Thành trùng cái đẻ từng trứng trên cuống trái, trứng có hình bầu dục dẹp kích thước 0,5 mm, thời gian trứng 6 7 ngày. ấu trùng có 4 6 tuổi, khi mới nở ấu trùng có màu trắng sữa, đầu màu vàng và không chân, khi phát triển đầy đủ ấu trùng chuyển sang màu vàng nhạt kích thước 12 mm, giai đoạn ấu trùng kéo dài 14 18 ngày. Sâu thường hóa nhộng ở kẻ trái, nơi tiếp giáp giữa các trái hoặc trên lá khô, thời gian nhộng khoảng 6 8 ngày. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp dưới lá hoặc cành cây. Trưởng thành đẻ trứng trên cuống trái, ấu trùng sau khi nở đục vào phần cuống trái làm cho trái bị rụng, đôi khi vào giai đoạn trái còn rất nhỏ.(Hình 24). Sâu đục trái Acrocercops cramerella không gây thiệt hại nhiều đến năng suất trái so với sâu đục trái Conogethes punctiferalis, tuy nhiên theo một số ghi nhận gần đây cho biết, loài sâu hại này đang có chiều hướng gia tăng trên nhãn. Thiệt hại do loài này gây ra thông thường khoảng 10 15%. Điều đáng chú ý là loài này rất khó phát hiện nếu chỉ quan sát triệu chứng bên ngoài, khi điều tra trên vườn phải lột vỏ trái ra mới phát hiện được. Phòng trị Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại. Trong tự nhiên trứng sâu đục trái Acrocercops cramerella bị ký sinh bởi ong ký sinh họ Trichogrammatidae và kiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loài này phát triển cũng giảm được thiệt hại do sâu gây ra.
- Có thể phun thuốc để phòng trị bằng các loại thuốc như: Fenbis, SagoSuper, Karate, Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush... Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng. Hình 24: Thành trùng sâu đục trái Acrocercops cramerella B. Bệnh hại 1. Bệnh thối trái (do nấm Phytophthora sp.) Hình 25: Triệu chứng bệnh thối trái nhãn Triệu chứng: Bệnh này thường xuất hiện và gây hại nặng trên trái nhãn lúc nhãn sắp già, chín và đặc biệt là trong mùa mưa, nơi có ẩm độ cao thì bệnh phát triển và lây lan rất nhanh chóng. Do nấm Phytophthora thường lưu tồn trong đất nên các chùm trái gần mặt đất thường dễ bị nhiễm bệnh hơn trong mùa mưa từ đây sẽ là nguồn lây lan cho các chùm trái phía trên và lây lan sang cây khác trong cả vườn. Trái bị bệnh thường bị thối nâu, lan dần từ vùng cuống trái trở xuống, làm trái nứt ra, thịt trái bị thối nhũn, chảy nước có mùi hôi chua và có thể thấy tơ nấm trắng phát triển trên vết bệnh.(Hình 25). Phòng trị: Để phòng trị bệnh này nên tỉa bỏ các cành gần mặt đất vì khi trái gần chín sẽ dễ nhiễm bệnh từ đất trong mùa mưa. Cần lưu ý cắt bỏ và thu gom các trái bị bệnh rơi rụng trong vườn đem tiêu hủy. Phun các loại thuốc như Alpine, Mexyl, Ridomil Gold, Aliette, hoặc các loại thuốc có gốc đồng theo liều lượng khuyến cáo. 2. Bệnh phấn trắng (do nấm Oidium sp.) Hình 26: Triệu chứng bệnh phấn trắng
- Triệu chứng: Hoa bị xoắn vặn, khô cháy. trái non bị nhiễm bệnh sẽ nhỏ, có màu nâu. Vỏ trái bị đóng phấn trắng nhất là ở vùng gần cuống. Trái lớn hơn nếu nhiễm bệnh thường bị thối nâu từ cuống trái sau đó chuyển sang màu nâu đen và lan dần đến nguyên trái.(Hình 26). Phòng trị: Vườn thoáng, ánh sáng xuyên qua được tán lá sẽ hạn chế sự phát triển của bệnh. Phòng trị bệnh bằng cách phun các loại thuốc hóa học như ư Thio –M 500SC, Bendazol 50WP, Topsin M, Nustar, ... nồng độ theo khuyến cáo. Để phòng ngừa bệnh và phòng trị có hiệu quả có thể phun thuốc vào giai đoạn trước khi trổ hoa và ngay khi hoa vừa đậu trái non. 3. Bệnh đốm bồ hóng (do nấm Meliola sp.) Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 13mm, đen ( màu càng sậm khi đốm bệnh càng to ). Bề mặt đốm bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Mặt dưới lá có thể có nhiều đốm nhưng các đốm này thường rời nhau. Cạo lớp bồ hóng đi bên dưới thấy mô lá bị thâm đen. Nấm bò hóng thường phát triển nhiều trên các vườn trồng quá dầy, tàn lá che rợp nhau và ẩm độ khộng khí cao.(Hình 27). Hình 27: Triệu chứng bệnh đốm bồ hóng Phòng trị: Không nên trồng dầy, tỉa bớt cành vô hiệu khi tạo tán sau thu hoạch giúp cây thoáng.. Có thể sử dụng các loại thuốc gốc đồng để phòng trị bệnh như: Carbenzim 500FL, Thio M 500SC, COC85, Copper zinc, ...phun theo liều lượng khuyến cáo. 4. Bệnh khô cháy hoa (do nấm Phyllostica sp. hoặc Pestalotia sp.) Hình 28: Triệu chứng bệnh khô hoa Triệu chứng: Bệnh khô cháy hoa thường xuất hiện vào lúc hoa nhãn đang nở rộ, trên cánh hoa có những vết chấm nhỏ bằng đầu kim, có màu nâu đen làm hoa bị vàng, sau đó khô và rụng đi. Nấm thường tấn công vào lúc có nhiều sương mù hay mưa nhiều, ẩm độ không khí cao.(Hình 28). Phòng trị: Nên trồng thưa giúp cây thoáng, cho ánh sáng xuyên qua tán cây làm giảm độ ẩm sẽ hạn chế được bệnh. Phòng trị bằng các loại thuốc như: Bendazol 50WP, Score, Carbenzim 500FL hoặc thuốc gốc đồng theo khuyến cáo vào giai đoạn trước khi hoa nở để phòng bệnh.
- V. THU HOẠCH VÀ CÁCH BẢO QUẢN Ở ĐBSCL, nhãn Xuồng cơm vàng và nhóm nhãn Long nên thu hoạch khoảng tuần thứ 11, nhãn Tiêu da bò nên thu hoạch khoảng tuần thứ 14 sau khi đậu trái. Nếu thu hoạch sớm hơn tỷ lệ thịt/quả còn ít và vị ngọt kém, còn nếu thu hoạch trễ hơn tuy làm cho quả có ngọt hơn nhưng vỏ trái có nhiều chấm đen làm mất giá trị thương phẫm. Khi thu hoạch dùng kéo cắt cả chùm quả để cho cành khỏi bị gãy, bị xước và nếu cành bị bẻ đi quá sâu sẽ ảnh hưởng đến ra hoa vụ sau. Nhãn non thu hoạch được cắt tỉa và buộc lại thành từng chùm cho đẹp mắt hoặc đóng gói theo yêu cầu của thị trường. Vận chuyển và bảo quản ở điều kiện nhiệt độ 58oC, ẩm độ môi trường không khí 90 95% sẽ giữ được màu sắc và độ tươi của quả nhãn. Dùng bao nilon PE (Poly ethylene) có 1525 lỗ nhỏ/dm2 để bảo quản nhãn sẽ hạn chế được cường độ hô hấp của quả tươi và bảo quản quả nhãn kéo dài hơn 2 ngày so với cách bảo quản thông thường.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phòng trừ bệnh hại tổng hợp (IPM) trên cây cà chua
3 p | 422 | 101
-
Cách phòng trừ bệnh hại tổng hợp (IPM) trên cây cà chua
4 p | 398 | 77
-
Sâu bệnh ở cây vải - Kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng trừ
50 p | 233 | 74
-
Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh - Nguyễn Thị Thanh Thủy part 1
10 p | 167 | 43
-
Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại cây ăn quả có múi - Sử dụng dầu khoáng làm vườn và dầu khoáng nông nghiệp: Phần 2
80 p | 145 | 38
-
Giáo trình Phòng trừ sâu bệnh hại điều - MĐ04: Trồng điều
87 p | 139 | 34
-
Hoa hồng – trồng và chăm sóc part 1
12 p | 104 | 27
-
CHƯƠNG TRÌNH HỢP TÁC KỸ THUẬT
19 p | 202 | 24
-
Thích ứng với biến đổi khí hậu: Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật canh tác một số cây màu
64 p | 38 | 11
-
Phòng Trừ Bệnh Hại Tổng Hợp (IPM)
4 p | 97 | 8
-
Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật Gieo ươm và trồng một số loài cây ngập mặn
47 p | 44 | 8
-
Bài giảng Sản xuất rau an toàn (Nghề: Khuyến nông lâm) - Trường Cao Đẳng Lào Cai
73 p | 62 | 7
-
Một số loại rau ăn lá thích ứng với biến đổi khí hậu - Sổ tay Hướng dẫn kỹ thuật canh tác: Phần 1
54 p | 19 | 7
-
Giáo trình nội bộ Lâm sinh tổng hợp
172 p | 39 | 6
-
Đề cương chi tiết học phần: Lâm sinh tổng hợp
6 p | 41 | 3
-
Phân tích lúa mùa có phẩm chất tốt bằng kỹ thuật microsatellite (SSR)
11 p | 15 | 2
-
Tạo kháng thể đa dòng nhận biết protein P9 của vi rút lùn sọc đen phương Nam bằng đoạn peptide tổng hợp
8 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn