intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn

Chia sẻ: Phan Thúc Định Định | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

48
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn như yêu cầu sinh thái; cách nhân giống, tiêu chuẩn cây giống tốt và những giống phổ biến hiện nay; kỹ thuật trồng và chăm sóc; phòng trị sâu bệnh chính; thu hoạch và cách bảo quản nhãn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng hợp kỹ thuật trồng nhãn

  1. KỸ THUẬT TRỒNG NHÃN      Nhãn   có   tên   khoa   học   là Euphoria   longana hay Dimocarpus   longan,   thuộc   họ  Sapindaceae.  Trong  100g thịt  quả   chứa:  109,0 calo;  1,0g  protein;  0,5g chất  béo;  12,38­ 22,55% đường tổng số; +28,0 I.U. Vit A; 43,12­163,70mg Vit C; 196,5mg Vit K,...Như vậy,   quả  nhãn ngoài các chất khoáng thì độ  đường, vitamin C và K khá cao là các chất dinh  dưỡng rất cần cho sức khỏe của con người, thích hợp với ăn tươi. Nhãn tươi và nhãn chế  biến là mặt hàng giá trị có thị trường tiêu thụ  cả  trong và ngoài nước. Nhãn ở  miền Nam   được xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia, Lào, ... I. YÊU CẦU SINH THÁI 1. Nhiệt độ Nhãn thường được trồng chủ yếu trong vĩ độ  từ  15­28o Bắc và Nam của xích đạo. Nhiệt  độ bình quân hàng năm 21­27oC thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển. 2. Lượng mưa Nhãn cần lượng mưa thích hợp hàng năm khoảng 1300­1600mm. Lúc cây ra hoa gặp thời  tiết nắng ấm, tạnh ráo có lợi cho việc thụ phấn, đậu quả tốt và năng suất sẽ cao. 3. ánh sáng Nhãn cần nhiều ánh sáng, thoáng. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây nhãn thích   hợp với ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ. ánh sáng chiếu được vào bên trong tán giúp   cây phát triển và thường sai trái, ánh sáng còn giúp đậu trái, vỏ bóng và vị ngọt, ngon. 4. Nước Nhãn là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng và rất dễ nhạy cảm với việc ngập nước kéo dài.  Ngược lại, nếu gặp khô hạn trong thời gian dài sẽ làm cho cây sinh trưởng chậm, ra hoa  và đậu trái khó khăn. 5. Đất đai Đất cát pha thịt, đất đỏ, đất phù sa có thành phần cơ  giới nhẹ  thích hợp cho việc trồng   nhãn hơn trên các loại đất khác. Cây nhãn sinh trưởng tốt trong điều kiện đất thoát nước,   tơi xốp, pH nước khoảng 5,5­6,5.  II. CÁCH NHÂN GIỐNG, TIÊU CHUẨN CÂY GIỐNG TỐT VÀ NHỮNG GIỐNG  PHỔ BIẾN HIỆN NAY 1. Cách nhân giống: a. Chiết cành: Đây là phương pháp nhân giống phổ biến nhất trên nhãn, thời điểm chiết tốt nhất là vào  đầu mùa mưa. Chọn cành chiết trên cây mẹ  có năng suất cao, phẩm chất tốt, sinh trưởng tốt, không  nhiễm sâu bệnh hại quan trọng. Chọn cành chiết có đường kính 0.8­1.5cm, chiều dài từ  0.5­0.8m, tùy giống. Dùng dao bén khoanh vỏ cành 1 đoạn dài từ 0.5­1 cm cách ngọn cành  0.5­0.8m tùy giống, cạo sạch vỏ  (có thể  dùng chất kích thích ra rễ  thoa phía trên vết   khoanh), dùng bao nylon bó chỗ khoanh lại, khoảng 1­2 tuần thì tiến hành bó bầu. Vật liệu   bó bầu có thể là rễ lục bình, bột xơ dừa. Khoảng 1,5­2 tháng sau khi bó bầu sẽ  ra rễ, khi   rễ thứ cấp ra đều và chuyển sang màu vàng lợt thì cắt xuống giâm đến khi cây ra được 1   đợt đọt và bắt đầu già thì có thể đem trồng. b. Ghép mắt Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp cần thay đổi giống nhanh từ giống nhãn   có phẩm chất kém sang giống có năng suất cao và phẩm chất ngon. Từ  các gốc nhãn có 
  2. sẵn, sẽ ghép giống cần ghép vào. Trường hợp này thường áp dụng kiểu ghép chữ U hoặc   chữ H. Dùng dây PE quấn kín mối ghép, sau 2­3 tuần tháo dây ra, khoảng 5 ngày sau tiến   hành cắt ngọn gốc ghép. Hiện nay phương pháp ghép cành trên nhãn cũng được áp dụng   rộng rãi để  nhân nhanh các giống nhãn có phẩm chất tốt, năng suất cao phổ  biến ra sản   xuất. 2. Tiêu chuẩn cây giống tốt: Thân cây thẳng, vững chắc. Chiều cao cây giống từ 80 cm trở lên (đối với cây ghép), từ 60   cm trở  lên (đối với cây chiết). Đường kính cành giống từ  1,0­1,2 cm (đo cách vết ghép   khoảng 2 cm về  phía trên đối với cây ghép), từ  0,8 cm trở  lên (đo cách mặt giá thể  bầu   ươm 10 cm đối với cây chiết). Có 2 hoặc hơn 2 cành (đối với cây ghép) và chưa phân cành  hoặc có hơn 2 cành (đối với cây chiết). Có 1­2 đợt lộc mới sinh ra sau ghép hoặc chiết. Số  lá trên thân chính hiện diện đầy đủ  từ vị  trí chiều cao cây đến ngọn. Lá đã trưởng thành,  xanh tốt và có hình dạng, kích thước đặc trưng của giống. 3. Những giống phổ biến hiện nay: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu long   (ĐBSCL) có thể  trồng một số  giống nhãn đạt năng suất cao, phẩm chất ngon như  nhãn  Xuồng cơm vàng, nhãn Super (nhóm nhãn long), nhãn Tiêu da bò (tiêu Huế) a. Giống nhãn Xuồng cơm vàng (Hình 1): Giống này có nguồn gốc và được trồng đầu tiên tại Bà Rịa­ Vũng Tàu. Đây là giống có  nhiều triển vọng. Khả  năng sinh trưởng khá. Năng suất  ổn định, cây 15­20 năm tuổi có  năng suất trung bình 100­140kg/cây/năm. Quả  trên chùm to đều, trọng lượng quả  trung  bình 16­25g. Thịt quả có màu trắng hanh vàng, dầy thịt 5,5­6,2 mm, tỷ lệ % thịt (phần ăn   được)/quả  60­70%, độ  Brix 21­24%. Cấu trúc thịt: ráo, dai, dòn. Mùi vị  ngọt, khá thơm,  dùng để ăn tươi là chính. Vỏ trái khi chín có màu vàng da bò. Giống nhãn Xuồng cơm vàng  rất thích hợp trên vùng đất cát giồng, nếu trồng trên đất khác nên trồng bằng cây tháp  dùng gốc nhãn có sẵn tại địa phương. b. Giống nhãn Super (Hình 2): Cây ra hoa tự nhiên, mùa thu hoạch chính (vụ 1) vào tháng 6­7 DL, vụ phụ (vụ 2) vào tháng  12­1 DL. Năng suất ổn định, cây 4 năm tuổi có năng suất trung bình 30 kg/cây/năm. Trọng  lượng quả trung bình 10­14g. Thịt quả có màu trắng, hanh vàng, dầy thịt 5­8 mm, tỷ lệ %   thịt/quả 65­70%, độ Brix 21­25%. Cấu trúc thịt: ráo, dòn. Mùi vị ngọt, ít thơm. Vỏ trái khi   chín có màu vàng sậm đến vàng sáng. c. Giống nhãn Tiêu da bò (Hình 3): Giống này còn được gọi là Tiêu Huế. Đây là giống được trồng phổ  biến do có khả  năng   sinh trưởng rất cao. Năng suất  ổn định, cây 8­10 năm tuổi có năng suất trung bình 120­ 180kg/cây/năm. Trọng lượng quả  trung bình 8­12g. Thịt quả  màu trắng đục, dầy thịt 5­6  mm, tỷ  lệ  % thịt/quả  60­65%, độ  Brix 20­23%. Cấu trúc thịt: khá ráo, dai. Mùi vị  ngọt  trung bình, ít thơm.
  3.               Hình 1: Giống nhãn xuồng cơm vàng             Hình 2: Giống nhãn Super    Hình 3: Giống nhãn tiêu da bò         Hình 4: Ghép nhãn xuồng cơm vàng lên giống nhãn   Long   Hình 5: Thay giống mới trên cây nhãn bằng phương pháp ghép bo  III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC A. THIẾT KẾ VƯỜN
  4. 1. Đào mương lên líp Vùng đất thấp như ở ĐBSCL cần phải đào mương lên líp nhằm xả phèn, mặn và nâng cao  tầng canh tác. Líp có chiều rộng trung bình 7­8 m, mương rộng 2­3 m, sâu 1­1,5 m (Hình   6). Vùng đất cao phải chọn nơi có nguồn nước suối hoặc nước ngầm để  tưới cho cây   nhãn vào mùa nắng. 2. Trồng cây chắn gió: Khi qui hoạch vườn nhãn nên trồng cây chắn gió để hạn chế việc rụng hoa, trái trong mùa  mưa bão. Hàng cây chắn gió được trồng dọc theo phía ngoài, thẳng góc với hướng gió   (Hình 7). 3. Khoảng cách trồng: Trồng cây trong vườn có thể theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật, hình nanh sấu hoặc theo  đường vành nón cho vườn đồi ở vùng đồi núi. Khoảng cách trồng cây thường thay đổi từ  4­8m tùy vào giống, đất đai và mô hình trồng.   Giống nhãn Tiêu da bò là giống sinh trưởng rất mạnh nên có thể trồng thưa hơn so với các   giống nhãn khác (Hình 8,9). Đối với vùng đất ở ĐBSCL có thể trồng với khoảng cách 5 x  4 m hoặc 6 x 5 m. Sau 7­10 năm, khi cây giao tán thì tỉa bớt cây  ở  giữa (bỏ 1 cây, chừa 1   cây) để tránh cạnh tranh ánh sáng. Tương tự, những vùng đất ở miền Đông Nam Bộ, miền  Trung và Duyên hải Nam Trung Bộ có thể trồng nhãn với khoảng cách trên. B. Kỹ thuật trồng và chăm sóc: 1. Thời vụ trồng: Vùng ĐBSCL, Đông Nam Bộ  và Tây Nguyên bắt đầu trồng nhãn khi mùa mưa  ổn định,   thường từ tháng 6­7 hàng năm. Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ bắt đầu trồng nhãn vào đầu mùa mưa, thường vào tháng   9 hàng năm. 2. Chuẩn bị hố và cách trồng: Miền Đông, miền Trung và Tây Nguyên: Hố trồng nhãn có kích thước 1 x 1 x 0,7 m, trộn   đều 20­40 kg phân hữu cơ hoai, 300­500 g hỗn hợp NPK 16­16­8 và 0,5­1,0 kg vôi với đất  mặt rồi gạt xuống hố. Khi trồng đặt cây xuống giữa hố, mặt bầu cây giống cần cao hơn  mặt đất vườn 20 cm, dùng dao cắt đáy bầu, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để  kéo   bao nilon lên, nén đất xung quanh bầu, cắm cọc giữ  chặt cây con, dùng rơm hay cỏ  khô   đậy kín mô, tưới nước. Đồng Bằng Sông Cửu Long: nên làm mô trên đất đã được lên líp, mô đất đấp thành hình  tròn đường kính khoảng 0,6­0,8 m, độ cao thường là 0,3­0,6 m. Đất đấp mô được trộn với   100­200 g hỗn hợp NPK 16­16­8, 0,5 ­ 1,0 kg vôi, 15­20 kg phân hữu cơ hoai và tro trấu, 10­ 20g Regent để  sát trùng. Khi trồng dùng dao cắt đáy bầu, đặt cây xuống giữa mô và mặt   bầu bằng với mặt mô, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên và lắp đất   lại nén đất xung quanh, cắm cọc giữ  chặt cây con. Sau đó dùng rơm hay cỏ  khô đậy kín   mô. Tưới nước giữ  ẩm cho cây mỗi ngày một lần nếu nắng khô, nếu có mưa thì ngưng  tưới. 3. Tủ gốc giữ ẩm: Hằng năm nên đắp thêm đất hay bùn ao vào chân mô. Vào mùa nắng cần phủ  kín xung  quanh tán cây bằng rơm, thân đậu hay cỏ khô. Phải phủ cách xa gốc nhãn 20 cm để phòng   nấm bệnh gây hại (Hình 10). 4. Làm cỏ và trồng xen Khi cây nhãn chưa khép tán cần làm sạch cỏ  xung quanh gốc theo đường kính tán cây  (Hình 11), thông thường làm 4­5 đợt/năm kết hợp mỗi lần bón phân. Có thể trồng xen một  
  5. số  loại cây khác trong vườn nhãn để  lấy ngắn nuôi dài (Hình 12). Nên trồng xen cây họ  đậu để cải tạo đất và tạo nguồn phân hữu cơ cho cây nhãn. 5. Tưới nước: Cần cung cấp nước thường xuyên trong mùa nắng khi cây còn nhỏ, nhất là trên vùng đất  pha cát rất dễ  bị  thiếu nước. Cây trưởng thành chịu đựng khô hạn khá hơn nhưng phải  cung cấp đủ nước vào các giai đoạn cần thiết trong vụ nhãn (Hình 13). Nên tưới nước cho cây từ khi bắt đầu ra hoa, trái phát triển và sau khi thu hoạch. Bắt đầu  ngưng tưới ngay khi xử lý ra hoa cho cây. Đến khi cây vừa nhú hoa thì tiến hành tưới nước   trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây thiếu nước thì có thể tưới   nhẹ cho cây. Tuy nhãn có thể chịu đựng được ngập trong thời gian ngắn nhưng cây phát triển kém, do   đó cần thoát nước kịp thời.   Hình 6: Líp trồng nhãn ở ĐBSCL             Hình 7: Hàng cây chắn gió bảo vệ vườn nhãn Hình 8,9: Khoảng cách cây là 7 m (cây được tỉa cành hàng năm nên chưa giao tán lúc 7 năm tuổi)
  6.   Hình 10: Tủ gốc giữ ẩm cho nhãn vào mùa nắng 6. Tỉa cành và tạo tán ­ Tạo tán : Khi cây còn nhỏ  cần tỉa bỏ  ngọn cây cách mặt đất khoảng 0,8­1 m và những cành dầy  đặc, cành vượt, cành đan chéo nhau, trên thân cây. Tuyển chọn lại 3­4 cành phân bố  đều  theo các hướng, cách nhau 10­20 cm. Cành thứ nhất nên cách mặt đất 50­80 cm. Sau khi trồng 12­18 tháng tiến hành tỉa bỏ những cành mọc thẳng đứng, cành hướng vào  giữa tán cây, cành bị che khuất mọc gần gốc,...nên theo định hướng tạo dáng cây có một   bộ khung cơ bản thông thoáng. ­ Tỉa cành : Việc cắt, tỉa cành cho cây thông thoáng giúp các cành trong tán cây có thể nhận được đầy  đủ ánh sáng làm cho quá trình quang hợp của cây được đầy đủ. Mức độ cắt tỉa ở cây nhãn còn tùy thuộc vào giống, tuổi cây, trạng thái sức khỏe của cây,  mùa vụ,…để có thể quyết định đốn đau hay cắt nhẹ. Sau khi thu hoạch xong cần cắt bỏ đồng loạt những đọt đã mang trái hay không mang trái  ở  vụ  trước nhằm tạo ra bộ  tán đều và đồng loạt (Hình 14). Cắt bỏ  những cành bị  sâu  bệnh, cành mọc nằm bên trong tán. 7. Bón phân Dinh dưỡng là yếu tố chính  ảnh hưởng đến sự hình thành trái (ngoại trừ  các yếu tố  như  thời tiết, nhiệt độ và lượng mưa). Bón phân hợp lý sẽ làm cho năng suất được ổn định. Thiếu phân, đặc biệt là thiếu đạm và   kali sẽ làm cho trái rụng, trái nhỏ và cơm mỏng. Việc cung cấp phân cũng giống như tưới nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến suốt vụ, đặc   biệt là sự phát triển của chùm hoa, sự ra trái và thời kỳ sinh trưởng, ra đọt ở vụ sau. Liều lượng phân bón cho nhãn cần căn cứ vào độ  lớn của cây, sản lượng quả hàng năm,  giống và độ màu mỡ của đất để bón phân. a. Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản Đối với cây 1­3 năm tuổi: sau khi trồng cây nhãn bắt đầu ra đợt đọt non thứ  2 thì bón   phân. Năm đầu tiên cây còn nhỏ  nên pha phân vào nước để  tưới, phải tưới cách gốc 20­25 cm  để tránh phân làm cháy rễ. Hàng năm bón thêm phân hữu cơ hoai mục 5­10kg/cây.
  7. Bảng 1: Khuyến cáo bón phân cho cây nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản Tuổi   cây  Liều lượng (g/cây/năm) (năm) Số   lần    bón    (lần/năm) N Urê P2O5 Super lân K2O KCl   1 4 ­ 5 100 217,4 50 303,0 100 166,7 2 3 ­ 4 200 434,8 70 424,2 150 250,0 3           4 300 652,2 100 606,1 200 333,3 b. Bón phân thời kỳ khai thác Đối với cây trên 3 năm tuổi: số lượng phân bón kể trên tăng dần từ 20­30% mỗi năm và  số lần bón được chia ra như sau: Lần 1: Sau khi thu hoạch trái 1 tuần bón: 60%N + 60%P2O5 +25% K2O.Lần 2: Trước khi  cây ra hoa 5 tuần bón: 40% P2O5 + 25% K2O.Lần 3: Đường kính quả  khoảng 1cm bón:  40%N + 25% K2O.Lần 4: Trước khi thu hoạch trái 1 tháng bón: 25% K2O. ­ Hàng năm cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục khoảng 10­20kg/gốc/ năm hoặc bón phân  tro trấu, xác thân đậu, vỏ đậu. *Chú ý: ­ Tùy tình hình sinh trưởng, năng suất nhãn của vụ  trước mà gia giảm lượng phân bón   NPK cho vụ nhãn kế tiếp. ­ Trước khi cây ra hoa, nếu bón phân không hợp lý (nhiều đạm) thì rất dễ dẩn đến cây ra  đọt quá mạnh,  ức chế  quá trình phân hóa mầm hoa. Do đó trong giai đoạn này cần phải  giảm bớt đạm, gia tăng hàm lượng lân và kali để lá sớm thuần thục và trổ hoa sớm. c. Phương pháp bón phân ­ Vùng ĐBSCL: Cuốc rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, sâu 10­20 cm cho phân   vào lấp đất lại tưới nước. ­ Vùng Đông Nam Bộ, miền Trung và Duyên Hải Nam Trung Bộ: Đào rãnh xung quanh tán  cây rộng 20­30 cm, sâu 10­20 cm. Lượng phân bón được cho vào rãnh sau đó lấp đất lại và   tưới nước. d. Phun phân bón qua lá: Để bổ sung dinh dưỡng kịp thời cho cây, có thể dùng hình thức phun phân bón qua lá. ­ Sau khi thu hoạch, cắt tỉa cành xong, có thể  phun một số  loại phân bón qua lá có hàm  lượng đạm cao như  N­P­K: 30­10­10, 40­4­4, 33­11­11,...nhằm giúp cho bộ  lá mới ra đều  
  8. và khỏe mạnh. ­ Sau khi khoanh vỏ khoảng 4­7 ngày, để  thúc đẩy lá mau thuần thục và sớm trổ, có thể  dùng một trong các loại phân bón qua lá như Bloom Plus (Schultz) N­P­K:10­60­10 (20gr/10   lít nước) hoặc MKP 0­52­34 (50gr/10 lít nước). Không nên xịt các loại phân bón qua lá có  hàm lượng đạm cao vào lúc này vì có thể dẩn đến sự xuất hiện lá non mới, cây tiếp tục ra   lá, không ra hoa hoặc hoa ra không đều, dễ hình thành bông lá (trên chùm hoa có mang lá)   và những lá non mới này sẽ cạnh tranh dinh dưỡng với hoa, trái non. ­ Trong giai đoạn từ  khi trái non cho đến trước lúc thu hoạch, để  bổ  sung thêm dinh  dưỡng, có thể  sử  dụng các loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm và kali cao như  N­P­ K:13­10­21, 10­0­35, 25­10­17,5 . 8. Xử lý ra hoa a. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Tiêu da bò: a.1. Một số kinh nghiệm và kỹ thuật cần thiết khi xử lý ra hoa: ­ Cây nhãn Tiêu da bò 2 năm có thể cho được 3 vụ quả. Tuy nhiên, tỷ lệ ra hoa tự nhiên là  rất thấp, cho nên phải tiến hành biện pháp xử lý ra hoa. Kỹ thuật khoanh vỏ trên cây (còn  được gọi là khấc cành) để xử lý cho cây ra hoa là kỹ thuật chính yếu(Hình 15). ­ Sau khi thu hoạch quả  vụ  trước tiến hành bón phân, loại bỏ  những cành cằn cỏi, vô   hiệu. ­ Khi lá nhãn của đợt thứ  2 có màu xanh đọt chuối (thường gọi lá lá lụa, Hình 16), dùng  dao hay sứa khoanh vỏ vòng tròn quanh thân cành. Chỉ khoanh vỏ trên những cành chính và  nên để lại 1­2 cành thường được gọi là nhánh thở để có nhựa luyện nuôi cây. ­ Vết khoanh rộng khoảng 1.5­2 mm (đối với cành nhỏ), 3­5 mm (đối với cành lớn), dùng  dây nilon quấn chặt nhiều vòng vào chỗ đã khoanh. Từ lúc khoanh vỏ đến khi cây nhãn ra  hoa khoảng 20­35 ngày (tùy vào tuổi cây), thời gian này không được tưới nước cho cây.   Khi thấy chùm hoa nhãn đã nhú ra được khoảng 5 cm thì tháo bỏ dây và bắt đầu tưới nước  trở lại. a.2. Các giai đoạn phát triển trong một vụ  nhãn trên giống nhãn Tiêu da bò có thể  tóm tắt như sau ­ Tỉa cành à Khoanh cành : 60­90 ngày (2­3 cơi đọt) ­ Khoanh cành à Chuẩn bị ra hoa : 30­35 ngày. ­ Ra hoa à Đậu quả : 25­30 ngày. ­ Đậu quả à Thu hoạch : 90­105 ngày. Tổng cộng: Thời gian từ lúc khoanh vỏ đến thu hoạch trái nhãn: 5 ­ 5,5 tháng.   QUI TRÌNH XỬ LÝ RA HOA TRÊN NHÃN TIÊU DA BÒ
  9.   a.3. Một số nguyên nhân hạn chế sự thành công khi xử lý ra hoa trên cây nhãn Tiêu   da bò: ­ Giai đoạn khoanh vỏ: không ít nhà vườn tiến hành khoanh vỏ cho cây không đúng thời  điểm mà lại xử  lý quá sớm (lá non còn màu đỏ trên đọt) hoặc quá trể  (lá đã chuyển sang   màu xanh đậm) nên tỷ  lệ  thành công thấp. Tiến hành xử  lý ra hoa cho cây quá sớm ngay   cơi đọt thứ nhất, lúc này cây chưa hồi phục kịp sau giai đoạn mang trái ở vụ trước, cây có   bộ  lá không khoẻ, lá nhỏ  dẩn đến sự  hình thành bông yếu, trái nhỏ. Nhưng nếu đợi đến  cơi đọt thứ 3, 4 mới khoanh vỏ thì càng khó xử lý cho cây ra hoa đồng loạt vì càng về sau   thì cây ra đọt càng không tập trung, đọt không đều. ­ Chiều rộng của vết khoanh : đã có nhiều trường hợp chết cành hoặc chết cả cây xảy   ra là do khi khoanh vỏ cho cây ra hoa không ít nhà vườn đã tạo ra một vết khoanh quá lớn.  Hoặc như trường hợp khi cây chưa kịp ra hoa thì hai dấu vết khoanh đã liền nhau do chiều   rộng của vết khoanh quá nhỏ. ­ Vị trí khoanh vỏ: khoanh vỏ ở gốc thân chính hay trên cành cấp 1 nhưng lại không chừa   "nhánh thở" cho cây hoặc để  lại những cành quá nhỏ, những cành phía dưới, cành nằm  bên trong tán cây dẫn đến trường hợp cây chết trước khi ra hoa. ­ Bón phân không hợp lý: bón hoặc phun các loại phân bón qua lá quá nhiều đạm trong  giai đoạn xử lý ra hoa cho cây dẫn đến cây dễ ra lá hoặc hình thành bông lá. ­ Tưới nước: trong giai đoạn xử  lý cho cây ra hoa mà lại tưới nước quá nhiều hoặc do   điều kiện thời tiết như mưa nhiều, mưa liên tục thì cây lại tiếp tục ra lá. ­ Cắt tỉa cành: cắt tỉa cành nhiều quá sẽ  làm cho cây đâm nhiều chồi, hình thành nhiều   chùm hoa, năng suất cao trong vụ này nhưng lại giảm ra hoa trong vụ tới. ­ Phòng trừ  sâu bệnh: không phòng trừ  sâu bệnh kịp thời điển hình như  sâu đục gân lá   nên lá non trên đọt bị biến dạng, gân lá bị cháy đen, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng,  hình thành đọt mới.
  10. b. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng Nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng mỗi năm cho một vụ  quả. Khi thu hoạch   xong cần tỉa cành đồng loạt. Bón phân đầy đủ theo khuyến cáo. Nên phun thuốc ngừa sâu  phá hại lá đồng thời kết hợp phun một số loại phân bón lá có hàm lượng đạm cao như N­ P­K (30­10­10) với liều lượng 10g/8­10 lít nước để nuôi bộ lá cho tốt. Bắt đầu ngưng tưới  nước khi lá của đợt đọt thứ 2 trở nên già và bắt đầu cho đợt đọt thứ  3. Đến khi cây vừa   nhú hoa có thể tưới nước trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây   thiếu nước có thể tiến hành tưới nhẹ cho cây. c. Xử lý ra hoa trên cây nhãn Long, nhãn Super: Cây nhãn long hay nhãn super một năm có thể thu hoạch 2 vụ trái: vụ thuận, vụ nghịch. ­ Vụ  thuận: Khoảng giữa đến cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1 tiến hành bón phân, tỉa  cành, sửa tán cây. Thông thường tỉa đọt (đã thu quả) chỉ để  lại 3 đôi lá kép ở  cành mang   quả. Có thể phun thêm các loại phân bón lá có công thức đạm cao như N­P­K (30­10­10).   Khi lá đọt thứ 2 từ màu đỏ chuyển sang xanh nhạt là thời điểm phát hoa xuất hiện nên tiến  hành tưới nước trở lại . ­ Vụ  nghịch: Sau khi thu hoạch nhãn vụ  thuận khoảng tháng 6­7 dương lịch thì nhanh  chóng tỉa cành và tiến hành bón phân điều khiển cho cây ra một đợt đọt non trong thời gian   nhất định. Để giúp cho cây ra hoa đồng loạt có thể phun bổ sung thêm các loại phân bón lá  có tỉ  lệ  NPK như  sau: 0­52­34; 10­60­10; 6­30­30. Sau khi chùm hoa xuất hiện cũng tiến   hành chăm sóc như trên. 9. Tăng đậu quả, hạn chế rụng quả non a. Tăng đậu quả : Dùng Progibb (GA3) liều lượng 0,1g/10 lít nước hoặc H3BO3 1,0g/10 lít nước, phun vào  các thời điểm trước khi cây nở hoa, 30% hoa nở và cây vừa đậu quả sẽ làm tăng tỷ lệ đậu   quả. b. Khắc phục hiện tượng rụng trái non: vườn phải trồng cây chắn gió, tưới nước, bón phân đầy đủ, phòng trừ  sâu bệnh và phun  các chế phẩm chống rụng quả non như: CRT, Thiên Nông,... từ khi trái có đường kính 0,3   ­ 0,5 cm. 10. Tỉa trái trên chùm: Việc tỉa trái giúp gia tăng kích thước, trái to, giảm hiện tượng ra trái cách năm, chùm trái   sẽ có trái đồng đều về độ lớn. Tiến hành tỉa trái sau khi kết thúc thời kỳ rụng trái sinh lý,   lúc này trái non đang  ở  vào giai đoạn khoảng 4­6 tuần sau khi đậu trái, kích thước trái  khoảng bằng hạt đậu nành. Tỉa những trái bị  sâu bệnh, trái dị  hình, trái  ở  đầu ngọn của  chùm. 11. Bao quả Biện pháp đơn giản là dùng lưới, túi chuyên dùng để  bao quả  hoặc túi nhựa PE có đục   những lỗ nhỏ sao cho nước không đọng ở  đáy túi trong quá trình bao quả. Thời điểm bao   tốt nhất là trái có đường kính 1cm. Chú ý phòng trừ sâu bệnh trước khi bao quả.  
  11. Hình 11: Làm cỏ xung quanh gốc nhãn Hình 12: Trồng xen đu đủ trong vườn nhãn   Hình 13: Tưới nước cho nhãn bằng hệ thống tưới phun dưới tán cây Hình 14: Cắt đọt cành  sau khi thu hoạch Hình 15: Khoanh vỏ trên thân cành trên cây                         Hình 16: Giai đoạn lá lụa trên câynhãn Tiêu da bò  IV. PHÒNG TRỊ SÂU BỆNH CHÍNH A. sâu hại 1. Sâu đục gân lá (Acrocercops hierocosma Meyr) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng màu xám nâu, kích thước sải cánh khoảng 4 mm,   cánh trước dài và hẹp, trên cánh có những vân màu trắng bạc, cánh sau hình dùi có nhiều  lông tơ mịn dài.
  12. ấu trùng dài khoảng 5mm có màu xanh nhạt. Sâu chui ra khỏi gân lá để hoá nhộng, nhộng   dài khoảng 5 mm được che phủ bên ngoài bằng một màng mỏng đính trên mặt lá nhãn. Sâu gây hại trên nhãn, vải. Hiện nay loài này ngày càng gây hại quan trọng trên nhãn ở các   tỉnh ĐBSCL. Bướm cái thường đẻ trứng trên các cành, lá nhãn non. Sâu nở ra ăn phá bằng  cách đục vào gân chính của lá, làm đứt nghẻn mạch nhựa của lá, lá không phát triển được  hoặc bị  méo mó. Triệu chứng lá bị  cháy khô đầu trông rất giống lá bị  bệnh. Khi các đợt   lộc bị  gây hại nặng  ảnh hưởng đến sự  phát triển bộ  lá, làm giảm khả  năng ra hoa hoặc  trái bị rụng.(Hình 17 và 18). Phòng trị: Tỉa cành để các đợt ra lộc tập trung dễ kiểm soát. Phun thuốc trong giai đoạn cây ra đọt non bằng các loại thuốc như: Fenbis, Sagomycin,   Cymbus, Applaud hoặc các loại thuốc gốc cúc tổng hợp khác. Hình 17: Triệu chứng sâu đục gân lá nhãn        Hình 18: Sâu và nhộng sâu đục gân lá nhãn 2. Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis (Guenée)) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại bướm có chiều dài sãi cánh 20 – 23mm,   toàn thân màu vàng, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu đen. Trứng có hình elip dài khoảng  2­ 2,5mm, trứng lúc mới đẻ có màu trắng sữa, khi sắp nở có màu vàng nhạt.(Hình 19). ấu trùng mới nở có màu trắng sữa, đầu màu nâu, về sau chuyển thành màu trắng hơi ửng   hồng, trên lưng mỗi đốt cơ thể có 4 chấm màu nâu nhạt, trên các đốm có mang 1 sợi lông   cứng nhỏ. ấu trùng trải qua 5 tuổi, ấu trùng phát triển đầy đủ dài 17 – 20 mm. Nhộng dài khoảng 12 ­ 13 mm nằm trong một cái kén bằng tơ, ban đầu có màu nâu nhạt   khi sắp vũ hóa có màu nâu đậm và có thể thấy rõ các chấm đen trên cánh. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp  ở nơi tối hoặc mặt dưới lá cây  ký chủ. Cả thành trùng đực và cái đều ăn mật hoa. Trưởng thành cái đẻ trứng trên trái, đặc   biệt là nơi tiếp giáp giữa các trái. Sâu có thể  gây hại từ  khi trái còn nhỏ  đến sắp thu   hoạch, nặng nhất là khi trái bắt đầu có cơm. Trái non bị sâu đục thường biến dạng, khô và   rụng, trái lớn nếu bị hại sẽ  ảnh hưởng đến phẩm chất. Sâu thường hóa nhộng ở nơi tiếp  giáp giữa các trái hoặc trên bề mặt trái. Trong tự nhiên nhộng thường bị ký sinh bởi 2 loài   ong Brachymeria lasus (Walker) và Brachymeria nosatoi Habu. Phòng trị: Vệ sinh vườn bằng cách thu gom những trái bị nhiễm đem tiêu hủy. Cắt tỉa cành sau khi thu hoạch cho vườn thông thoáng. Dùng bẫy đèn với ánh sáng đen (Black light) để bẩy trưởng thành. Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại. Phun thuốc nếu có 1% số  trái trong vườn bị  tấn công, có thể  dùng các loại thuốc như  Vovinam, Fenbis, Karate, Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush. Chú ý thời gian cách ly của   mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng.
  13.   Hình 19: Thành trùng sâu đục trái Conogethes punctiferalis  3. Bọ xít (Tessaratoma papillosa (Drury)) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng có màu nâu nhạt, cơ thể to, chiều dài thân khoảng 25­30 mm có dạng hình 5   cạnh, cánh trước có dạng cánh nửa cứng. Trứng dạng hình cầu, kích thước khoảng 2mm,   màu nâu nhạt, được đẻ  thành từng  ổ  xếp cạnh nhau trên mặt lá.  ấu trùng cũng có dạng  như thành trùng tuy nhiên cánh chưa phát triển hoàn chỉnh, kích thước nhỏ hơn và có màu   vàng nâu, khả năng di chuyển kém linh hoạt hơn thành trùng.(Hình 20 và 21). Bọ xít là đối tượng gây hại nguy hiểm trên nhãn vùng ĐBSCL, gây hại chủ  yếu vào giai  đoạn cây ra đọt non, rụng hoa, rụng trái, chết các cành của phát hoa  ảnh hưởng rất lớn   đến năng suất và sinh trưởng của cây. Phòng trị: Tỉa cành để các đợt hoa và đọt non ra tập trung. Dùng vợt bắt trưởng thành vào sáng sớm. Trong tự nhiên có các loài thiên địch như kiến vàng, ong ký sinh có thể tấn công trứng bọ  xít, do vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho thiên địch tự  nhiên phát triển nhằm hạn chế  bớt sự  gây hại của bọ  xít. Phun thuốc khi thấy mật số  bọ  xít cao, có thể  dùng cá loại  thuốc như Vovinam, Secsaigon, Confidor, Fastac, Sherpa...    Hình 20: Thành trùng bọ xít Tessaratoma papillosa Hình 21: Bọ xít chích hút trên chùm nhãn  4. Rệp sáp (Pseudococus sp.) (Aleurodicus dispersus) (Nipaecoccus sp.) Hình thái và cách gây hại: Rệp sáp gồm rất nhiều loài gây hại trên nhãn. Khả năng sinh sản của rệp sáp rất cao, con   cái có thể đẻ trứng hoặc đẻ trực tiếp ra con. ấu trùng tuổi nhỏ  ít có khả  năng di chuyển, chúng thường kết hợp với các loại kiến để 
  14. phân tán sang nơi khác. Rệp sáp có thể gây hại trên các bộ phận của cây như cành, lá, hoa  trái. Cả   ấu trùng và trưởng thành đều chích hút nhựa cây, trong quá trình gây hại chúng   thải ra mật thu hút nấm bồ hóng đến phát triển, sự phát triển của nấm bồ hóng trên tán lá  làm giảm khả  năng quang hợp của cây, trên trái làm giảm giá trị  thương phẩm. Ngoài ra   vết thương do rệp gây ra giúp các loại nấm bệnh khác dễ dàng xâm nhập vào cây.(Hình 22   và 23). Phòng trị: Phun nước vào tán cây để rửa trôi rệp. Nên tỉa bỏ những trái bị nhiễm ở giai đoạn đầu để tránh sự nhân mật số rệp sáp. Tìm diệt các loại kiến có hại để hạn chế sự lây lan. Hạn chế trồng xen với những cây dễ nhiễm rệp sáp như đu đủ, mãng cầu,... Phun thuốc khi thấy mật số  cao bằng các loại thuốc như: Pyrinex, Fenbis, Supracide,  Pyrinex, Admire, D­C tron plus...Khi phun có thể  kết hợp các loại chất bám dính để  tăng   hiệu quả của thuốc. 5. Sâu Đục Trái (Acrocercops cramerella Snellen) Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại ngài nhỏ có chiều dài sãi cánh 12 mm, toàn thân màu nâu nhạt, râu   và chân rất dài, cánh trước có hình lá liễu thon dài có những vân trắng, cánh sau hình dùi  rìa, cánh mang nhiều lông tơ. Thời gian sống của trưởng thành khoảng 7 ngày. Thành trùng cái đẻ  từng trứng trên cuống trái, trứng có hình bầu dục dẹp kích thước 0,5  mm, thời gian trứng 6 ­ 7 ngày.  ấu trùng có 4 ­ 6 tuổi, khi mới nở  ấu trùng có màu trắng  sữa, đầu màu vàng và không chân, khi phát triển đầy đủ   ấu trùng chuyển sang màu vàng   nhạt kích thước 12 mm, giai đoạn ấu trùng kéo dài 14 ­ 18 ngày. Sâu thường hóa nhộng ở  kẻ trái, nơi tiếp giáp giữa các trái hoặc trên lá khô, thời gian nhộng khoảng 6 ­ 8 ngày. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp dưới lá hoặc cành cây. Trưởng  thành đẻ trứng trên cuống trái, ấu trùng sau khi nở đục vào phần cuống trái làm cho trái bị  rụng, đôi khi vào giai đoạn trái còn rất nhỏ.(Hình 24). Sâu đục trái Acrocercops cramerella không gây thiệt hại nhiều đến năng suất trái so với  sâu đục trái Conogethes punctiferalis, tuy nhiên theo một số ghi nhận gần đây cho biết, loài  sâu hại này đang có chiều hướng gia tăng trên nhãn. Thiệt hại do loài này gây ra thông  thường khoảng 10 ­ 15%. Điều đáng chú ý là loài này rất khó phát hiện nếu chỉ  quan sát  triệu chứng bên ngoài, khi điều tra trên vườn phải lột vỏ trái ra mới phát hiện được. Phòng trị Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại. Trong tự  nhiên trứng sâu đục trái Acrocercops cramerella bị  ký sinh bởi ong ký sinh họ  Trichogrammatidae và kiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loài này phát triển cũng   giảm được thiệt hại do sâu gây ra.
  15. Có  thể  phun thuốc   để  phòng trị  bằng các  loại thuốc  như: Fenbis, Sago­Super,  Karate,  Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush... Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo  đảm an toàn cho nguời sử dụng.   Hình 24: Thành trùng sâu đục trái Acrocercops cramerella  B. Bệnh hại 1. Bệnh thối trái (do nấm Phytophthora sp.) Hình 25: Triệu chứng bệnh thối trái nhãn Triệu chứng: Bệnh này thường xuất hiện và gây hại nặng trên trái nhãn lúc nhãn sắp già,  chín và đặc biệt là trong mùa mưa, nơi có  ẩm độ  cao thì bệnh phát triển và lây lan rất  nhanh chóng. Do nấm Phytophthora thường lưu tồn trong đất nên các chùm trái gần mặt   đất thường dễ bị nhiễm bệnh hơn trong mùa mưa từ đây sẽ là nguồn lây lan cho các chùm   trái phía trên và lây lan sang cây khác trong cả vườn. Trái bị bệnh thường bị thối nâu, lan dần từ vùng cuống trái trở xuống, làm trái nứt ra, thịt   trái bị  thối nhũn, chảy nước có mùi hôi chua và có thể  thấy tơ  nấm trắng phát triển trên   vết bệnh.(Hình 25). Phòng trị: Để phòng trị bệnh này nên tỉa bỏ các cành gần mặt đất vì khi trái gần chín sẽ dễ  nhiễm bệnh từ đất trong mùa mưa. Cần lưu ý cắt bỏ và thu gom các trái bị bệnh rơi rụng trong vườn đem tiêu hủy. Phun các   loại thuốc như Alpine, Mexyl, Ridomil Gold, Aliette, hoặc các loại thuốc có gốc đồng theo   liều lượng khuyến cáo. 2. Bệnh phấn trắng (do nấm Oidium sp.) Hình 26: Triệu chứng bệnh phấn trắng
  16. Triệu chứng: Hoa bị xoắn vặn, khô cháy. trái non bị nhiễm bệnh sẽ nhỏ, có màu nâu. Vỏ  trái bị đóng phấn trắng nhất là ở vùng gần cuống. Trái lớn hơn nếu nhiễm bệnh thường bị  thối nâu từ  cuống trái sau đó chuyển sang màu nâu đen và lan dần đến nguyên trái.(Hình   26). Phòng trị: Vườn thoáng, ánh sáng xuyên qua được tán lá sẽ  hạn chế  sự  phát triển của   bệnh. Phòng trị  bệnh bằng cách phun các loại thuốc hóa học như   ư  Thio –M 500SC, Bendazol   50WP, Topsin M, Nustar, ... nồng độ theo khuyến cáo. Để phòng ngừa bệnh và phòng trị có   hiệu quả có thể  phun thuốc vào giai đoạn trước khi trổ hoa và ngay khi hoa vừa đậu trái   non. 3. Bệnh đốm bồ hóng (do nấm Meliola sp.) Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ  yếu  ở  mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền   không đều, kích thước 1­3mm, đen ( màu càng sậm khi đốm bệnh càng to ). Bề mặt đốm   bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Mặt dưới lá có thể có nhiều đốm nhưng các đốm này thường rời nhau. Cạo lớp bồ hóng đi bên dưới thấy mô lá bị thâm đen.  Nấm bò hóng thường phát triển nhiều trên các vườn trồng quá dầy, tàn lá che rợp nhau và  ẩm độ khộng khí cao.(Hình 27). Hình 27: Triệu chứng bệnh đốm bồ hóng  Phòng trị: Không nên trồng dầy, tỉa bớt cành vô hiệu khi tạo tán sau thu hoạch giúp cây  thoáng.. Có thể sử dụng các loại thuốc gốc đồng để  phòng trị bệnh như: Carbenzim 500FL, Thio­ M 500SC, COC­85, Copper zinc, ...phun theo liều lượng khuyến cáo. 4. Bệnh khô cháy hoa (do nấm Phyllostica sp. hoặc Pestalotia sp.) Hình 28: Triệu chứng bệnh khô hoa Triệu chứng: Bệnh khô cháy hoa thường xuất hiện vào lúc hoa nhãn đang nở rộ, trên cánh   hoa có những vết chấm nhỏ bằng đầu kim, có màu nâu đen làm hoa bị vàng, sau đó khô và   rụng đi. Nấm thường tấn công vào lúc có nhiều sương mù hay mưa nhiều, ẩm độ  không   khí cao.(Hình 28). Phòng trị: Nên trồng thưa giúp cây thoáng, cho ánh sáng xuyên qua tán cây làm giảm độ ẩm   sẽ   hạn   chế   được   bệnh.   Phòng   trị   bằng   các   loại   thuốc   như:   Bendazol   50WP,   Score,   Carbenzim 500FL hoặc thuốc gốc đồng theo khuyến cáo vào giai đoạn trước khi hoa nở  để phòng bệnh.
  17. V. THU HOẠCH VÀ CÁCH BẢO QUẢN Ở ĐBSCL, nhãn Xuồng cơm vàng và nhóm nhãn Long nên thu hoạch khoảng tuần thứ 11,  nhãn Tiêu da bò nên thu hoạch khoảng tuần thứ  14 sau khi đậu trái. Nếu thu hoạch sớm  hơn tỷ  lệ  thịt/quả  còn ít và vị  ngọt kém, còn nếu thu hoạch trễ  hơn tuy làm cho quả  có  ngọt hơn nhưng vỏ trái có nhiều chấm đen làm mất giá trị thương phẫm. Khi thu hoạch dùng kéo cắt cả chùm quả để cho cành khỏi bị gãy, bị xước và nếu cành bị  bẻ đi quá sâu sẽ ảnh hưởng đến ra hoa vụ sau. Nhãn non thu hoạch được cắt tỉa và buộc  lại thành từng chùm cho đẹp mắt hoặc đóng gói theo yêu cầu của thị trường.  Vận chuyển và bảo quản  ở  điều kiện nhiệt độ  5­8oC,  ẩm độ  môi trường không khí 90­ 95% sẽ giữ được màu sắc và độ tươi của quả nhãn. Dùng bao nilon PE (Poly ethylene)   có 15­25 lỗ nhỏ/dm2 để bảo quản nhãn sẽ hạn chế được cường độ hô hấp của quả tươi  và bảo quản quả nhãn kéo dài hơn 2 ngày so với cách bảo quản thông thường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0