intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan: Các hệ thống vector adenovirus trong nghiên cứu liệu pháp gen

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

71
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này thảo luận về những ưu điểm và hạn chế của vector adenovirus để phát triển các hệ vector ưu việt hơn cho những nghiên cứu về gen trị liệu trong tương lai. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan: Các hệ thống vector adenovirus trong nghiên cứu liệu pháp gen

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br /> <br /> TỔNG QUAN: CÁC HỆ THỐNG VECTOR ADENOVIRUS<br /> TRONG NGHIÊN CỨU LIỆU PHÁP GEN<br /> Hoàng Quốc Trường*; Hồ Anh Sơn**<br /> Dương Thuận Thiên***; Nguyễn Lĩnh Toàn**<br /> TÓM TẮT<br /> Adenovirus vector được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về liệu pháp gen, vắc xin<br /> virut tái tổ hợp và trong nghiên cứu cơ bản. Adenovirus vector được sử dụng để chuyển trở các<br /> gen trị liệu vào tế bào (TB) bệnh để phục hồi chức năng bị mất của một số gen, tăng cường hệ<br /> thống miễn dịch của vật chủ, hoặc làm tăng tính nhạy cảm của TB ung thư với thuốc hóa trị<br /> liệu. Một số hệ thống vector adenovirus đã được nghiên cứu phát triển, bao gồm: thế hệ vector<br /> đầu tiên là những vector được xóa bỏ các gen E1a và E1b, thế hệ vector thứ hai là những<br /> vector được xóa bỏ vùng gen E1 và các gen khác của virut, helper-dependent adenovirus<br /> vector được thiết kế xóa bỏ tất cả các trình tự mang mã hóa cho protein của virut. Thế hệ<br /> vector thứ nhất và thứ hai thiết kế và sản xuất tương đối dễ dàng. Thế hệ vector thứ ba ưu việt<br /> hơn cả so với bất kỳ hệ thống adenovirus nào khác do hiệu suất biểu hiện và thời gian biểu<br /> hiện lâu dài của gen chuyển đạt được trong nghiên cứu in vivo. Bài tổng quan này thảo luận<br /> những ưu điểm và hạn chế của vector adenovirus để phát triển các hệ vector ưu việt hơn cho<br /> những nghiên cứu về gen trị liệu trong tương lai.<br /> * Từ khóa: Adenovirus; Liệu pháp gen; Vector.<br /> <br /> REVIEW: ADENOVIRAL VECTOR SYSTEMS FOR GENE THERAPY<br /> summary<br /> Adenoviral (Ad) vectors are widely used in gene therapies, recombinant viral vaccine, and<br /> basic science studies. The vectors can deliver therapeutic genes into cells to recover lost<br /> function of some genes, to enhance the ability of host immune systems, or to increase the<br /> sensitivity of cancer cells to chemotherapeutic drugs. Several adenoviral vector systems have<br /> been developed: first-generation vectors are those with deletion of the E1a and E1b genes,<br /> second-generation vectors with deletions of the E1 and another viral gene, and helperdependent adenovirus vectors removed all coding sequences for viral proteins. The first- and<br /> second-generation vectors are relatively easy to construct and produce. The helper-dependent<br /> adenovirus vectors are substantially superior to any other adenoviral systems for achieving<br /> high-level and longterm expression in vivo. This review focuses on the advantages and<br /> limitations of adenovirus vectors and discusses potential strategies for further improvement of<br /> vectors for gene therapy.<br /> * Key words: Adenovirus; Gene therapies; Vectors.<br /> * Bệnh viện TWQ§ 108<br /> ** Học viện Quân y<br /> *** Bệnh viện Quân y 103<br /> Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Quốc Trường (hqtruong2002@yahoo.com)<br /> Ngày nhận bài: 16/01/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 04/04/2014<br /> Ngày bài báo được đăng: 07/04/2014<br /> <br /> 1<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br /> <br /> ®Æt vÊn ®Ò<br /> Adenovirus được Rowe và CS phát<br /> hiện từ 1/2 thế kỷ trước qua các thí<br /> nghiệm nuôi cấy virut phân lập từ vùng<br /> vòm họng [1]. Mặc dù adenovirus gây các<br /> bệnh về đường hô hấp, mắt và đường<br /> tiêu hóa, nhưng virut này đã được tập<br /> trung nghiên cứu trong nhiều năm như<br /> một mô hình để tìm hiểu các cơ chế sinh<br /> học của TB có nhân bậc cao, bao gồm: quá<br /> trình phiên mã, xử lý ARN, khuếch đại<br /> ADN, dịch mã và cơ chế bệnh sinh ung<br /> thư. Adenovirus thuộc họ adenoviridae với<br /> 51 kiểu huyết thanh, được chia thành sáu<br /> nhóm (từ A - F) dựa trên trình tự tương<br /> đồng và khả năng ngưng kết TB hồng cầu<br /> người [2]. Hệ gen của adenovirus là chuỗi<br /> đôi có kích thước 36 Kb. Ở hai đầu tận<br /> cùng của hệ gen là hai trình tự lặp tận<br /> cùng đảo ngược (ITR - inverted terminal<br /> repeat) với kích thước từ 100 - 400 bp,<br /> liên kết với protein kết thúc (TP - terminal<br /> protein) bằng liên kết hóa trị. Về hình thái,<br /> adenovirus có vỏ và protein cấu trúc bao<br /> bọc hệ gen của virut với cấu trúc hình<br /> khối 20 mặt. Trên cấu trúc tiếp giáp giữa<br /> hai mặt của vỏ có cấu trúc penton base<br /> giữ vai trò neo giữ protein sợi (fibre<br /> protein) và làm cho virut bám dính với bề<br /> mặt của TB. Mỗi mặt của vỏ virut bao<br /> gồm 03 protein hexon và các protein pIIIa,<br /> pVI, pVIII và pIX (hình 1). Protein VII, có<br /> trình tự peptide nhỏ được gọi là mu [3],<br /> liên kết chặt chẽ với ADN virut, trong khi<br /> protein V được đóng gói với phức hợp<br /> ADN-protein cung cấp liên kết cấu trúc<br /> với vỏ qua protein VI [4]. Các thành viên<br /> của họ adenovirus có khả năng lây nhiễm<br /> TB sau phân bào, thậm chí cả mô biệt<br /> hóa cao như cơ vân, phổi, não và tim. Với<br /> khả năng vận chuyển hệ gen tới nhân và<br /> hiệu quả khuếch đại cao, adenovirus là<br /> <br /> ứng viên số một để biểu hiện và chuyên<br /> chở các gen trị liệu đến TB đích với phạm<br /> vi rộng.<br /> <br /> Hình 1: Cấu trúc của adenovirus: A) Cấu<br /> trúc mô phỏng của adenovirus dựa trên<br /> sự hiểu biết về thành phần polypeptide và<br /> ADN. B) Ảnh chụp kính hiển vi điện tử<br /> của adenovirus [3].<br /> Chu kú nh©n lªn cña<br /> adenovirus<br /> 1. Bám và xâm nhập vào bên trong TB.<br /> Trong tất cả các nhóm, loại trừ adenovirus<br /> nhóm B, hạt virut ban đầu bám vào bề<br /> mặt TB thông qua liên kết của sợi Knob<br /> với thụ thể bề mặt TB tương thích cho<br /> coxsackie B virut [5] được gọi là thụ thể<br /> coxsackie/adenovirus receptor (CAR). Đây<br /> là một protein huyết tương màng có trọng<br /> lượng phân tử 46 kDa thuộc siêu họ<br /> immunoglobulin, cấu trúc bao gồm các<br /> domain bên ngoài màng TB, xuyên màng<br /> và domain trong TB chất [6], với phần<br /> domain ngoại bào cần thiết để liên kết<br /> giữa virut với TB. CAR có chức năng như<br /> phân tử liên kết TB với TB trên bề mặt<br /> màng đáy của TB biểu mô [7]. Phân tử<br /> CD46, là protein điều hòa bổ trợ, được<br /> biết đến như một thụ thể TB cho adenovirus<br /> nhóm B [8]. Sau khi bám dính với bề mặt<br /> TB (hình 2), bộc lộ mô típ RGD trên penton<br /> tương tác với họ protein αν integrin cho<br /> <br /> 2<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br /> <br /> phép virut vào bên trong TB theo cơ chế<br /> phụ thuộc clathrin, thụ cảm thể qua trung<br /> gian nhập bào [8]. Integrins hình thành họ<br /> lớn thụ cảm thể dimer dị hợp như integrin<br /> ανβ3 và ανβ5, cả hai hỗ trợ cho adenovirus<br /> xâm nhập vào bên trong TB, ανβ5 biểu<br /> hiện ở TB biểu mô cuống phổi người, là vị<br /> trí chính của quá trình lây nhiễm adenovirus<br /> in vivo [9]. Tương tác giữa virut với màng<br /> TB cảm ứng một loạt đường truyền tín hiệu<br /> như hoạt hóa con đường phosphoinositide3-OH kinase (PI-3k), kích hoạt họ protein<br /> Rho của GTPases và polymer hóa, tái tổ<br /> chức cấu trúc của actin thuận lợi cho quá<br /> trình nhập bào [10].<br /> <br /> Hình 2: Bám và xâm nhập TB của adenovirus:<br /> A) Tương tác giữa virut và thụ thể TB liên<br /> quan đến liên kết ái lực mạnh qua phần<br /> nhô ra của sợi fibre. Thụ thể bề mặt TB<br /> để adenovirus serotype 5 nhận biết tương<br /> tự như thụ thể nhận biết của coxsackie B<br /> virut và được đặt tên là thụ thể Coxsackie/<br /> Adenovirus receptor (CAR). Sau khi tiếp<br /> xúc TB, B) Tương tác giữa penton base<br /> và αν integrin trên bề mặt TB cho phép<br /> virut xâm nhập vào TB qua quá trình nhập<br /> bào [10].<br /> Sau 20 phút xâm nhập, con đường<br /> truyền tín hiệu Raf/mitogen hoạt hóa<br /> protein kinase (MAPK) được kích hoạt và<br /> sản xuất IL-8 [11]. Đối với Ad2 và Ad5, do<br /> pH axit của thể nội bào (endosome) cảm<br /> <br /> ứng giải phóng hạt virut (virions) vào bên<br /> trong TB chất theo cơ chế chưa được biết<br /> rõ. Trong TB chất (hình 3), protein dynein<br /> chuyên trở các hạt virions theo suốt vi<br /> ống TB (microtubeles) tới nhân, tại đây<br /> chúng tiếp xúc với phức hệ lỗ nhân<br /> (nuclear pore complex, NPC). Loại bỏ vỏ<br /> capsid tại NPC cho phép hệ gen virut xâm<br /> nhập và bắt đầu quá trình phiên mã.<br /> <br /> Hình 3: Mô phỏng vận chuyển vào trong<br /> nhân TB của Ad2: Hạt virut Ad2 tập trung<br /> trên sợi TB chất của lỗ nhân bằng cách<br /> bám với phức hợp protein CAN/Nup214.<br /> Protein histone H1 giải phóng từ nhân và<br /> bám vào protein hexon trên bề mặt gần<br /> nhất của vỏ capsid. Protein importin <br /> hình thành liên kết dimer với protein<br /> importin 7 liên kết protein H1, cảm ứng<br /> xâm nhập phức hệ H1-hexon và kích hoạt<br /> tháo bỏ vỏ capsid. ADN virut được giải<br /> phóng gần vị trí mở của lỗ nhân để<br /> chuyển vào trong nhân TB [10].<br /> 2. Gen sớm và sao chép ADN.<br /> Chu kỳ lây nhiễm của adenovirus được<br /> chia thành 2 pha: Pha “sớm” và “muộn”<br /> tương ứng trước và sau quá trình sao<br /> chép ADN virut (hình 4). Pha sớm bao<br /> <br /> 3<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br /> <br /> gồm quá trình xâm nhập của virut vào<br /> bên trong TB và vận chuyển hệ gen của<br /> virut vào trong nhân, tiếp đến là quá trình<br /> phiên mã và dịch mã lựa chọn của những<br /> gen “sớm”. Quá trình này thúc đẩy các chức<br /> năng của TB, tạo điều kiện sao chép ADN<br /> virut, dẫn đến kết quả phiên mã và dịch<br /> mã các gen “muộn”. Điều này cũng dẫn<br /> đến sự hình thành protein cấu trúc và<br /> hình thành virut hoàn chỉnh. Pha sớm kéo<br /> dài từ 6 - 8 giờ, trong khi pha muộn<br /> thường diễn ra nhanh, thời gian tạo virut<br /> từ 4 - 6 giờ sau đó. Vùng gen được phiên<br /> mã đầu tiên là E1A để tạo ra rất nhiều<br /> mARN và protein bởi quá trình xử lý<br /> mARN khác nhau. Hai vùng gen phiên mã<br /> E1A được tạo ra suốt quá trình lây nhiễm<br /> sớm là: 13S mARN mã hóa cho 289R<br /> (R là ký hiệu cho các amino axit) protein<br /> của virut Ad5 và 12S mARN mã hóa cho<br /> 234R. Những protein này tồn tại vĩnh viễn<br /> trong TB nuôi cấy, khi chúng biểu hiện và<br /> kết hợp với protein E1B, gây hình thành<br /> khối u ở động vật gặm nhấm. Trong suốt<br /> quá trình xâm nhiễm, protein E1A có<br /> chức năng tăng cường hoạt hóa mức độ<br /> phiên mã của các vùng gen khác như:<br /> E1B, E2, E3 và E4 và cảm ứng TB đi vào<br /> pha S của chu kỳ TB, tạo môi trường tối<br /> ưu cho quá trình sao chép của virut.<br /> <br /> Hình 4: Phiên mã hệ gen adenovirus.<br /> Protein E1A được biết đến qua cơ chế<br /> tham gia vào quá trình kiểm soát chu trình<br /> của TB, E1A bám trực tiếp và ức chế các<br /> thành phần tham gia kiểm soát chu kỳ<br /> của TB như cyclin-dependent kinase inhibitor<br /> p21. E1A còn tương tác với một số protein<br /> vật chủ liên quan đến sự hình thành<br /> cấu trúc chromatin như p400 và histone<br /> acetyltransferases (HATs) p300/CBP, pCAF<br /> và TRRAP/GCN5. Giảm điều hòa chu kỳ<br /> TB bởi E1A, kết quả làm tích lũy protein<br /> ức chế u p53 và biểu hiện của E1A trong<br /> suốt quá trình lây nhiễm, thúc đẩy quá<br /> trình chết theo chương trình của TB làm<br /> cho TB nhạy cảm với yếu tố hoại tử u<br /> (TNF-α) và TRAIL (TNF - related apoptosisinducing ligand) theo con đường truyền<br /> tín hiệu death receptor pathways. Sản<br /> phẩm mã hóa bởi E1B-19K có khả năng<br /> ngăn tín hiệu xúc tác cho cả hai đường<br /> truyền tín hiệu kể trên, ngăn TB chết theo<br /> chương trình. Trong trường hợp TNF-α<br /> xúc tác quá trình apoptosis, protein E1B19K có thể bám trực tiếp với protein tiền<br /> apoptotic như Bak và Bax để ngăn chặn<br /> ty thể xúc tác TB chết theo chương trình.<br /> Bên cạnh chức năng ức chế TB chết theo<br /> chương trình, protein E1B-55K còn có vai<br /> trò vận chuyển mARN của virut đến TB<br /> chất trong suốt pha muộn của quá trình<br /> lây nhiễm. Vùng gen E2 mã hóa cho một<br /> số protein cần thiết cho quá trình nhân lên<br /> của hệ gen virut như: ADN polymerase,<br /> protein tiền kết thúc và protein với kích<br /> thước 72 kDa bám chuỗi đơn ADN.<br /> Những protein này là bắt buộc cho cơ chế<br /> nhân lên của virut, tiếp theo là quá trình<br /> sao chép của gen muộn, toàn bộ quá<br /> trình được xúc tác qua tương tác với các<br /> yếu tố nội bào. Sản phẩm vùng gen E3<br /> của virut có thể loại bỏ cho mục đích<br /> 4<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2014<br /> <br /> nhân lên của virut trong môi trường nuôi<br /> cấy mô, với vai trò phá vỡ đáp ứng miễn<br /> dịch của vật chủ. Hệ thống miễn dịch phát<br /> triển cơ chế tiêu diệt TB nhiễm virut, bao<br /> gồm ly giải TB bởi TB lympho T gây độc<br /> và hoạt hóa thụ thể xúc tác con đường<br /> chết bào bởi chemokines. Protein E3gp19k hoạt động theo 2 cách để ngăn<br /> chặn trình diện của kháng nguyên virut<br /> bởi phức hợp hòa hợp mô tổ chức lớp I<br /> (MHC class I), sau đó là ly giải TB bởi TB<br /> T gây độc (cytotoxic T cells). E3-gp19k<br /> lần đầu được phát hiện do khả năng ngăn<br /> chặn quá trình chuyển vị của phân tử<br /> MHC lớp I tới bề mặt của TB bằng cách<br /> cô lập chúng trong mạng lưới nội chất.<br /> Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy E3gp19k liên kết với TAP (transporter associated<br /> with antigen processing), là protein chịu<br /> trách nhiệm vận chuyển kháng nguyên<br /> TB chất trong lòng ống, đây là protein ảnh<br /> hưởng trực tiếp đến tải lượng của peptide<br /> trên phức hệ hòa hợp mô tổ chức lớp I<br /> (MHC class I molecules). Các protein E310.4K, 14.5K và 14.7K có chức năng ức<br /> chế cảm ứng chết bào bởi chemokines<br /> TNF-α Fas ligand (FasL) và TRAIL.<br /> Vùng gen sao chép E4 mã hóa protein<br /> (ký hiệu orfs 1-6/7), là các protein giữ vai<br /> trò điều khiển chu trình TB và chuyển<br /> dạng. Protein E4orf1 của Ad9 được<br /> chứng minh có khả năng cảm ứng hình<br /> thành ung thư vú phụ thuộc estrogens trên<br /> chuột. Ở Ad2 và Ad5, E4orf3 và E4orf6<br /> có hoạt tính rất đa dạng, cả hai protein<br /> này đều làm tăng chức năng của gen E1<br /> gây chuyển dạng TB động vật gặm nhấm,<br /> làm tăng mức độ biểu hiện của gen muộn<br /> virut và ức chế hệ gen hình thành<br /> concatemerization bởi enzym đọc sửa<br /> ADN nội bào. Trong trường hợp protein<br /> E4orf6, làm tăng chuyển dạng của TB do<br /> <br /> protein này ngăn chặn protein p53 xúc tác<br /> trans-activation bằng cách ức chế liên kết<br /> các yếu tố phiên mã nội bào p53. Với<br /> nhiều chức năng sinh học đã được liệt kê,<br /> protein E4orf3 xúc tác cho hình thành cấu<br /> trúc nhân được gọi là PML oncogenic<br /> domains. Mặc dù chức năng của những<br /> domain này chưa được biết rõ, nhưng các<br /> số liệu nghiên cứu cho thấy vai trò quan<br /> trọng của chúng trong chuyển dạng TB,<br /> sao chép và chết theo chương trình ở TB<br /> lây nhiễm virut. Phần lớn sản phẩm của<br /> vùng gen E4 đều có hoạt tính kháng<br /> apoptotic, riêng protein E4orf4 tương tác<br /> với phosphatase 2A thúc đẩy quá trình<br /> chết bào không phụ thuộc p53.<br /> 3. Biểu hiện gen muộn và đóng gói<br /> virut.<br /> Promoter muộn chính (MLP, major late<br /> promoter) phiên mã cho gen muộn của<br /> adenovirus được biểu hiện từ 5 vùng gen<br /> (L1 - L5). Đơn vị sao chép muộn chính<br /> (MLTU - The major late transcription unit)<br /> mã hóa cho khoảng 15 - 20 mARN khác<br /> nhau, đều có nguồn gốc từ một tiền<br /> mARN bởi quá trình cắt lối khác nhau và<br /> polyadenylation. Những đơn vị phiên mã<br /> này ban đầu mã hóa cho protein cấu trúc<br /> của virut và protein khác tham gia vào<br /> quá trình đóng gói virut. Sự điều khiển<br /> của gen muộn mã hóa cho cấu trúc của<br /> lớp vỏ capsid đã được nghiên cứu phát<br /> hiện như một chiến lược để thay đổi định<br /> hướng của vector liệu pháp gen. Protein<br /> L1-52/55k là bắt buộc cho quá trình đóng<br /> gói của virut, trong khi protein L4-33K<br /> cũng tham gia vào quá trình lắp ráp virut,<br /> đột biến một phần hay đột biến mất đoạn<br /> gen này sẽ ảnh hưởng đến khả năng<br /> đóng gói của virut.<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2