Tổng quan lạm phát năm 2014 và triển vọng năm 2015<br />
Vài nét về tình hình lạm phát thế giới<br />
Lạm phát thế giới trong năm 2014 có sự biến động không nhất quán giữa các khu vực. So với năm<br />
2013, lạm phát năm 2014 tăng 0,3 điểm phần trăm (năm 2013 giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm<br />
2012) chủ yếu là do sự gia tăng lạm phát ở khu vực cộng đồng các quốc gia độc lập (3,1 điểm phần<br />
trăm), các nước phát triển (tăng 0,5 điểm phần trăm so với năm 2013) và khu vực các nước mới nổi và<br />
đang phát triển (tăng 0,7 điểm phần trăm so với năm 2013). Đối với phần lớn các khu vực còn lại, lạm<br />
phát đều có xu hướng giảm: ASEAN-5 giảm 0,6 điểm phần trăm, các nước đang phát triển châu Á giảm<br />
0,5 điểm phần trăm, khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) giảm 0,8 điểm phần trăm...<br />
Mặc dù nhiều nước thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc cắt giảm lãi suất và sử dụng gói<br />
hỗ trợ tài chính nhằm kích thích kinh tế nhưng do tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2014 gần như chững<br />
lại so với năm 2013, giá cả hàng hoá duy trì mức tăng thấp và liên tục thể hiện xu thế giảm đã khiến lạm<br />
phát ở phần lớn các nước tăng thấp hoặc có xu thế giảm.<br />
Năm 2015, lạm phát thế giới được dự báo có xu hướng tăng so với năm 2014 nhưng nhìn chung,<br />
vẫn duy trì ở mức tăng thấp do giá cả hàng hoá, đặc biệt là giá dầu và giá lương thực - thực phẩm giảm,<br />
tuy nhiên, điều này phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi kinh tế của Mỹ, Trung Quốc và sự ổn định chính trị<br />
tại I-rắc, U-crai-na và phản ứng của OPEC.<br />
Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, tháng 12/2014), sự sụt giảm của giá dầu và<br />
giá cả các nhóm hàng hoá sẽ khiến cho lạm phát tiếp tục giảm trong thời gian tới. Năm 2015, lạm phát<br />
của khu vực đang phát triển châu Á được dự báo ở mức 3,5%, thấp hơn 0,2 điểm % so với dự báo trước<br />
của ADB bởi giá cả hàng hoá giảm nhiều hơn mức kỳ vọng. Tuy nhiên, mức lạm phát này có thể thay đổi<br />
tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế Mỹ. Nếu kinh tế Mỹ đạt mức tăng trưởng 3% trong năm 2015 và Ngân<br />
hàng Trung ương Mỹ điều chỉnh tăng lãi suất (bình quân quý sau cao hơn quý trước 1%) từ quý II/2015,<br />
khi đó, lạm phát của các nước chuyển đổi châu Á (không kể Trung Quốc) có thể sẽ tăng 0,23% trong<br />
trường hợp không có phản ứng chính sách và giảm 0,41% trong trường hợp có phản ứng chính sách.<br />
Theo Báo cáo Triển vọng kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương của World Bank (WB, tháng<br />
10/2014), xu thế giá cả hàng hoá thế giới ổn định, nhu cầu yếu của Trung Quốc và châu Âu có thể tiếp<br />
diễn trong năm 2015, nhưng vẫn có thể xảy ra rủi ro tăng giá hàng hoá, mặc dù khả năng xuất hiện rủi ro<br />
này tương đối thấp, tuỳ thuộc vào triển vọng kinh tế Trung Quốc. Nếu các rủi ro về giá cả hàng hoá xuất<br />
hiện trong thời gian tới, sẽ gây ra các ảnh hưởng không nhỏ đến các nước trong khu vực. Theo tính toán<br />
của WB, nếu chỉ số giá hàng hoá chung và giá năng lượng tăng 10% thì cán cân tài chính và cán cân tài<br />
khoản vãng lai của các nước châu Á - Thái Bình Dương có thể giảm đến 0,35 điểm phần trăm GDP.<br />
Đối với riêng Việt Nam, nếu giá cả hàng hoá tăng 10% thì cán cân tài chính và cán cân tài khoản<br />
vãng lai của Việt Nam có thể tăng khoảng 0,3 điểm phần trăm GDP, chủ yếu là do được hưởng lợi từ<br />
việc giá năng lượng và giá lương thực - thực phẩm tăng (nếu giá năng lượng tăng 10% thì cán cân tài<br />
chính và cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam tăng từ 0,4 đến 0,7 điểm phần trăm GDP, nếu giá<br />
lương thực - thực phẩm tăng 10% thì cả hai cán cân này sẽ tăng khoảng 0,15 điểm phần trăm GDP). Tuy<br />
nhiên, nếu giá kim loại tăng 10% thì cán cân tài chính và cán cân tài khoản vãng lai có thể bị giảm 0,5<br />
điểm phần trăm GDP.<br />
Năm 2015, giá cả hàng hoá được IMF dự báo sẽ vẫn tiếp tục giảm mạnh, trong đó, giá lương thực thực phẩm giảm 7,9%, giá kim loại giảm 7,5%, giá dầu thô giảm khoảng 5%. Trong trung hạn, giá cả hàng<br />
hoá thế giới có thể sẽ phải đối mặt với các rủi ro như biến đổi thời tiết, căng thẳng ở I-rắc, U-crai-na ... nên<br />
xu thế giảm giá sẽ không được mạnh mẽ như kỳ vọng, theo đó, giai đoạn 2016 - 2019, giá dầu thô bình<br />
quân giảm 1,6%, giá nhóm hàng phi nhiên liệu giảm 0,7%, thấp hơn rất nhiều so với mức giảm tương ứng<br />
là 3,3% và 4,1% của năm 2015. Chỉ số giá tiêu dùng ở khu vực các nước phát triển sẽ ở mức 1,8% và các<br />
nước chuyển đổi - đang chuyển đổi được dự báo ở mức 5,6%<br />
Như vậy, tình hình giá cả hàng hoá thế giới năm tới tương đối khả quan, điều này sẽ hỗ trợ tốt cho<br />
ổn định thị trường giá cả và tiếp tục duy trì mức tăng lạm phát thấp trong nước.<br />
Tình hình lạm phát trong nước 2014 và dự báo 2015<br />
Trong nước, do ưu tiên hàng đầu của Chính phủ là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kết hợp với<br />
các điều kiện tích cực của kinh tế vĩ mô trong năm 2013, lạm phát năm 2014 của Việt Nam tiếp tục duy trì<br />
ở mức thấp, phù hợp với diễn biến chung của xu thế lạm phát trong khu vực. Tính chung cả năm 2014,<br />
lạm phát Việt Nam chỉ tăng 1,84% so với năm 2013, trong đó, giáo dục có mức tăng cao nhất 8,25%,<br />
riêng dịch vụ giáo dục tăng 8,96%, các nhóm hàng hoá khác đều có mức tăng khá thấp (khoảng 1 - 2%),<br />
riêng hai nhóm hàng hoá có tỷ trọng lớn trong CPI là giao thông và nhà ở - vật liệu xây dựng là giảm giá<br />
<br />
(giảm 5,57% và 1,95%).<br />
Ngoài ra, trong suốt 5 năm qua, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và giá của hầu hết các nhóm hàng trong<br />
rổ CPI đều diễn biến cùng xu hướng, chỉ riêng nhóm giáo dục - y tế là diễn biến khác với xu thế chung,<br />
do ảnh hưởng của lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế và giáo dục. Tuy nhiên, nếu xét riêng năm 2014,<br />
lạm phát đã có diễn biến khác so với quy luật thông thường, điều này cần lưu ý bởi các yếu tố mang tính<br />
bất thường thì không ổn định trong dài hạn và có thể gây nên những tín hiệu không chuẩn xác trong điều<br />
hành chính sách, đặc biệt là chính sách tiền tệ, do độ trễ của phản ứng chính sách thường cần thời gian<br />
dài để phát huy ảnh hưởng.<br />
Giá cả hàng hoá trong nước 2010 - 2014 (%)<br />
<br />
Nguồn: Tổng cục Thống kê<br />
Như vậy, lạm phát 2014 chỉ đạt khoảng 37% mức lạm phát mục tiêu do Chính phủ đặt ra. Nếu xét<br />
theo mức lạm phát bình quân, lạm phát năm 2014 tăng 4,09% so với năm 2013, đạt 80% mục tiêu. Dù<br />
xét theo chỉ tiêu nào thì đây vẫn là điều đáng mừng bởi lần đầu tiên trong 10 năm qua, lạm phát tăng<br />
thấp hơn tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân và giá trị đồng nội<br />
tệ, tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua giảm lãi suất<br />
cho vay trong thời gian tới. Bên cạnh đó, lạm phát thấp của năm 2014 đã chấm dứt xu thế “2 năm tăng, 1<br />
năm giảm” kể từ năm 2000, nếu căn cứ vào triển vọng hàng hoá trong thời gian tới, có khả năng Việt<br />
Nam sẽ bước vào thời kỳ lạm phát tăng thấp hơn tăng trưởng kinh tế.<br />
Lạm phát - tăng trưởng giai đoạn 1997 - 2014 (%)<br />
<br />
Nguồn: IFS; Số năm 2014 của Tổng cục Thống kê<br />
Tỷ trọng đóng góp của các nhóm hàng trong CPI năm 2014<br />
<br />
Nguồn: Tổng cục Thống kê<br />
Sau nhiều năm đứng trong nhóm các nước có lạm phát cao nhất thế giới, lạm phát thấp trong năm<br />
2014 đã đưa Việt Nam vào vị trí thứ 58 trong bảng xếp hạng lạm phát toàn thế giới (theo thứ tự từ thấp<br />
đến cao), đây là mức xếp hạng tích cực nhất trong vòng 13 năm qua.<br />
Lạm phát thấp trong năm 2014 do những nguyên nhân chủ yếu là:<br />
Thư nhấ t, tiêu dùng thấp và mức cải thiện chậm trong khi nguồn cung hàng hoá ổn định và có xu<br />
́<br />
thế tăng trưởng tích cực hơn . Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành năm 2014 tăng 7,6% so với năm<br />
2013, cao hơn đáng kể mức tăng 5,9% của năm 2013 nhưng tăng trưởng tổ ng mưc bán lẻ và doanh thu<br />
́<br />
dịch vụ tiêu dùng năm 2014 chỉ đạt 6,3% sau khi loại trừ yếu tố giá, mặc dù cao hơn giai đoạn 2011 - 2013<br />
nhưng vẫn thấp đáng kể so với các năm có tăng trưởng cao và lạm phát thấp.<br />
Thêm nữa, tăng trưởng cung tiền và tín dụng thấp trong năm 2013 - 2014 cũng góp phần đáng kể<br />
kiềm chế tốc độ tăng lạm phát. Tính đến ngày 22/12/2014, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán ở<br />
mức 15,99%, tăng trưởng tín dụng ở mức 12,62% so với cuối năm 2013, cao hơn không đáng kể so với<br />
mức bình quân giai đoạn 2011 - 2013 và bằng một nửa giai đoạn 2006 - 2010. Mặc dù tăng trưởng tín<br />
dụng và cung tiền năm 2014 cao hơn năm 2013 nhưng tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn nên khả<br />
năng hấp thụ vốn còn hạn chế , phần lớn các luồng tiền đều luân chuyển trong hệ thống ngân hàng , do<br />
đó không gây ra tác động tiêu cự c đáng kể n ào đố i vơi lạm phát .<br />
́<br />
Thư hai , sự ổn định của thị trường ngoại hối cùng với mức điều chỉnh tăng tỷ giá thấp 1% trong<br />
́<br />
năm 2013 - 2014, việc điều chỉnh giảm liên tục các mức lãi suất cho vay cũng góp phần kiềm chế đáng<br />
kể tốc độ tăng lạm phát.<br />
Thư ba, quán triệt Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2011 vơi nhiệm vụ quan trọng là ổ n đinh vi ̃<br />
̣<br />
́<br />
́<br />
mô, kiể m soát lạm phát nên trong năm 2014, lạm phát chủ yếu chịu sự tác động của việc điều chỉnh giá<br />
các mặt hàng cơ bản như giá dị ch vụ y tế , giáo dục, giá xăng dầu . Tuy giá các mặt hàng cơ bản này có<br />
1<br />
sự điều chỉnh nhưng nhìn chung, mức ảnh hưởng không lớn và không gây ảnh hưởng kéo dài .<br />
Thứ tư, giá cả hàng hoá thế giới có mức tăng thấp và vẫn tiếp tục xu hướng giả m. Tính bình quân<br />
11 tháng đầu năm 2014, chỉ số giá hàng hoá chung thế giới đã giảm 4,2% so vơi bình quân cùng kỳ năm<br />
́<br />
2013, trong đó lương thự c - thự c phẩ m giảm 3,75%, nguyên liệu công nghiệp giảm 5,4% (nguyên liệu thô<br />
công nghiệp giảm 2,74%, kim loại giảm 9,66%), năng lượng giảm 4,57% (giá dầu thô giảm 4,33%). Do<br />
giá cả hàng hoá thế giới giảm nên giá hàng hoá nhập khẩu cũng giảm , riêng giá xăng dầu nhập khẩu vào<br />
Việt Nam trong năm 2014 đã có 19/24 lần điều chỉnh giảm giá, mức điều chỉnh giảm giá xăng dầu ngày<br />
22/12/2014 đã khiến giá xăng và dầu diesel giảm khoảng 26%, dầu hoả giảm 22%, mazut giảm 28,2% so<br />
<br />
Trong năm 2014, tỷ giá được điều chỉnh ở mức thấp 1%, thấp hơn so với mức điều chỉnh 3 - 9% của giai đoạn<br />
2009 - 2011, bên cạnh đó, giá dịch vụ y tế trong năm 2014 mặc dù tăng nhưng đã không tính các chi phí do tiền<br />
lương, tiền lãi, tiền khấu hao tài sản và giá điện tuy có sự điều chỉnh nhưng giá bình quân không đổi...<br />
1<br />
<br />
với cuối năm 2013, đây là nguyên nhân chính khiến giá của nhóm hàng giao thông giảm mạnh trong năm<br />
2014 và góp phần gián tiếp làm giá của các nhóm hàng khác cũng giảm theo.<br />
Một số dự báo quốc tế và trong nước đều cho rằng , lạm phát Việt Nam năm 2015 sẽ tăng ở mức<br />
thấ p nhưng cao hơn đáng kể so với lạm phát năm 2014.<br />
Áp lực lạm phát trong nước do tác động của giá thế giới trong năm 2015 không lớn. Dự báo của<br />
IMF (tháng10/2014) và WB (tháng 12/2014) đều cho rằng, giá cả hàng hoá thế giới trong năm 2015 sẽ<br />
giảm so với 2014, trong đó, giá lương thực - thực phẩm sẽ giảm 4 - 5%, giá năng lượng giảm khoảng 5 10%, tuy nhiên, các rủi ro về biến đổi khí hậu và căng thẳng chính trị ở khu vực U-crai-na, I-rắc có thể<br />
làm giá lương thực - thực phẩm và giá dầu tăng.<br />
Giá cả hàng hoá của một số nước nhập khẩu chính của Việt Nam được dự báo tăng trong năm<br />
2015, theo đó, lạm phát tại Trung Quốc tăng 0,2 điểm phần trăm, Hàn Quốc tăng 0,8 điểm phần trăm Đài<br />
Loan tăng 0,6 điểm phần trăm, Nhật Bản tăng 0,4 điểm phần trăm... điều này có thể khiến giá nhập khẩu<br />
hàng hoá của Việt Nam tăng, góp phần gia tăng lạm phát trong nước nhưng không đáng kể do giá hàng<br />
hoá thế giới và lạm phát ở các nước trên đều ở mức thấp. Tuy vậy, diễn biến của giá cả hàng hoá thế<br />
giới và lạm phát trong nước không phải lúc nào cũng có cùng xu hướng, lạm phát trong nước vẫn phụ<br />
thuộc lớn vào chính sách điều hành giá của Chính phủ và các yếu tố nội tại của nền kinh tế.<br />
Một số dự báo lạm phát Việt Nam năm 2015 (%)<br />
Tổ chức<br />
Dự báo<br />
IMF (WEO, tháng 10/2014)<br />
5<br />
ADB (ADO, tháng12/2014)<br />
5,5<br />
WB (East Asia and Pacific economic update, tháng 10/2014)<br />
5<br />
6,36 (kịch bản thấp)<br />
Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia (NCSEIF, 2014)<br />
6,8 (kịch bản cao)<br />
Nguồn: Tổng hợp<br />
Ở trong nước, một số yếu tố tác động đến lạm phát 2015 như: (i) Thực hiện mục tiêu tăng trưởng<br />
năm 2015, tín dụng dự kiến sẽ tăng trưởng cao hơn so với năm 2014, đồng thời, tỷ giá tiếp tục được<br />
điều chỉnh, tuy nhiên, để đảm bảo ổn định môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, tỷ giá sẽ<br />
chỉ được điều chỉnh ở mức thấp, do đó, ảnh hưởng tới lạm phát là không lớn trong điều kiện giá cả hàng<br />
hoá thế giới được dự báo vẫn tiếp tục ở mức thấp trong năm 2015.<br />
(ii) Lạm phát phi lương thực - thực phẩm đã giảm tháng thư 6 liên tiế p . Từ giữa năm 2014 đến<br />
́<br />
nay, lạm phát cơ bản theo phương pháp sắp xếp và lạm phát phi lương thực - thực phẩm không có sự<br />
chênh lệch lơn so với mức lạm phát chung . Tính bình quân cả năm, lạm phát phi lương thực - thực phẩm<br />
́<br />
tăng 4,11%, lạm phát theo phương pháp sắp xếp tăng 3,96%, gần bằng mức lạm phát bình quân chung<br />
cả năm (4,09%). Như vậy, tính toán những yếu tố gây biến động đến mức lạm phát chung đã được loại<br />
bỏ khỏi lạm phát cơ bản, lạm phát năm 2015 có thể sẽ xoay quanh mức 5% .<br />
Lạm phát cơ bản năm 2014 (%)<br />
7<br />
<br />
8<br />
<br />
6<br />
<br />
7<br />
<br />
5<br />
<br />
6<br />
5<br />
<br />
4<br />
<br />
4<br />
<br />
3<br />
<br />
3<br />
2<br />
1<br />
<br />
Phi lương thực - thực phẩm<br />
<br />
2<br />
<br />
Phương pháp sắp xếp<br />
<br />
1<br />
<br />
CPI<br />
<br />
0<br />
<br />
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán<br />
2<br />
(iii) Sự gia tăng tổng cầu do các yếu tố: (1) Sự hồi phục tích cực hơn của tăng trương kinh tế thế<br />
̉<br />
2<br />
<br />
Dự báo của IMF 910/2014), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2015 sẽ tăng 0,5 điểm phần trăm so với năm 2014.<br />
<br />
giới trong năm 2015 sẽ hỗ trợ tốt cho sự phục hồi sản xuất trong nước và gia tăng xuất khẩu phục vụ nhu<br />
cầu thế giới; (2) Việc ký kết các hiệp định thương mại trong năm 2015 sẽ mở ra nhiều tiềm năng và cơ<br />
hội cho xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu nông thuỷ sản, điều này có thể gây tăng giá nông<br />
thuỷ sản trong nước; (3) Đầu tư tư nhân gia tăng do Chính phủ tiếp tục sử dụng các gói hỗ trợ tài chính<br />
nhằm thúc đẩy sản xuất và các nhà đầu tư muốn tranh thủ các cơ hội do lợi thế của việc ký kết các hiệp<br />
định thương mại mang lại; (4) Tiêu dùng tư nhân được cải thiện do chính sách điều chỉnh tiền lương của<br />
Chính phủ và niềm tin tiêu dùng được phục hồi do sự ổn định của thị trường giá cả trong 2 năm qua; (5)<br />
Đầu tư của Chính phủ tăng do quá trình hội nhập và việc ký kết các hiệp định thương mại đòi hỏi cần<br />
phải tiến hành một số cải cách như các thay đổi trong hệ thống thuế, tăng đầu tư giá dục nhằm nâng cao<br />
chất lượng lao động, đầu tư vào cơ sở hạ tầng...<br />
(iv) Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách điều chỉnh giá đối với các mặt hàng cơ bản, theo đó,<br />
giá điện, giá dịch vụ giáo dục, giá dịch vụ y tế sẽ tiếp tục tăng trong năm 2015, đặc biệt, giá dịch vụ y tế<br />
năm 2015 sẽ bổ sung thêm các chi phí liên quan đến tiền lương, khấu hao tài sản, chi phí nhân công<br />
thuê ngoài...<br />
Với các nhận định này, lạm phát của Việt Nam trong năm 2015 được dự báo không vượt quá 7%.<br />
Vũ Thị Huyền Trang<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Tổng cục Thống kê (2014). “Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12<br />
năm 2014”.<br />
2. World Bank (2014). “Báo cáo Triển vọng kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương tháng<br />
10/2014”.<br />
3. IMF (2014). “Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới” tháng 10/2014.<br />
4. IMF (2014). “ Triển vọng thị trường giá cả và những rủi ro” tháng 12/2014.<br />
5. ADB (2014). “Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế châu Á” tháng 9/2014.<br />
6. ADB (2014). “Báo cáo bổ sung triển vọng kinh tế châu Á” tháng 12/2014.<br />
7 World Bank (2014). “Triển vọng thị trường giá cả hàng hoá”, “Dự báo giá cả hàng hoá” tháng 10/2014.<br />
<br />