intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan thực vật Chi Solanum L.

Chia sẻ: Tôn Nữ Thùy An | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:69

142
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

 Chi Solanum L. là một chi lớn nhất trong họ Cà (Solanaceae). Các loài thuộc chi Solanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm. Vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ là nơi có số lượng loài thuộc chi Solanum nhiều nhất, đa dạng nhất, sau đó đế châu úc, châu Phi và châu Á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Tài liệu dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc các kiến thức tổng quan về Chi Solanum L. Mời bạn đọc tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan thực vật Chi Solanum L.

  1. TỔNG QUAN THỰC VẬT CHI Solanum L. Chi Solanum L. là một chi lớn nhất trong họ  Cà (Solanaceae). Các loài thuộc  chi Solanum phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm.   Vùng   nhiệt   đới   Trung   và   Nam   Mỹ   là   nơi   có   số   lượng   loài   thuộc  chi Solanum nhiều nhất, đa dạng nhất, sau đó đế  châu úc, châu Phi và châu á  nhiệt đới, trong đó có Việt Nam [18].  Chi Solanum ở Việt nam có 28 loài [6], phân bố từ Bắc vào Nam, các loài thuộc  chi Solanum có giá trị  thực tiễn như: làm thuốc, làm rau ăn và làm cảnh. Trong  các loài có tác dụng làm thuốc thì không ít loài có chứa alcaloid, nên việc sử  dụng   chúng   ta   cần   hết   sức   lưu   ý.   Alcaloid   trong   họ   Cà   nói   chung   và  chi Solanum nói riêng là những hợp chất vừa có tác dụng làm thuốc đồng thời   lại vừa có độc tính. Các loài được sử  dụng làm rau ăn cũng có giá trị  kinh tế  không nhỏ, trong đó phải kể đến một số  loài đem lại lợi ích rất to lớn cho con  người như: Khoai tây (S. tuberosum), Cà chua (Lycopersicon esculentum)…  Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vị trí phân loại,   phân bố, đặc điểm thực vật của chi Solanum L.. Trong khi đó,  ở  Việt Nam các  nghiên cứu về vấn đề này còn chưa nhiều. 1. Vị  trí phân loại chi Solanum L. và họ  Cà (Solanaceae Juss.) trên thế  giới  và ở Việt Nam trong các hệ thống phân loại thực vật Trên thế giới, ngay giữa thế kỷ 18, C. Linnaeus (1753) [ 46] đã biết dựa vào một  số đặc điểm của thực vật (chủ yếu là số  lượng nhị) để  sắp xếp các chi và loài   thực vật (trong đó có các loài sau này thuộc họ Cà) vào các nhóm khác nhau. Đây 
  2. là kiểu phân chia “tự  nhiên” chủ  quan. Mặc dù vậy, nó vẫn là kiểu phân chia   tiến bộ nhất thời bấy giờ, nên các tác giả sau đó đã sử dụng cách phân chia này   để nghiên cứu hệ thực vật của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.  Năm 1789, A. Jussieu [44] công bố tên gọi của họ Cà: Solaneae Juss. (lấy từ tên  chi Solanum L.). Tên gọi Solanae của Juss. về  sau được chỉnh lại cho đúng với  tên gọi của luật danh pháp: SolanaceaeJuss., typus: Solanum L.  Sau công bố của Juss. 1789, nhiều nhà nghiên cứu đã biết dựa vào các đặc điểm   hình thái như: hoa, quả, hạt… để mô tả họ và các taxon trong họ. Tuy nhiên, khi  sắp xếp các taxon trong họ  còn nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, R. Brown  (1810) [43] đã dựa vào các nhóm đối lập nhau về  hình thái của tràng (xếp nếp  đối lập không xếp nếp), nhị  (nhị  nhiều đối lập với hai nhị  khoẻ), phôi (phôi  cong đối lập với phôi hơi cong hình cung) để chia Solaneae ra thành hai Section.  Đến Kunth (1818) [45] lại dựa vào sự  đối lập về  hình thái của quả  (quả  mọng  đối lập với quả nang) để chia Solaneae ra thành hai Section. Mặc dù có những ý  kiến khác nhau, nhưng nhìn chung đây vẫn là bước tiến rất quan trọng so với   thời của C. Linnaeus (1953) [46], bởi nó đã đưa được các taxon có quan hệ thân  cận về gần với nhau hơn.  Về  sau, nhiều tác giả  khi nghiên cứu họ Solanaceae đã xây dựng được các hệ  thống phân loại. Trải qua một thời gian dài, đến nay đã có không ít các hệ thống   phân loại ra đời. Các hệ  thống được xây dựng trên cơ  sở  các taxon xếp sau  thường có nhiều đặc điểm tiến hoá hơn các taxon xếp trước. Và khi xây dựng   hệ thống các tác giả đều chủ yếu dựa vào những đặc điểm điển hình nhất của  cơ  quan sinh sản. Tuy nhiên  ở  mỗi thời kỳ, mỗi tác giả  lại có cách nhìn nhận  riêng trong việc xây dựng hệ thống của mình. Qua nghiên cứu các hệ thống phân 
  3. loại về  họ Solanaceae của một số  tác giả   ở  thời kỳ  khác nhau, chúng tôi nhận  thấy có một số quan điểm phân chia sau đây:  1.1. Quan điểm 1: Họ Solanaceae được phân chia thành các tông. Tiêu biểu cho  quan điểm phân chia này có một hệ thống phân loại nổi tiếng như: G. Bentham   & J. D. Hooker (1864) [42], H. Melchior (1964) [39], V. H. Heywood (1993) [26].     Theo   hệ   thống   phân   loại   của   G.   Bentham   &   J.   D.   Hooker   (1864) [42]:   a: họ Solanaceae được chia thành 5 tông, với 66 chi. Đó là: Trib. 1. Solaneae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp van; quả mọng… (31 chi):  Lycopersicum, Solanum, Cyphomandra, Phyalis, Capsicum… Trib. 2. Atropeae: Thuỳ tràng không gấp nếp, xếp lợp; quả mọng … (6 chi):  Grabowskia, Lycium, Atropa, Mandragora, Dyssochroma, Solandra. Trib. 3. Hyoscyameae: Thuỳ tràng gấp nếp, xếp lợp; quả nang … (4 chi)  Datura, Scopolia, Physochlaina, Hyoscyamus. Trib. 4. Cestrineae: ống tràng hình trụ, thuỳ tràng xếp lợp hay van cong vào hay   gấp nếp; quả mọng hay quả nang… (10 chi): Cestrum, Nicotiana.. Trib. 5. Salpiglossideae: Thuỳ  tràng gấp nếp cong vào; xếp lợp hay xếp van;   quả   nang,   hiếm   khi   quả   mọng…   (15  chi): Petunia, Salpiglossis, Browallia, Brunfelsia..  Như  vậy, hệ  thống phân loại của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [ 42] dựa  vào sự khác biệt chủ yếu của các đặc điểm hình thái như: tràng, quả .. để phân   chia họ Solanaceae ra thành 5 tông khác nhau. Đây là một hệ thống phân loại khá  nổi tiếng thời bấy giờ. Rất nhiều tác giả  trên thế  giới đã từng lựa chọn hệ  thống này để nghiên cứu thực vật ở mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.  b: H. Melchior (1964) [39] dựa vào sự khác nhau của phôi và xếp đặc điểm cấu  tạo này là đặc điểm quan trọng nhất để  phân chia họ Solanaceae ra thành hai 
  4. nhóm: nhóm A (gồm 3 tông), nhóm B (gồm 2 tông). Sau đó tác giả chủ yếu dựa  vào các đặc điểm cấu tạo của bầu (mặc dù bầu trong họSolanaceae là bầu 2 ô,  nhưng do  ở một số  chi có vách ngăn giả  nên đã hình thành bầu có 3­5 ô) và số  lượng nhị để phân chia họ Solanaceae ra thành 5 tông. Ngoài ra, tác giả còn tiếp  tục phân chia tôngSolaneae ra thành 4 phân tông và tông Cestreae ra thành 3 phân  tông với 85 chi trong họ. Đó là: Trib.1. Nicandreae:   Bầu   3­5   ô,   có   vách   ngăn   giả   không   đều;   quả  mọng: Nicandra. Trib.2. Solaneae: Bầu thường 2 ô, hiếm khi hơn.  Subtrib. Lyciinae:   Nhị   đính   gốc;   tràng   hình   ống   hoặc   chuông;   quả  mọng: Lycium, Atropa…  Subtrib. Hyoscyaminae:   Nhị   đính   gốc,   tràng   hình   phễu   hoặc   chuông;   quả  nang:Hyoscyamus..  Subtrib. Solaninae:   Nhị   đính   gốc;   tràng   hình   bánh   xe   hoặc   chuông;   quả  mọng; Physalis,Capsicum, Solanum, Lycopersicon…  Subtrib. Mandragorinae:   Bao   phấn   đính   lưng;   quả  mọng: Cyphomadra, Mandragora… Trib.   3 Daturea:   Bầu   4   ô   do   có   vách   ngăn   giả   mà   thành;   quả   mọng   hay  nang: Solandra, Datura…      Phôi thẳng hoặc hơi cong. Bầu 2 ô. Trib. 4. Cestreae: Nhị 5, bằng hoặc không bằng nhau.  Subtrib. Cestrinae: Hạt có nội nhũ; quả mọng: Cestrum…  Subtrib. Goetzeinae: Hạt không có nội nhũ; quả mọng: Goetzea…  Subtrib. Nicotianinae: Hạt có nội nhũ; quả nang: Nicotiana, Petunia…
  5. Trib.   5. Salpiglossideae:   Nhị   2­4;   quả   nang   hiếm   khi   quả   mọng:  Brunfelsia,   Browallia…  Đây là hệ  thống phân loại rất được thịnh hành trong thế  kỷ  20. Nó đã được  nhiều nhà thực vật trên thế giới chọn để làm cơ sở cho việc phân loại thực vật  của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ.  c: Về  sau, V. H. Heywood (1993) [26] cũng phân chia họ Solanaceae ra thành 5  tông như hệ  thống H. Melchior (1964) [39], rồi chia nhỏ tiếp thành các chi, chứ  không qua bậc trung gian là phân tông. ở hệ thống này, tác giả cũng chủ yếu dựa  vào   đặc   điểm  phôi  thẳng  hay  phôi  cong   để   phân  chia  họSolanaceae thành  2  nhóm:   *Nhóm 1: Phôi cong, gồm 3 tông là Trib.1. Nicandreae: Bầu 3­5 ô, có vách ngăn không đều: Nicandra. Trib.2. Solaneae: Bầu 2 ô: Lycium, Phyalis, Capsicum, Lycopersicon, Solanum.. Trib.3. Datureae:   Bầu   4   ô,   có   vách   ngăn   đều: Datura…   *Nhóm 2: Phôi thẳng hoặc hơi cong, gồm 2 tông là: Trib.4. Cestreae: 5 nhị hữu thụ: Cestrum, Nicotiana, Petunia… Trib.5. Salpiglossideae: 2 hoặc 4 nhị hữu thụ: Salpiglossis..  Qua các hệ  thống đã nêu trên đây, có thể  lập bảng so sánh một cách tổng quát  như sau (bảng 1.1) Bảng 1.1. Tóm tắt các hệ thống G. BENTHAM & J. D. HOOKER (1864), H.   MELCHIOR (1964) Và V. H. HEYWOOD (1993)
  6. Bảng 1.1 cho thấy, toàn bộ  các tông trong các hệ  thống của H. Melchior (1964)   [39] và V. H. Heywood (1993) [26] đều có sự  xáo trộn so với hệ  thống của G.   Bentham & J. D. Hooker (1864) [42]. Đó là chi Nicandra được nâng lên thành  tông Nicandreae vì   có   bầu   3­5   ô,   với   vách   ngăn   không   đều.   Bãi   bỏ  tông Antropeae và Hyoscyameae,   đồng   thời   chuyển   các   chi   (Antropa,   Lycium,  Mandragora  của tông Antropeae;  Hyoscyamus của tông Antropeae; Datura của  tông Hyoscyameae) có bầu 4 ô với vách ngăn đều thành tông Datureae. Ngoài ra,  chi Petunia vì   có   5   nhị   nên   đã   được   chuyển   từ   tôngSagiglossideae sang  tông Cestreae. Như  vậy, so với hệ  thống G. Bentham & J. H. Heywood (1993)   [26] đã có sự  thay đổi rõ rệt. Toàn bộ  các tông do G. Bentham & J. D. Hooker  (1864)   [42]   công   bố   đều   bị   các   hệ   thống   H.   Melchior   (1964)   [ 39]   và   V.   H.  Heywood (1993) [26] sắp xếp lại. Còn giữa hệ thống H. Melchior (1964) [ 39] và 
  7. V. H. Heywood (1993) [26] thì chỉ có sự  khác nhau trong việc phân chia taxon ở  bậc thấp hơn như 2 trong số 5 tông ở hệ thống của H. Melchior (1964) [ 39] còn  có sự phân chia thành các phân tông rồi mới đến chi, trong khi hệ thống của V.   H. Heywood (1993) [26] lại phân chia trực tiếp thành các chi.  Qua sự  phân tích 3 hệ  thống tiêu biểu trên cho thấy: hệ  thống phân loại G.   Bentham & J. D. Hooker (1864) [42] là hệ  thống đã quá lạc hậu và có nhiều sự  bất hợp lý; hệ  thống của V. H. Heywood (1993) [ 26] khắc phục được những  nhược điểm của hệ  thống G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [ 42] nhưng quá  ngắn gọn, nên sẽ  gặp nhiều khó khăn cho việc sắp xếp các taxon thuộc 2  tông: Solaneae vàCestreae; trong khi đó hệ  thống H. Melchior (1964) [39] vừa  khắc phục được những nhược điểm của hệ  thống G. Bentham & J. D. Hooker   (1864)   [42]   lại   vừa   giải   quyết   được   việc   sắp   xếp   các   taxon   trong   2   tông: Solaneae và Cestreae. Vì hai tông này còn có sự  phân chia nhỏ  thành các   phân tông. Do vậy, trong 3 hệ  thống trên, hệ  thống H. Melchior (1964) [39] là  hợp lý hơn cả cho việc sắp xếp các taxon thuộc họ Solanaceae.  1.2. Quan điểm 2: Họ Solanaceae được phân chia thành các phân họ  (Subfam.)  Quan điểm này chủ yếu gặp  ở các hệ  thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 &  1996) [49], [50],  [30]   a.   Trong   hệ   thống   A.   L.   Takhtajan   (1981)  [49],   tác   giả   đã   chia  họ Solanaceae thành 2 phân họ:  Subfam.1. NOLANOIDEAE: Nolana  Subfam.2. SOLANOIDEAE:  Trib.1. Nicandreae: Nicandra.  Trib.   2. Solaneae: Licium,   Atropa,   Hyoscyamus,   Physalis,   Capsicum,   Solanum,   Lycopersicon, Cyphomandra, Mandragora..
  8.  Trib. 3. Datureae: Datura, Brugmasia, Solandra..  Trib. 4. Cestreae: Cestrum, Nicotiana, Petunia…  Trib. 5. Salpiglossideae: Brufelsia, Salpiglossis..  Trong   hệ   thống   này,   tác   giả   chỉ   đưa   thêm   phân   họ Nolanoideae vào  họ Solanaceae còn phân họSolanoideae gồm toàn bộ  5 tông như  trong hệ  thống  của H. Melchior (1964) [39] nhưng không phân chia tiếp thành các phân tông.   b.   Đến   hệ   thống   Takhtajan   A.   L.   (1987)  [50],   tác   giả   lại   phân  họ Nolanoideae thành   họNolanaceae và   tách Solanoideae thành   2   phân  họ: Solanoideae và Cestroideae. Đồng thời, tác giả  chia nhỏ  hầu hết các tông  trong hệ  thống A. L. Takhtajan (1981) [ 49] và nâng số  tông  ở  hệ  thống A. L.   Takhtajan (1987) [50] lên tới 12, với 90 chi. Đó là:  Subfam.1. SOLANOIDEAE (7 tông):  Trib.1. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra..  Trib. 2. Datureae: Datura, Brugmasia..  Trib.3. Jaboroseae: Jaborosa..  Trib.4. Lycieae: Lycium…  Trib.5. Nicandrea: Nicandra.  Trib.6. Solandreae: Solandra..  Trib.7. Juanulloeae: Juanulloa..  Subfam.2. CESTROIDEAE (5 tông):  Trib.8. Cestreae: Cestrum…  Trib.9. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia..  Trib.10. Schwenckieae: Schwenckia…  Trib.11. Parabouchetieae: Parabouchetia…  Trib.12. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browallia…
  9.   c:   Nhưng   đến   hệ   thống   A.   L.   Takhtajan   (1996)  [30],   tác   giả   lại   đưa  họ Nolanaceae trở   thành   phân   họ Nolanoideae của   họ Solanaceae,   đồng   thời  tiếp tục chia nhỏ  và nâng số  tông lên 14. Do vậy họSolanaceae trong hệ  thống  này gồm 3 phân họ (Subfam.), 14 tông (Trib.), với 96 chi (Genus). Đó là: Subfam.1. CESTROIDEAE (6 tông) Trib.1. Anthocercideae: Anthocercis..  Trib.2. Cestreae: Cestrum…  Trib.3. Nicotianeae: Nicotiana, Petunia…  Trib.4. Schwenckieae: Schwenkia…  Trib.5. Parabouchetieae: Parabouchetia..  Trib.6. Salpiglossideae: Salpiglossis, Browllia..  Subfam.2. SOLANOIDEAE (8 tông)  Trib.7. Solaneae: Physalis, Capsicum, Solanum, Lycopersicon, Cyphomandra…  Trib.8. Hyoscyameae: Mandragora, Hyoscyamus…  Trib.9. Datureae: Datura, Brugmasia…  Trib.10. Jaboroseae: Jaborosa…  Trib.11. Lycieae: Lycium…  Trib.12. Nicandreae: Nicandra.  Trib. 13. Solandreae: Solandra…  Trib. 14. Juanulloeae: Juanulloa..   Subfam.3. NOLANOIDEAE (1 chi): Nolana.  Từ  các hệ  thống của A. L. Takhtajan (1981, 1987 & 1996) [ 49], [50], [30] ta có  thể lập bảng so sánh như sau (bảng 1.2): 
  10.  Bảng 1.2. Tóm tắt các hệ thống của Takhtajan A. L. (1981, 1987 & 1996) Qua   bảng   1.2   cho   thấy,   việc   đưa   họ Nolanaceae trở   thành   phân  họ Nolanoideae của Solanaceaetrong các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 & 1996)  [49], [30] là không thoả đáng, bởi vì trong khi ởSolanaceae có kiểu đính noãn trụ  giữa, nội nhũ nạc, thì  ở Nolanaceae có kiểu đính noãn gốc, nội nhũ rất ít hay  không có. Trong hệ  thống của A. L. Takhtajan 1987 [ 50], họ Solanaceae không  chứa phân họNolanoideae, nên hợp lý hơn các hệ thống A. L. Takhtajan (1981 &   1996) [49], [30].  Như  vậy, hệ  thống H. Melchior (1964) [ 39] và hệ  thống A. L. Takhtajan 1987  [50] là hai hệ  thống tiêu biểu nhất cho hai quan điểm nêu trên. So sánh 2 hệ  thống này với nhau cho thấy, hệ thống A. L. Takhtajan 1987 [ 50] có ưu điểm là  phân chia thành 2 phân họ rõ ràng, còn hệ thống H. Melchior (1964) [ 39] chỉ phân 
  11. chia   thành   2   nhóm   tông.   Tuy   nhiên,   đặc   điểm   duy   nhất   để   hệ   thống   A.   L.  Takhtajan 1987 [50] phân chia họ Cà thành 2 phân họ là đặc điểm của phôi, đây   là đặc điểm không dễ  dàng nhận biết được bằng mắt thường, lại không dễ  thấy  ở  các tiêu bản, nên rất khó cho việc nghiên cứu bằng phương pháp hình   thái so sánh. Ngoài ra, ở hệ thống Takhtajan 1987 [50] họ Cà được phân chia tới  12 tông, trong đó có một nửa số tông không thấy có đại diện ở  Việt Nam. Nên  lựa chọn hệ thống Takhtajan 1987 [50] cho việc phân loại họ Cà ở Việt Nam là  không thoả  đáng. Còn hệ  thống H. Melchior (1964) [ 39] có số  lượng tông vừa  phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia của   hệ thống này khá dễ dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Do vậy, việc lựa  chọn hệ thống H. Melchior (1964) [39] để sắp xếp các taxon trong họ Cà ở Việt  Nam là hợp lý hơn cả.  Ở các nước trong khu vực với Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu  họ Solanaceae.  S. Kurz (1987) [27] dựa vào sự  đối lập của quả  (quả  mọng đối lập với quả  nang), đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả  đối lập với bao bọc kín quả)…   để   chia   họ Solanaceae thành   các   nhóm  nhỏ   dần   theo  kiểu   khoá   lưỡng   phân.  Ngoài   ra,   trong   công   trình   này,   chi Gardneria (nay   thuộc   họ Loganiacea)   vẫn  được tác giả xếp trong họ Solanaceae.  C. A. Backer (1877) [27] dựa vào sự  đối lập của quả  (quả  mọng đối lập với  quả  nang), đài đồng trưởng (không bao bọc kín quả  đối lập với bao bọc kín  quả)..   để   phân   chia   họ Solanaceae thành   các   nhóm   nhỏ   dần   theo   kiểu   khoá  lưỡng   phân.   Ngoài   ra,   trong   công   trình   này,   chi  Gardneria (nay   thuộc  họLoganiaceae) vẫn được tác giả xếp trong họ Solanaceae.
  12.  ở Inđônexia, C. A. Backer & R. C. Bakhuizen van den Brink Jr. (1965) [ 35] công  bố  18 chi, với 65 loài thuộc họ Solanaceae có  ở  Java, các chi và loài viết dưới  dạng khoá định loại, không có mô tả  chi tiết và không có hình vẽ  minh hoạ,  danh pháp các taxon không được chỉ dẫn đầy đủ, thiếu tài liệu công bố và mẫu   nghiên cứu. ở  Trung Quốc, K. Z. Kuang & A. M. Lu (1978) [ 38] trên cơ  sở  hệ  thống H.  Melchiol (1964 ) [39] đã sắp xếp các taxon của họ Solanaceae trong 4 tông, 5  phân tông, 24 chi, với 105 loài có kèm theo hình vẽ của một hay nhiều bộ phận.  ở đây tác giả mô tả khá chi tiết các chi và loài, có một số hình vẽ minh hoạ. Tuy   nhiên, các tác giả đã không chỉ ra typus., mẫu nghiên cứu, và về  mặt danh pháp   cũng còn một số nhầm lẫn.  Z. Y. Zhang, A. M. Lu & W. G. D’Arcy (1994) [32] đã mô tả 20 chi với 101 loài  có  ở  Trung Quốc bằng tiếng Anh. So với công trình bằng tiếng Trung Quốc  (1978) [38], công trình này các tác giả đã không mô tả 2 chi được trồng làm cảnh   là Atropa và Cyphomandra,   nhập   chi Scopolia vào   chiAnisodus và   nhập  chi Archiphysalis vào   chi Physaliastrum,   đồng   thời   nhập   loài Solanum  cathayanumvào loài Solanum lyratum… nên số  chi chỉ  còn 20 chi, với 101 loài.  Ngoài ra các tác giả  cũng đã chỉnh lý và sữa chữa những sai sót về  danh pháp.  Tuy nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng không được trích dẫn, nên không thuận   lợi cho người tra cứu và sử dụng.  ở Việt Nam, J. Loureiro (1790) ed. 2 by C. L. Willdenow (1793) [ 47] đã mô tả 6  chi, với 23 loài về  sau này thuộc họ Solanaceae. Cũng giống như  Linnaeus, tác  giả đã xếp chung các chi và loài này vào nhóm 5 nhị cùng với các chi và loài của  các họ khác. Công trình của Loureiro chỉ là những nghiên cứu sơ khai và còn có   sự nhầm lẫn giữa các loài với nhau.
  13.  Đáng   chú   ý   là   công  trình  của   G.   Bonati  (1915­1927)   [34].   Đây   là  công   trình  nghiên cứu họSolanaceae dưới dạng một taxon riêng biệt đầu tiên ở Việt Nam.   Tác giả mô tả 8 chi, với 31 loài có ở Đông Dương; trong đó ở Việt Nam có 7 chi,  với 27 loài. ở công trình này, tác giả đã không phân chia các taxon theo bậc tông  như  hệ  thống của G. Bentham & J. D. Hooker (1864) [ 42] mà chỉ  từ  họ  xuống  chi. Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ  về  họ Solanaceae ở  Đông  Dương, nó vẫn được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở  nước ta. Song về mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh   lý, và đặc biệt là số  lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt  Nam.  Phạm Hoàng Hộ (1972) [3] đã mô tả ngắn gọn với hình vẽ đơn giản của 8 chi,  31 loài thuộc họSolanaceae gặp  ở  miền Nam Việt Nam. Năm 1993 [4] tác giả  mô tả  51 loài thuộc 16 chi trên lãnh thổ  Việt Nam. Trong lần tái bản năm 1999  [5] tác giả đã bổ xung 12 loài, đưa tổng số loài từ 51 lên 63. Nhìn chung trong cả  3 công trình của Phạm Hoàng Hộ, tác giả đều mô tả quá sơ sài với hình vẽ đơn  giản, phần danh pháp còn nhiều sai sót, chưa chỉ dẫn mẫu nghiên cứu.  Lê Khả Kế và cộng sự (1974) [9] đã mô tả, nêu đặc điểm sinh học, sinh thái, giá  trị   sự   dụng   kèm   theo   hình   vẽ   của   24   loài   thường   thấy   thuộc   8   chi   của   họ Solanaceae ở Việt Nam.  Nguyễn Văn Phú (1984) [11] ghi nhận họ Solanaceae ở  Tây Nguyên có 7 chi,  với 16 loài.  Nguyễn Thị  Nhan (1996) [48] ghi nhận họ Solanaceae ở  Việt Nam có 13 chi,  với 53 loài.  Nguyễn Tiến Bân (1997) [12] đã ghi nhận họ Solanaceae ở Việt Nam có 16 chi,  gần 50 loài.
  14.  Vũ Văn Hợp & Nguyễn Thị  Nhan (2005) ghi nhận họ Solanaceae ở  Việt Nam  có 16 chi, với 58 loài [7].  Có thể so sánh một số công trình nghiên cứu điển hình trong bảng 1.3 Bảng 1.3: So sánh các chi và loài thuộc họ Cà (Solanaceae) ở Việt Nam qua  một số nghiên cứu điển hình J. LOUREIRO G. BOTANI Phạm Hoàng Hộ (1790) (1915­1927) (1993) Lycium (2) Lycium (1) Lycium (2) Physalis (4) Physalis (2) Physalis (2) Capsicum (3) Capsicum (4) Capsicum (1) Tubocapsicum (1) Solanum (12) Solanum (17) Solanum (27) Lycianthes (4) Lycopersicon (1) Cyphomandra (1) Cyphomandra (1) Datura (1) Datura (1) Datura (2) Brugmansia (1) Cestrum (2) Nicotiana (1) Nicotiana (1) Nicotiana (1) Petunia (1) Brunfelsia (1) Browallia (1)
  15. Atrichodendron (1) Tổng số: 6 chi, 23 loài Tổng số: 7 chi, 27 loài Tổng số: 16 chi, 51 loài (Chú thích: số trong ngoặc đơn sau tên chi là số loài)  Bảng 1.3 cho thấy: so với trước kia thì giờ đây không chỉ có số chi và loài tăng  lên, mà còn có sự sắp xếp lại cac taxon. Chẳng hạn, chi  Capsicum trước có từ 3  loài (Lour. 1790) hay 4 loài (Bonati, 1915­1927) thì nay đã nhập lại thành 1 loài   (P. H. Hộ, 1993); còn một số  loài trong chi Solanum (Lour. 1790) hay (Bonati,  1915­1927) nay được chuyển sang các chi Lycianthes, Lycopersicon (P. H. Hộ,  1993). 2. Đặc điểm thực vật của chi Solanum L.   2.1. Đặc điểm hình thái chi Solanum L. Đặc điểm hình thái của của chi Solanum do Linné mô tả đầu tiên vào năm 1753  dựa trên đặc điểm thực vật của loài S. nigrum L. Cây thảo, cây bụi, cây leo, cây gỗ nhỏ, đôi khi có gai; có lông che chở, lông phân  nhánh hoặc hình sao, đôi khi có lông tiết.  Lá đơn mọc cách hoặc thành từng cặp không đều, mép nguyên, có răng, có thuỳ  hoặc xẻ thuỳ sâu, phần lớn có cuống lá.     Cụm hoa  ở  nách lá, ngoài nách, đối diện với lá hoặc  ở  đỉnh cành, mọc thành   dạng xim bọ  cạp, xim bọ  cạp ghép cặp, xim hai ngả  kép của xim bọ  cạp, có  hiện tượng lôi cuốn, dạng chùm, dạng chùm phân nhánh, dạng tán hay chỉ là hoa  (mọc) đơn độc. Hoa lưỡng tính hoặc đực và lưỡng tính cùng gốc, thường mẫu   5, rất hiếm khi mẫu 4 (Solanum procumbens). Đài xẻ thuỳ, có tai cao, có lông ở  mặt ngoài. Tràng hình bánh xe hay hình chuông, tràng hoa dạng  ống ngắn, xẻ  thành 5 hoặc 10 cánh.
  16. Nhị  có chỉ  nhị  rất ngắn, đính trên tràng, bao phấn thuôn, nhọn đầu,    bao phấn  chụm lại hoặc nối thành vòng tròn quanh vòi nhuỵ, mở lỗ  ở đỉnh hay gần đỉnh,  mở  theo đường nứt dọc. Vòi nhụy ngắn và nhỏ; bầu trên, thường 2 ô (có thể  hơn do vách giả), với giá noãn rộng, noãn nhiều; núm nhuỵ nhỏ. Quả  mọng phần lớn mọng nước. Đài  ở  quả  thỉnh thoảng phát triển bao quanh   quả  mọng. Hạt nhiều, dẹt dạng đĩa hoặc thấu kính lồi; phôi hướng ngoài. Đặc   biệt giải phẫu có vòng libe quanh tủy ở cuống và gân lá. Biểu bì mang lông che  chở và lông tiết [37] Hạt phấn hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ rãnh, đường kính 7­28  µm Số lượng nhiễm sắc thể n=12 [36]  Hình 2.1: Solanum nigrum L.
  17. 1. Cành mang hoa và quả; 2: hoa; đài mở; tràng mở  và nhị; 5 nhị; 6 nhuỵ. (hình   theo Kuang & Lu, 1978) Hình 2.2: Hạt phấn của Solanum nigrum 2.2. Một số đặc điểm khác 2.2.1. Số lượng nhiễm sắc thể  Theo   một   số   công   trình   nghiên   cứu   về   nhiễm   sắc   thể   của  Gordian   (2006)  [25], Swaminatha (1953) [29], Amalia Barone (1999) [13], D’Arcy (1974) [22],  Yamagata   (1969)   [31]   số   lượng   nhiễm   sắc   thể   của   các   loài   thuộc  chi Solanum được thống kê ở phụ lục 2.1 Nhận xét: Số  liệu  ở phụ  lục 2.1 cho thấy, đa số  các loài thuộc chi Solanum có  số  nhiễm sắc thể  2n=24 và cao nhất  ở S. indicum 2n=69. Số  lượng nhiễm sắc  thể  cơ  bản của chi Solanum X=12­36. Trong đó số   ưu thế  và cũng coi như  số  gốc của chi X=12. Hiện nay X=12 được coi là số  đặc trưng cho các đại diện   gần với dạng tổ tiên. 2.2.2. Hạt phấn  Hạt phấn của các loài thuộc chi Solanum L., hình cầu có 3 u lồi, 3 lỗ  rãnh,  đường kính 7­28   µm, thể  tích hạt phấn từ  1,4­8 µm3. Chúng có lớp vỏ  ngoài  mỏng 1­1,5 µm.  Kích thước hạt phấn rất khác nhau, hạt phấn của  S. carchiense có  đường kính  khoảng 28,6 µm có kích thước lớn nhất. Hạt phấn của loài S. subvelutinum có  đường kính khoảng 7,2 µm có kích thước nhỏ nhất [40].
  18. 3. Sự phân bố của chi Solanum L. Chi Solanum bao gồm hơn 1200 loài, phân bố  rộng rãi trên khắp thế  giới Các  loài thuộc chiSolanum phân bố  chủ  yếu  ở  các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và  ôn đới ấm. Nhiều nhất là vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ, sau đó đến châu úc,  châu Phi và châu á nhiệt đới, trong đó có Việt Nam. Loài được biết đến nhiều  nhất trong chi là Khoai tây (S. tuberosum), có nhiều loài là cây cỏ mọc hoang dại,  có nhiều loài phân bố   ở  những vùng núi cao, bán sa mạc, bờ  biển và ven sông  [37],   [15],   [20],   [19],   [16],   [21],   [17],   [34].   Sự   phân   bố   các   loài   thuộc  chi Solanum L.   được   mô   tả   ở   hình   1  (nguồn:   Cartographic   Research   Lab.,  University of Alabama Hình 3.1: Bản đổ phân bố chi Solanum L. trên thế giới 4. Phân loại chi Solanum L.  Số lượng các loài thuộc chi Solanum L, trên thế giới được ghi trong các tài liệu  thực vật rất khác nhau. Phần lớn các tài liệu thống kê khoảng 1200 loài [37]. Có rất nhiều khoá phân loại thực vật trên thế  giới và  ở  Việt nam: Flora of   Panama (1973) [37] (phụ  lục 4.1), Flore de Madagascar et des Comores (1994) 
  19. [19], Flora Générale de l’Indochine (1927) [34], Flora of China (1994) [41] (phụ  lục   4.2), Flora   of   Taiwan (1983)   [24], A   Catalogue   of   the   Vascular   Plants   of   Madagascar (2007) [28], Flora of Chile (2007) [23]... Hiện nay có 4 cách phân loại chi Solanum L. được sử  dụng nhiều trong các tài  liệu khoa học, đó là khoá phân loại của  ­ D’Arcy (Flora of Panama 1973) [37]. Số  lượng các loài trong khoá phân loại  này được mô tả rất chi tiết và rõ ràng, tuy nhiên đa số  các loài trong khoá phân   loại này chủ yếu phân bố ở Châu Mỹ, rất ít loài có mặt ở Việt Nam.  ­ G. Bonati (Flora Générale de l’Indochine 1927) [34]: Đây là công trình nghiên  cứu tương đối đầy đủ về họ Solanaceae và chi Solanum ở Đông Dương, nó vẫn  được sử dụng làm tài liệu cho những ai quan tâm đến họ này ở nước ta. Song về  mặt danh pháp có khá nhiều sai sót cần được sửa chữa, chỉnh lý, và đặc biệt là  số lượng loài còn quá ít so với số lượng loài đang có tại Việt Nam.  ­ Z. Y. Zang   (Flora of China 1994) [32]: Các tác giả  cũng đã chỉnh lý và sữa  chữa những sai  sót  về  danh pháp. Tuy nhiên typus và mẫu nghiên cứu cũng  không được trích dẫn, nên không thuận lợi cho người tra cứu và sử dụng.  ­ Vũ Văn Hợp (2006) [6]. Tác giả là đã xây dựng khoá phân loại các loài thuộc  chi Solanum chi tiết và đầy đủ  nhất  ở  Việt Nam, khoá phân loại này phù hợp   cho việc nghiên cứu các loài thuộc chiSolanum ở Việt Nam. 5. Khoá phân loại các loài thuộc Solanum L. ở Việt Nam  Vũ Văn Hợp (2006) [6] lần đầu tiên đã công bố  khoá phân loại các loài thuộc  chi Solanum L. ở Việt Nam chi tiết và đầy đủ nhất. Khoá phân loại này dựa trên  hệ thống phân loại của H. Melchior (1964) [39] hệ  thống này có số  lượng tông 
  20. vừa phải, đa số các tông đều có đại diện ở Việt Nam, đồng thời cách phân chia   của hệ  thống này khá dễ  dàng cho việc sắp xếp các taxon trong họ. Khoá phân  loại các loài thuộc chi Solanum L. ở Việt Nam gồm 28 loài được mô tả như sau: 1A. Cây không có gai. Bao phấn hình bầu dục hay hình trứng.   2A. Thuỳ tràng tròn, có khía. Quả hình trứng hoặc hình bầu dục… S. laciniatum   2B. Thuỳ tràng hình tam giác, hình trứng, hình bầu dục hay hình mũi mác. Quả  hình cầu, hiếm khi có hình trứng.     3A. Cây có lông hình sao bao phủ  toàn bộ. Cuống chung của cụm hoa to và  chắc … S. erianthum             3B. Cây nhẵn hoặc có lông đơn. Cuống chung của cụm hoa thường nhỏ  và  mảnh.        4A. Hoa (mọc) đơn độc, mọc từng đôi hay cụm hoa đơn: dạng chùm, tán,  gần như dạng tán hay dạng xim bọ cạp.         5A. Cụm hoa đơn. Quả mọng chín mầu vàng hay mầu đen.            6A. Lá  thường  mọc  thành từng  cặp  không  đều. Quả  mọng  chín mầu  vàng.              7A. Lá nhẵn. Cụm hoa dạng xim bọ cạp. Tràng dài 5mm. Bao phấn dài   1,5mm ….  3. S. diphyllum             7B. Lá có lông ở nách của gân mặt dưới. Cụm hoa dạng chùm. Tràng dài  8­10mm. Bao phấn dài 3­3,5mm …. 4. S. spirale           6B. Lá đơn mọc cách. Quả mọng chín mầu đen  …. 5. S. nigrum         5B. Hoa (mọc) đơn độc hoặc từng đôi. Quả  mọng chín mầu đỏ  …. 6. S.  pseudo­capsicum       4B. Cụm hoa kép: dạng xim bọ cạp ghép cặp, dạng xim hai ngả kép của xim   bọ cạp hay dạng chuỳ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2