intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh (1965-1969): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:237

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh (1965-1969): Phần 1 trình bày các nội dung chính sau: Chỉ đạo chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ; Trong năm đầu đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh; Trong quá trình hình thành quyết tâm chiến lược "giành thắng lợi quyết định"; Trong quá trình hình thành kế hoạch tiến công chiến lược Tết Mậu Thân (1968).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh (1965-1969): Phần 1

  1. LỜI GIỚI THIỆU Sau nhiều năm nghiên cứu, đầu năm 2005, Đại tá Trần Trọng Trung, nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh có uy tín, gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật bản thảo viết về quá trình Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã chỉ huy quân đội ta đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp (1945-1954). Tháng 8/2006, để mừng đại thọ tuổi 95 của Đại tướng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật lần đầu tiên xuất bản bản thảo trên thành sách dưới tiêu đề Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Cuốn sách đã đoạt giải cao về sách hay của Hội Xuất bản Việt Nam. Từ năm 2010 đến nay, cuốn sách được xuất bản nhiều lần với tiêu đề Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh và được bạn đọc rất hoan nghênh. Tác giả xem cuốn sách này như tập 1 của bộ sách 2 tập viết về quá trình cầm quân của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp qua 30 năm chiến tranh cách mạng, trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975). Sau khi cuốn sách ra đời, một số tướng lĩnh, sĩ quan gồm Trung tướng Phạm Hồng Cư - nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trung tướng Lê Hữu Đức - nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7 - người giúp việc nhiều năm của Đại tướng và Đại tá Trần Trọng Trung, với sự giúp đỡ của Văn phòng Đại tướng 5
  2. Võ Nguyên Giáp, đã thống nhất phối hợp với nhau viết tập 2 của bộ sách Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, trình bày hoạt động lãnh đạo, chỉ huy quân đội của Đại tướng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Đại tá Trần Trọng Trung được phân công viết về hoạt động lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp giai đoạn 1965-1969 - giai đoạn đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ xâm lược nước ta - đã hoàn thành xong bản sơ thảo và gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Tác giả xem đây là quyển 2, tập 2 của bộ sách Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh (theo dự kiến, tập 2 gồm 3 quyển). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật rất tiếc không được xuất bản toàn bộ tập sách viết về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với các lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) do bản thảo chưa được hoàn thành. Để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi trao đổi với Đại tá Trần Trọng Trung cho công bố phần tác giả viết với tiêu đề Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh (1965-1969). Với tinh thần khách quan, trung thực, trách nhiệm cao của một người trong cuộc, với tinh thần lao động khoa học cẩn trọng, kỹ lưỡng, dựa trên nguồn tư liệu phong phú, tin cậy ở trong nước và nước ngoài, tác giả cuốn sách trình bày quá trình đồng chí Võ Nguyên Giáp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị của mình, đã cùng tập thể Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo từng bước đi ở tầm chiến lược toàn cục, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, các 6
  3. quân chủng, binh chủng tăng cường xây dựng lực lượng, tổ chức chi viện, đáp ứng yêu cầu về người và cơ sở vật chất cho tiền tuyến lớn miền Nam; quá trình quân và dân ta chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ; quá trình hình thành quyết tâm chiến lược "giành thắng lợi quyết định" - quá trình hình thành kế hoạch tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, đợt tiến công đông xuân 1968 - 1969, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên các chiến trường để buộc đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, v.v.. Để có được bản thảo cuốn sách như Nhà xuất bản cho ra mắt bạn đọc hôm nay, tác giả đã dành nhiều tâm sức, trăn trở sửa chữa nhiều lần và trong lần sửa chữa cuối cùng, tác giả đã qua đời. Do đó, quá trình biên tập - xuất bản cuốn sách, gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định và khó tránh khỏi còn có những thiếu sót. Trước khi xuất bản cuốn sách này, chúng tôi đã gửi bản thảo đến gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu đọc cho ý kiến về những nhận định, đánh giá, những tư liệu, sự kiện, nhân vật được đề cập trong cuốn sách. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xin trân trọng cám ơn sự hợp tác đầy tinh thần trách nhiệm của gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá Trần Quốc Tuấn - Trưởng ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Cuốn sách đã được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2015 nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2015) và được bạn đọc đánh giá rất cao. 7
  4. Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021), đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc, chúng tôi xuất bản lần thứ hai cuốn sách. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 5 năm 2021 NH XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 8
  5. Chương I CHỈ ĐẠO CHUẨN BỊ MỌI MẶT, SẴN S NG ĐỐI PHÓ VỚI ÂM MƯU LEO THANG CHIẾN TRANH CỦA ĐẾ QUỐC MỸ 1 Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị Mỹ lật đổ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và tập thể lãnh đạo của ta đã dự kiến đế quốc Mỹ sẽ đưa quân vào để cứu vãn tình thế ngày càng rối ren của chế độ Sài Gòn. Trong một bài viết nhân kỷ niệm 10 năm Hiệp định Genève được ký kết, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã dự kiến: "Trước nguy cơ bị thất bại nặng nề, bọn cầm quyền Mỹ đang ra sức tìm cách cứu vãn tình thế hiện nay của chúng ở miền Nam"1. Ông nhắc lại tuyên bố ngày 15/7/1964 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 và kết luận: "Ngoài con đường ___________ 1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.55. 2. Bản tuyên bố gồm ba điểm: 1) Chính phủ Mỹ phải tôn trọng chủ quyền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không can thiệp vào nội trị của Việt Nam; 2) Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, rút hết quân đội và vũ khí của Mỹ khỏi miền Nam, để công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy theo chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; 3) Vấn đề hòa bình thống nhất nước Việt Nam là công việc của dân tộc Việt Nam, vấn đề đó sẽ được giải quyết theo tinh thần của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. 9
  6. đó ra, không còn con đường nào khác. Nếu đế quốc Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, chúng nhất định sẽ bị nhân dân miền Nam đánh bại và cuối cùng sẽ bị đánh bại hoàn toàn. Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, thì đó là một hành động tự sát đối với chúng"1. Sau này, việc nghiên cứu tài liệu của đối phương cho thấy phán đoán của lãnh đạo ta là đúng đắn và có cơ sở. Qua những trang hồi ký của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson viết những năm sau này2, người ta thấy tình hình Việt Nam khi cuộc chiến tranh sắp bước sang năm 1965, đã khiến cho nỗi lo ngại của ông ta và của những cố vấn thân cận tăng lên từng ngày. Giới cầm quyền Mỹ cho rằng, từ cuối năm 1964, quân chính quy Bắc Việt xuất hiện với quy mô tiểu đoàn đã qua hướng Lào để vào Nam. Vì vậy, từ cuối tháng 1/1965, Tướng Westmoreland yêu cầu, và được tổng thống cho phép, sử dụng máy bay phản lực Mỹ đánh vào đội hình tiến công của Việt cộng để yểm trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, khi Tổng chỉ huy quân Mỹ coi là cần thiết. Hành động yểm trợ đó diễn ra lần đầu tiên vào cuối tháng 2/1965, khi hai đại đội quân Sài Gòn và một đơn vị đặc biệt quân Mỹ rơi vào một ổ phục kích của bộ đội ta ở chiến trường Tây Nguyên. Vẫn theo Johnson, tinh thần của đồng minh Sài Gòn "đã được nâng lên đôi chút" khi máy bay Mỹ đánh phá Bắc Việt hồi tháng 8/1964, nhưng hiệu quả không được bao lâu. Nhà Trắng tiếp tục nhận được những tin tức không đáng khích lệ, ___________ 1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr.59. 2. Xem L.B.Johnson: Lợi thế (The vantage point), Weidenfeld & Nicolson-London, 1972. Bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam; lưu tại Thư viện Quân đội, ký hiệu TP.147, tr.48. 10
  7. trong đó có báo cáo đầu tháng 1/1965 của Đại sứ Taylor, với lời kết luận rằng, hiện nay Mỹ đang đứng vào tình thế bất lợi ở Nam Việt Nam, một tình thế đòi hỏi phải đi một bước mạo hiểm mới mong tạo nên một sự thay đổi... Giờ đây, nếu không có một hành động tích cực, sẽ dẫn đến việc Mỹ buộc phải chấp nhận thất bại trong một tương lai gần... Johnson cho rằng, đó cũng là quan điểm của tất cả các cố vấn quân sự hữu trách ở Nam Việt Nam và cả ở Washington. Và người cầm đầu nước Mỹ thú nhận: Đau lòng và miễn cưỡng, các cố vấn dân sự của tôi cũng đã buộc phải chấp nhận kết luận như vậy trước những sự kiện không thể bác bỏ. Trung tuần tháng 7/1964, sau khi nghe báo cáo tin Nhà Trắng đã cử Tướng Maxwell Taylor sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lưu ý Cục Tình báo bám sát những triệu chứng mới của địch, cả ở Sài Gòn và Washington. Ông gợi ý: với việc cử viên tướng số một sang làm đại sứ ở Sài Gòn, cần theo dõi âm mưu mới của địch tăng quân và leo thang chiến tranh, và ông nhấn mạnh: cũng không loại trừ khả năng chúng mở rộng chiến tranh trên cả hai miền. Cũng vào thời điểm trước và sau cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ1, theo chỉ thị của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cơ quan tình báo chiến lược của ta đặc biệt quan tâm theo dõi sát lời nói và việc làm thực tế của người cầm đầu Nhà Trắng. Nếu trước tháng 11, ông ta không công khai biểu thị thái độ "diều hâu" để hy vọng có thêm phiếu của những cử tri phản chiến, thì sau khi trúng cử tổng thống, Johnson sẽ làm gì. ___________ 1. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên thay Tổng thống John F. Kennedy (bị ám sát) từ ngày 22/11/1963, tức là ngồi vào ghế tổng thống không qua bầu cử. Đây là lần đầu tiên Lyndon B. Johnson chính thức tranh cử. 11
  8. Qua nhiều nguồn tin từ mạng tình báo chiến lược của ta và qua báo chí phương Tây, Cục Tình báo khẳng định với Tổng Tư lệnh rằng, diễn biến thực tế trên chiến trường cũng như tình hình chính trị không ổn định ở Sài Gòn đang tác động trực tiếp và rất mạnh đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, khiến giới cầm quyền Mỹ phải hoạch định chủ trương chiến lược mới. Báo cáo ngày 29/11/1964 của Cục Tình báo viết: Hiện nay Mỹ đang nghiên cứu lại chủ trương chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Có nhiều khả năng Mỹ vẫn duy trì đường lối "chiến tranh đặc biệt" như hiện nay, nhưng mức độ và tính chất có thể có những điểm mới. Do Mỹ chưa có kế hoạch lâu dài và toàn diện nhằm giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nên trước mắt địch sẽ vẫn tập trung lực lượng nhằm làm thất bại kế hoạch hoạt động mùa khô của ta, kết hợp với không quân đánh vào căn cứ bàn đạp và nơi tập trung chủ lực của ta; tiếp tục cô lập miền Nam bằng cách dùng không quân đánh phá hành lang, kết hợp với bộ binh lấn chiếm và biệt kích... Đối với miền Bắc, địch sẽ khôi phục và đẩy mạnh hoạt động biệt kích vào vùng Khu 4 và biên giới Việt - Trung, tập kích ven biển và cũng có khả năng chúng ném bom vào đường hành lang ở nội địa Khu 4 để hỗ trợ cho các cuộc đánh lớn ở miền Nam... Mọi cố gắng của địch trong thời gian trước mắt chỉ nhằm mục tiêu "không thắng - không thua", để tránh đột biến lớn về chính trị và chờ chủ trương mới, lâu dài hơn. Về vấn đề thương lượng để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam, Mỹ có thể cũng đã nghiên cứu và thăm dò dư luận, nhưng chưa có cơ sở thực tế để xúc tiến1... ___________ 1. Xem hồ sơ số 752, phông Cục Tác chiến, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng. 12
  9. Thực tế những khó khăn, lúng túng về chủ trương chiến lược của Washington và Sài Gòn mà Cục Tình báo báo cáo với Tổng Tư lệnh, sau này được cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara nói rõ trong những trang hồi ký của ông ta1. McNamara tiết lộ rằng, trong năm 1964, giới cầm quyền Mỹ rất lo ngại vì phải đương đầu với tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng, dẫn đến tình trạng căng thẳng và tiến thoái lưỡng nan về đường lối đối với vùng Viễn Đông. Theo giải thích của McNamara, cái gọi là tình trạng tiến thoái lưỡng nan đó là sự giằng xé giữa một bên là cố tránh phải can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam với một bên là tham vọng không để mất Nam Việt Nam: "Trong suốt thời gian vận động bầu cử, chính quyền đã cố sức giữ cân bằng giữa hai mục tiêu về Việt Nam: tránh sử dụng lực lượng lính chiến của Mỹ đồng thời không để mất Nam Việt Nam vào tay cộng sản"2. McNamara nhận xét rằng, giới cầm quyền Mỹ vừa bất đồng sâu sắc vừa "bối rối" trong việc hoạch định chính sách đối với Nam Việt Nam. Họ không biết phải làm gì trước tình trạng suy sụp nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn. Theo McNamara thì tại các cuộc tranh luận trong giới có thẩm quyền, không ai sẵn sàng thảo luận vấn đề rút quân ra khỏi Việt Nam. Người ta cho rằng làm như vậy sẽ dẫn đến một lỗ hổng nghiêm trọng trên con đê ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và giới cầm quyền Mỹ không chấp nhận điều đó. Thì ra Nhà Trắng vẫn bám lấy thuyết domino được vạch ra từ thời Tổng thống Harry Truman! ___________ 1. Xem Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.151-159. 2. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.156-157. 13
  10. Trong khi đó, các tham mưu trưởng liên quân không giấu giếm suy nghĩ của họ trước thực trạng miền Nam Việt Nam. Giới quân sự ở Lầu Năm Góc nói thẳng ra rằng, nếu tổng thống không chủ trương tăng cường các biện pháp quân sự thì họ tin chắc chắn rằng Mỹ sẽ phải rút khỏi Nam Việt Nam. Và họ đề nghị một chương trình hoạt động quân sự mới và mạnh mẽ hơn nữa, bao gồm cả việc dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. McNamara nói rằng, với những tướng lĩnh trong Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, chủ trương rút quân khỏi miền Nam Việt Nam hoặc Đông Nam Á là một việc không thể chấp nhận được, thậm chí còn là một giải pháp khiến các tham mưu trưởng thấy giật mình. Trước tình hình ngày càng rối loạn do tranh giành quyền lực trong nội bộ tướng lĩnh Sài Gòn, Tổng chỉ huy Westmoreland có những suy nghĩ khác với các Tham mưu trưởng liên quân. Ông ta không tin rằng biện pháp quân sự đơn thuần có thể giải quyết được vấn đề, dù là có quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến. Trong một bức điện gửi về cho Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ Earle G. Wheeler vào trung tuần tháng 10/1964, Westmoreland viết rằng trừ khi có những triển vọng về một chính quyền tương đối có hiệu quả ở Nam Việt Nam trong thời gian ngắn trước mắt, nếu không thì không có một cuộc tiến công nào của Mỹ ở bên trong hay bên ngoài Nam Việt Nam có thể đảo ngược được tình hình đang xấu đi nghiêm trọng. Sau này, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ McNamara đã nói rõ trong hồi ký của mình rằng, trong suốt thời gian vận động bầu cử, ông ta nhận thấy Tổng thống Johnson cố tỏ ra 14
  11. là "một hình mẫu của con người ôn hòa và kiềm chế"1. Trong các bài diễn văn vận động tranh cử, Johnson đều nhắc lại một điệp khúc, nhằm vào đối thủ là Thượng nghị sĩ Barry M. Goldwater. Johnson nói: "Một số người đang thèm khát mở rộng cuộc xung đột. Họ muốn chúng ta gửi thanh niên Mỹ đi làm những việc mà thanh niên châu Á phải làm và chẳng đem lại giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam"2. Và ông ta nhấn mạnh: "Người Nam Việt Nam có trách nhiệm cơ bản bảo vệ tự do của chính họ"3. Chính McNamara cũng không hề giấu giếm mà nói thẳng ra rằng, trong khi chiến dịch tranh cử tổng thống đang diễn ra quyết liệt, Lyndon B. Johnson muốn vẽ nên hình ảnh Thượng nghị sĩ Barry Goldwater - ứng cử viên của Đảng Cộng hòa - như một người hiếu chiến, còn bản thân ông ta là một chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình. McNamara đã từng đặt câu hỏi: Liệu Tổng thống Johnson có che giấu điều gì không? Và ông ta tự trả lời: "Tổng thống không hề tiết lộ một chút gì về thực tế đó (Việt Nam - TG.) cho công chúng (Mỹ - TG.). Nếu ông có tiết lộ, thì chắc ông phải thêm đôi lời như: "Chúng ta đang mắc trong đám bùng nhùng khủng khiếp mà không biết cái gì sẽ xảy ra". Nhưng ông đã không làm như vậy"4. Vẫn theo McNamara, riêng với những cố vấn thân cận đứng sau hậu trường của tổng thống (như Dean Rusk, Mac Bundy, McNamara...) thì lại khác - Johnson có thái độ rất rõ ràng trong mục tiêu đối với chiến tranh Việt Nam..., đó là: Phải thắng! Ông ta đã nói với họ như vậy ngay từ lần gặp đầu tiên với tư cách là tổng thống. McNamara nhấn mạnh rằng, người ___________ 1, 2, 3, 4. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.152, 153, 153, 154. 15
  12. cầm đầu Nhà Trắng không bao giờ sao nhãng khỏi mục tiêu đó. "Nhưng chúng tôi đã chẳng bao giờ có thể vạch ra được cho ông ta thấy thắng như thế nào với cái giá phải chăng và sự mạo hiểm chấp nhận được"1. Do khéo sắm vai "chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình" (như cách mỉa mai của McNamara) nên đầu tháng 11/1964, Johnson trúng cử với số phiếu áp đảo. Để chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ mới, mấy ngày trước đó, ông ta đã cho thành lập một "nhóm công tác" nhằm giúp tổng thống lựa chọn chính sách đối với vấn đề Việt Nam2. Ngày 1/12/1964, Tổng thống Johnson triệu tập một hội nghị quan trọng để thảo luận các khuyến nghị của "nhóm công tác" làm cơ sở để quyết định chính sách đối với Nam Việt Nam. Ngoài các cố vấn thân cận, cuộc họp còn có Đại sứ Maxwell Taylor và Phó Tổng thống H. Humphrey. Tổng thống không chấp nhận cả ba phương án do "nhóm công tác" đưa ra (nhất là phương án gây sức ép quân sự mạnh, ném bom ồ ạt trên đường vận chuyển chiến lược) vì - như cách diễn đạt ___________ 1. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.153. 2. Ngoài nhóm trưởng là William Bundy (trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) nhóm công tác gồm những quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc: Phó Đô đốc Lloyd M.Mustin, sĩ quan cao cấp của tham mưu liên quân và là người cho rằng "yếu tố quyết định ở Nam Việt Nam là vấn đề quân sự"; Harold Ford, chuyên viên cao cấp về Trung Quốc - châu Á của CIA; John McNaughton, trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế... Sau chừng ba tuần, nhóm công tác đề đạt với tổng thống ba phương án: 1) Giải pháp thông qua thương lượng trên bất cứ một cơ sở nào có thể có được; 2) Tăng mạnh sức ép quân sự với cả hai miền, nhất là với Bắc Việt Nam; 3) Chính sách xen kẽ giữa gây sức ép đối với Bắc Việt Nam đồng thời nỗ lực duy trì các kênh tiếp xúc trong trường hợp Hà Nội mong muốn có một giải pháp. 16
  13. của Tổng thống Johnson - được McNamara nhắc lại trong hồi ký - nếu bảo Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Wheeler tát cho Bắc Việt một cái thì chúng ta cũng có thể nhận một cái tát trả lại. Hơn nữa, McNamara nói rõ thêm, Johnson chưa hề tin rằng Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến này bằng không quân... Điều cần hơn và hiệu quả hơn là phải có sức mạnh quân sự đủ mạnh trên mặt đất. Theo McNamara, đó chính là nguồn gốc dẫn đến chủ trương triển khai quy mô lớn lực lượng bộ binh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Sau cuộc họp quan trọng với tổng thống, giữa tháng 12, Tướng Taylor trở lại miền Nam Việt Nam, mang theo bản thông điệp của Nhà Trắng gửi các tướng lĩnh Nam Việt Nam nói rằng: để có được sự ủng hộ tiếp tục của Mỹ thì cần phải ổn định chính trị, (và điều này có nghĩa là) các tướng lĩnh phải chấm dứt việc chống đối lẫn nhau và chống chính phủ của mình. Qua bản thông cáo chung Taylor - Trần Văn Hương, báo Nhân dân (ngày 13/12/1964) trích dẫn lời của hãng thông tấn Anh Reuter ngày 11/12, viết rằng: "Mỹ đã quyết định tăng viện trợ cho chính quyền Sài Gòn để tiến hành những hoạt động đánh vào các đường xâm nhập từ Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Tính chất những biện pháp quân sự mới này chưa được nêu ra "vì lý do an ninh" nhưng những biện pháp đang được thảo luận bao gồm những cuộc tiến công bằng đường không và đường bộ vào các vùng căn cứ của cộng sản ở vùng núi miền Nam nước Lào". Bước sang đầu năm 1965, tin tức về việc Lầu Năm Góc chuẩn bị đưa quân vào miền Nam Việt Nam ngày càng được mạng lưới tình báo chiến lược của ta khẳng định. 17
  14. 2 Cùng với dự kiến địch leo thang chiến tranh ở miền Nam, Bộ Thống soái Việt Nam cũng dự kiến địch sẽ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Theo đề nghị của Quân ủy Trung ương, từ tháng 7/1963, Thủ tướng Chính phủ đã ra nghị định về việc tổ chức công tác phòng không nhân dân trên toàn miền Bắc, nhằm thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Các lực lượng phòng không và không quân phải sẵn sàng cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân đập tan mọi âm mưu của địch đối với miền Bắc... Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Theo báo cáo của Cục Tình báo, từ tháng 1/1964, Mỹ bắt đầu giúp quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch bí mật chống phá miền Bắc, mang mật danh Kế hoạch 34A. Nội dung hoạt động của Kế hoạch 34A gồm: sử dụng máy bay U-2 do thám miền Bắc; bắt cóc công dân miền Bắc để khai thác tin tức tình báo; bí mật thả dù hoặc tung các toán biệt kích từ biển vào phá hoại cầu đường, kho tàng, gây phỉ và hoạt động "chiến tranh tâm lý". Trong khi đó, Mỹ tiếp tục dùng các tàu hải quân có trang bị đặc biệt tiến hành tuần tiễu, do thám và thu thập tin tức theo Kế hoạch DESOTO, nhằm phô trương lực lượng, gây sức ép về tâm lý, hỗ trợ Kế hoạch 34A. Để toàn quân, toàn dân sẵn sàng và chủ động đối phó với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Tổng Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan quân sự Tổng hành dinh triển khai hàng loạt công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương. Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất được triệu tập đầu tháng 1/1964, mở ra phương hướng triển khai rộng khắp hệ thống phòng không nhân dân của ba thứ 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
50=>2