intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trầm hương và loài cây tạo ra trầm hương

Chia sẻ: Thandong Datviet | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

452
lượt xem
150
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

TRẦM HƯƠNG VÀ CÔNG DỤNG 1. Trầm hương Trầm hương là phần gỗ của cây dó nhiễm dầu. Một số lòai dó (tên khoa học Aquilaria), trong quá trình sinh trưởng, do những tác động nào đó, gây ra những "tổn thương/nhiễm bệnh", lâu ngày cây tích tụ một chất dạng nhựa (dầu), rồi lan dần ra, làm biến đổi các phân tử gỗ, tạo nên nhiều màu sắc (đen, nâu, chàm, xám, … ), nhiều tính chất (cứng, mềm, dẻo, dòn …), nhiều mùi vị (đắng, cay, chua, ngọt, … ), nhiều hình dáng (tròn, xoắn, nhọn, dài, …...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trầm hương và loài cây tạo ra trầm hương

  1. Trầm hương và loài cây tạo ra trầm hương I. TRẦM HƯƠNG VÀ CÔNG DỤNG 1. Trầm hương Trầm hương là phần gỗ của cây dó nhiễm dầu. Một số lòai dó (tên khoa học Aquilaria), trong quá trình sinh trưởng, do những tác động nào đó, gây ra những "tổn thương/nhiễm bệnh", lâu ngày cây tích tụ một chất dạng nhựa (dầu), rồi lan dần ra, làm biến đổi các phân tử gỗ, tạo nên nhiều màu sắc (đen, nâu, chàm, xám, … ), nhiều tính chất (cứng, mềm, dẻo, dòn …), nhiều mùi vị (đắng, cay, chua, ngọt, … ), nhiều hình dáng (tròn, xoắn, nhọn, dài, … ), ở nhiều vị trí (thân, cành, rễ) trong cây dó. Đó chính là trầm hương, có tên giao dịch thương mại Quốc tế Agarwood hay Eaglewood. Đặc điểm nổi bật của trầm hương là tỏa mùi thơm đặc biệt lúc đốt hoặc chưa đốt. Khi hàm lượng dầu lớn hơn 25%, trầm hương có thể chìm trong nước. Lọai trầm hương cao cấp có thể đạt hàm lượng dầu 60-80%. Căn cứ mức độ nhiễm dầu, màu sắc, hương vị, hình dáng, trọng lượng, xuất xứ … mà trầm hương có các tên gọi khác nhau như: Trầm mắt tử, trầm mắt đảo, trầm bọ sánh, trầm bông, trầm da báo, trầm điệp lá, trầm điệp trai, trầm kiến xanh, trầm kiến lọn, trầm rục, trầm sanh … Theo phẩm cấp, trầm hương được xếp thành 3 hạng và mỗi hạng chia thành nhiều lọai, như sau: - Hạng nhất là kỳ nam hay còn gọi là kỳ Là loại trầm hương có phẩm cấp cao nhất, cho nhiều dầu, nhẹ, mềm, dẻo, nhuyễn, khi nếm có đủ vị chua, cay, đắng, ngọt; tỏa mùi thơm tự nhiên, khi đốt hương thơm đặc biệt, khói xanh, bay thẳng và dài lên không trung. Kỳ nam được chia thành 4 loại: + Bạch kỳ: Sắc trắng ngà, xám nhạt, vô cùng qúy hiếm, ít khi có, đắt giá nhất.
  2. + Thanh kỳ: Sắc xanh xám, ánh lục, rất qúy hiếm, đắt giá sau bạch kỳ. + Huỳnh kỳ: Sắc vàng sẩm, vàng nâu, qúy hiếm và đắt giá sau thanh kỳ. + Hắc kỳ: Sắc đen chàm, hắc ín, qúy và đắt giá sau huỳnh kỳ. Sách xưa xếp loại kỳ nam: nhất Bạch, nhì Thanh, tam Huỳnh, tứ Hắc. - Hạng hai là trầm Là lọai trầm hương ít dầu, nặng, vị đắng, hầu hết khi đốt mới tỏa mùi thơm, khói màu trắng, bay quanh rồi tan ngay. Theo phẩm cấp, trầm được xếp thành 6 loại : + Loại 1, sắc sáp trắng, giá trị cao nhất trong 6 loại trầm; + Loại 2, sắc xanh đầu vịt , giá trị sau lọai 1; + Loại 3, sắc sáp xanh , gía trị sau lọai 2; + Loại 4, sắc sáp vàng, giá trị sau lọai 3; + Loại 5, sắc vằn lông hổ, giá trị sau lọai 4 ; + Loại 6, sắc vàng đốm dầu, giá trị thấp nhất trong 6 loại trầm. Sách xưa chia trầm hương thành 5 loại: Hoàng lạp trầm, Hoàng trầm, Giác trầm, Tiến hương, Kê cốt hương, trong đó Hoàng lạp trầm là tốt nhất. - Hạng ba là tốc Phần lớn tốc có mức nhiễm dầu ít hơn trầm, chủ yếu là từ bên ngòai và dài theo thớ gỗ. Có khỏang vài chục lọai tốc, với các tên gọi như: Tốc kiến, tốc đá, tốc cá ngừ, tốc hương, tốc lọn, tốc dây, tốc đỉa… Tuy nhiên, có thể xếp các dạng tốc thành 4 nhóm như sau: + Tốc đỉa, là nhóm tốc có mức độ nhiễm dầu nhiều trong các thớ gỗ, dạng nhỏ, cở ngón tay, đầu đũa con hoặc như con đỉa.
  3. + Tốc dây, là nhóm tốc có mức độ nhiễm dầu xen, tạo nhiều vòng giữa các thớ gỗ, thường có dạng tròn, dài, dáng rễ cây. + Tốc hương, là nhóm tốc có mức độ nhiễm dầu dạng mảnh, mùi thơm nổi trội hơn các lọai tốc khác. + Tốc pi, là nhóm tốc có mức độ nhiễm dầu mỏng, bao quanh bên ngòai các thớ gỗ theo dạng hình tháp, hình ống lớn. Trong 4 nhóm tốc thì tốc đỉa được đánh giá cao hơn về chất lượng. Tuy nhiên, việc xếp nhóm tốc không nhất thiết theo thứ bật phẩm cấp. Hiện nay chưa có quy định của Nhà nước hoặc của tổ chức phi Chính phủ về tiêu chuẩn phân lọai, đánh giá phẩm cấp trầm hương. Theo TS Lê Công Kiệt, tiêu chuẩn đánh giá trầm hương thường đựa vào : Nguyên xứ, cường độ, loại hương, hình thù, kích cở, màu sắc, trọng lượng, tỷ trọng, độ tinh khiết và loài cây dó tạo ra trầm hương. Trong giao dịch mua bán, việc phân loại trầm hương phần lớn dựa vào cảm nhận, kinh nghiệm, đồng thuận, thông qua hành vi trực tiếp của con người như nhìn, sờ, gọt, bấm, đốt, nếm, ngửi … 2. Công dụng của trầm hương Trầm hương được biết từ hơn 2.000 năm trước, có rất nhiều công dụng: Trầm hương là dược liệu quý - Theo Đông y, trầm hương là vị thuốc quý hiếm, có vị cay, tính ôn, vào ba kinh: tì, vị, thận; có tác dụng dáng khí, nạp thận, bình can tráng nguyên dương, chữa các bệnh đau bụng, đau ngực, nôn mửa, hen suyển, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ sốt, cấm khẩu, thổ huyết, khó thở, kích dục …
  4. Theo Lê Trần Đức trong cuốn " Thân thế và sự nghiệp y học của Hải Thượng Lãn Ông " (1971) thì từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên nhân dân ta đã dùng trầm hương để phòng bệnh, chữa bệnh Vào thế ký thứ XIV, trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã viết về trầm hương: " Vị cay, khí rất thơm, tính ấm, thông quan, trị phong độc, trúng độc, trừ tà, ấm dạ dày, bổ nguyên dương, tiêu hoá ". Trong tác phẩm Lĩnh Nam bản thảo (quyển thượng và quyển hạ) thuộc bộ sách Hải thượng y tông tâm lĩnh của Hai Thượng Lãn Ông cũng như trong cuốn " Tủ thuốc nhân dân " (1953 - 1954) của Võ Văn Hưng ; " Việt Nam dược vật thực dụng " (1957) của Đỗ Phong Thuần; " Đông y gia truyền " (1957) của Lê Văn Khuyên; " Dược liệu Việt Nam " (1978); " Y học Cổ truyền dân tộc " ( tập II - 1985) của Trường Đại học Y dược Hà Nội ; " Hiểu biết cơ bản về phương dược theo Y học cổ truyền " (1983) của Nguyễn Trung Hoà; " Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam " (tái bản năm 2004) của Đỗ Tất Lợi và nhiều tài liệu khác về dược liệu, đông y, đều cho trầm hương là dược liệu qúy, sử dụng trong hàng trăm bài thuốc y học cổ truyền, chữa bịnh rất hiệu nghiệm. - Theo Tây y, trầm hương có tính kháng sinh, tạo kháng thể mạnh (diệt khuẩn, làm lành vết thương), có tác dụng chữa một số bệnh như bệnh về tim mạch (suy tim, đau ngực), bệnh về hô hấp (hen suyễn), bệnh về thần kinh (an thần, mất ngủ, giảm đau, trấn tĩnh …), bệnh về tiêu hoá (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy), bệnh về tiết niệu (bí tiểu tiện). Đặc biệt có thể dùng trầm hương để chữa trị ung thư tuyến giáp. Tính chất đặc biệt của tinh dầu trầm hương Tinh dầu được chiết suất từ trầm hương hoặc từ gỗ cây dó đã tạo trầm hương, là chất lỏng sánh, nhớt, dẻo, màu vàng hoặc màu hổ phách, có mùi thơm đặc trưng. Tinh dầu tốt được chiết suất từ trầm hương lọai tốt và ngược lại. Tuy nhiên, những cây dó bầu sinh trưởng lâu năm (hơn 10 măm trở lên) có thể cho tinh dầu, nhưng chất lượng thấp.
  5. Tinh dầu có giá trị đặc biệt là dùng làm chất định hương (giữ cho hương thơm lâu và đậm mùi), được sử dụng cho sản xuất các loại chất thơm, các loại nước hoa, mỹ phẩm cao cấp, đắt tiền và có tính chất huyền bí, linh thiêng đối với một số tôn giáo, nhất là đối với Hồi giáo. Mùi thơm của tinh dầu trầm hương vừa phảng phất mùi của đinh hương, vừa có mùi thơm của hoa hồng. Nhờ có tinh dầu trầm mà các hoá mỹ phẩm toát ra mùi thơm êm dịu và quyến rũ bậc nhất. Các loại phấn sáp, các loại kem, các loại nước hoa có tinh dầu trầm là một hợp chất rất huyền dịu, có khả năng làm biến đổi những đặc tính bên ngoài và bên trong của làn da như xoá vết nám, vết mụn, vết tàn nhang … làm cho lổ chân lông mở ra hay hẹp lại theo sự thay đổi của khí chất mà không tạo ra những phản ứng phụ cho da. Sử dụng hoá mỹ phẩm có tinh dầu trầm làm cho da dẻ mát dịu, con người thêm tươi tắn, hưng phấn, vì thế chúng được xem như là người bạn vĩnh hằng của sắc đẹp. Tính hấp dẫn của hương trầm Trầm hương có tính chất cháy cao, khi đốt tỏa mùi rất thơm và được cho là hương thơm hữu ích bật nhất. Nhiều nước phương Đông có tập quán đốt trầm hương hoặc nhang sản xuất từ trầm hương trong dịp cúng lễ tổ tiên, đất trời, thần thánh; đốt trầm hương để chữa bệnh, trừ tà, tạo sự may mắn, hưng phấn. Một số tôn giáo đốt trầm hương trong các nghi lễ được xem là vật giao lưu truyền cảm giữa con người của thế giới thực tại với thế giới thần linh. Từ thời cổ xưa đến thế giới ngày nay, trong các cung điện, đền đài nguy nga tráng lệ, các chùa chiềng, thánh thất, đình miếu … đốt trầm hương được coi là hình thức dâng cúng linh thiêng cao quý nhất. Ở Nhật Bản ngày xưa cũng như ngày nay, sử dụng trầm hương là thể hiện nét thẩm mỹ, quyền lực kinh tế và chính trị. Thế kỷ thứ II sau công nguyên, người xưa dùng trầm hương lót ở đáy giếng (giếng vuông) khi xây kinh đô Champa ở Trà Kiệu, (Quảng Nam), đến khi giới khảo cổ phát hiện vẫn còn mùi thơm.
  6. Trầm hương còn sử dụng vào các mục đích khác như: Làm vật cất giữ có giá trị, làm quà biếu bang giao, làm vật trang trí đặc biệt nơi ở của vua chúa, của các vị chức sắc tôn giáo cấp cao; mang theo bên mình hoặc cất giữ trong nhà để phòng gió độc, tạo sự may mắn. Trầm hương còn dùng để ướp xác, để chế tác đồ thủ công mỹ nghệ và một số vật dụng khác … 3. Nhu cầu và thị trường mua bán trầm hương Trầm hương có nhiều công dụng đặc biệt, khó có sản phẩm thay thế. Nhu cầu trầm hương vào mục đích làm thuốc chữa bệnh, làm hương liệu sản xuất hoá mỹ phẩm và dùng vào mục đích tín ngưỡng ngày càng gia tăng. Theo CITES, khối lượng mua bán trầm hương trên thị trường thế giới thời kỳ 1995 - 1997 khoảng 1.350 tấn (số liệu của Đài Loan trong khoảng thời gian này hơn 2.050 tấn). Theo thống kê của TRP, khoảng 5 năm gần đây khu vực Đạo giáo và Hồi giáo sử dụng hơn 2.500 tấn trầm các loại. Ngành hoá mỹ phẩm mỗi năm nhu cầu khoảng 5.000 lít tinh dầu trầm hương loại tốt, nhưng mới đáp ứng được khoảng 100 lít. Trầm hương mua bán trên thị trường hầu hết là khai thác từ thiên nhiên. Các nước có nguồn trầm hương cung cấp cho thế giới tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á và vài nước Nam Á như Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan. Tuy nhiên, nạn khai thác trầm hương vào những thập niên cuối của thế kỷ XX có tính chất hủy diệt cây dó, làm cho nguồn cung cấp trầm hương trên thị trường ngày càng cạn kiệt. Chẳng hạng năm 1993, Indonesia khai thác và xuất khẩu hơn 661 tấn thì năm 1997 chỉ còn 302 tấn; tương tự như Indonesia, Malaysia từ 43,6 tấn còn 21,6 tấn; Campuchia năm 1995 khai thác và xuất khẩu 133,8 tấn thì 3 năm sau chỉ còn 13,2 tấn; Ấn Độ năm 1995 xuất khẩu 15,1 tấn thì năm 1997 chỉ còn 1,4 tấn. Ở Việt Nam, theo thống kê của ngành Thương mại từ năm 1986-1990, khai thác và xuất khẩu khoảng 1.163,9 tấn trầm hương. Nhưng cũng giống như các nước là số lượng ngày càng giảm sút. Chẳng hạn năm 1985 khai thác và xuất khẩu 216,1 tấn thì năm 1990 chỉ còn 73,4 tấn.
  7. Trầm hương được mua bán dưới nhiều hình thái khác nhau, nhưng các nước có nguồn trầm hương, phần nhiều là xuất khẩu dạng mảnh, miếng chiếm 95%, dạng gỗ chiếm 3%, dạng bột chiếm hơn 1% và tinh dầu dưới 1%. Vừa qua, hiện nay và những năm tiếp theo khối lượng trầm hương mua bán trên thị trường sẽ giảm sút nghiêm trọng do nguồn cung cấp từ thiên nhiên đã cạn kiệt và bị ràng buộc bởi sự kiểm soát của Chính phủ các nước và Công ước Quốc tế cấm mua bán các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), nên cung cách xa cầu, làm cho giá cả ngày càng tăng lên. Chẳng hạng, một kg kỳ nam, thập niêm 80 giá từ 1.500 - 5.000 USD, nay tăng lên 15.000 - 50.000 USD (theo lọai); trầm hương loại 1 từ 800 - 1.200 USD, lên 7.000 - 8.000 USD; các loại khác cũng có mức tăng từ 10 đến 15 lần. Tinh dầu trầm hương hiện nay tùy theo chất lượng, xuất xứ và công nghệ sản xuất, có mức chào bán từ 5.000 đến 80.000 USD/lít. Thị trường mua bán trầm hương và các sản phẩm trầm hương chủ yếu là Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Singapore (70% tái xuất)); thị trường tiêu thụ trực tiếp là các nước ?rập, Nhật Bản (lọai trầm hương tốt), khu vực Hồi giáo, Phật giáo và các ngành hương liệu mỹ phẩm, đông y, dược phẩm. 7. Trồng cây dó, tạo trầm hương Trồng cây dó Những năm cuối thập niên 80 của thề kỷ XX, một số người chuyên khai thác trầm hương (dân điệu) ở Tiên Phước (Quảng Nam), Hoài Ân (Bình Định)...đã đưa cây dó bầu từ rừng tự nhiên về trồng ở vườn nhà . Sau đó vài ba người đã mày mò tạo trầm hương trên cây dó, bước đầu có kết quả. Từ đây cây dó được trồng rãi rác ở các tỉnh miền Trung và một số dự án, đề tài nghiên cứu về cây dó và trầm hương được khởi động, trong đó một số đề tài nghiên cứu đáng lưu ý như: Biện pháp gây tạo giống cây dó; các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành trần hương trên cây dó; kỹ thuật tạo trầm hương trên cây dó (1987 - 2000) của Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam và dự án sản xuất cây giống, tạo trầm trên cây dó (2001 - 2006) của Tổ chức rừng mưa nhiệt đới (TRP).
  8. Từ kết quả nghiên cứu và thực tiễn trồng cây dó bầu tạo trầm hương, khỏang ba bốn năm lại đây, qua thông tin từ các cuộc hội thảo, từ các báo, đài, từ các tổ chức và cá nhân, đã tác động đến nhiều người (nghe hiệu quả kinh tế cao), làm dấy lên phong trào trồng cây dó bầu khắp các miền trong cả nước, tập trung chủ yếu là khu vực miền Trung, miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Theo ghi nhận của Hội trầm hương Việt Nam, diện tích trồng cây dó bầu cả nước hiện nay khoảng 15.000-18.000 ha (tương ứng với 15 - 18 triệu cây dó từ 1 măm tuổi trở lên). Nơi có diện tích trồng cây dó bầu nhiều nhất là Hà Tĩnh khoảng 3.000 ha, Bình Phước khoảng 1.000 ha. Tính pháp lý của việc trồng cây dó bầu đã được Bộ NN & PTNT xác lập tại quyết định số 16/QĐ.BNN, ngày 15/3/2005 (cây dó bầu - Aquilaria crassna thuộc danh mục cây trồng rừng sản xuất ở 6/9 vùng sinh thái lâm nghiệp). Những mô hình và phương thức trồng cây dó bầu phổ biến hiện nay là trồng phân tán, trồng xen trong với các lọai cây khác (phần lớn thuộc hộ gia đình, quy mô rất nhỏ); trồng tập trung thuần lọai (phần lớn thuộc các Cty tư nhân, chủ các trang trại, quy mô từ 2ha trở lên). Các mô hình khác như trồng làm giàu rừng (phòng hộ, sản xuất), hợp tác trồng giữa hộ gia đình với doanh nghiệp… có, nhưng chưa nhiều. Đã có một vài dự án trồng cây dó bầu, tạo trầm, chế biến xuất khẩu được triển khai gần đây, nhưng quy mô không lớn. Thực tiễn cho thấy, phương thức trồng xen cây dó bầu với cây lấy quả, cây lấy gỗ là phù hợp nhất; trồng tập trung thuần lọai chỉ nên áp dụng đối với những nơi có điều kiện về nguồn nước tưới và vốn đầu tư nhiều. Lòai cây trồng phổ biến hiện nay là dó bầu và dó me (chủ yếu là dó bầu), được tạo bằng phương pháp gieo hạt. Nguồn cung cấp hạt giống là những cây dó bố mẹ còn lại trong rừng tự nhiên và từ một số cây trồng vào thập niêm 80, 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở sản xuất giống cây là của tư nhân, hạt giống thu hái từ những cây chưa tuyển chọn đầu dòng hoặc cây chưa thành thục sinh dục, kỹ thuật gieo ươm hạn chế, làm cho chất lượng giống cây còn những điều đáng lo ngại.
  9. Cây dó trồng đã xuất hiện một số lòai sâu gây hại, chủ yếu là sâu ăn lá, thường diễn ra vào mùa khô, trên những cây vài năm tuổi trở lên. Một số bệnh như nấm trắng, nhất là bệnh thối vỏ quanh gốc cây thường diễn ra vào cuối mùa mưa, gây héo lá, chết cây từ 3-4 năm tuổi trở lên và bệnh này có hiện tượng lây lan. Sâu ăn lá và nấm trắng đã có thuốc chữa trị, nhưng bệnh thối vỏ quanh gốc cây, hiện nay chưa tìm ra tác nhân gây bệnh và chưa có thuốc đặc trị. Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh cho cây là chọn đất, giống và chế độ canh tác thích hợp. Tạo trầm trên cây dó trồng Đã có thành công bước đầu về tạo trầm ở cây dó trên cả hai phương diện nghiên cứu và thực tiễn. Những cây dó đủ điều kiện để tạo trầm thường có thời gian sinh trưởng 5 năm tuổi trở lên, đường kính thân 15-18cm, cây sinh trưởng bình thường. Các phương pháp tạo trầm đang áp dụng hiện nay là: + Phương pháp gây tổn thương: đục khoét hoặc đóng sắt vào thân cây. Cách này dễ làm, ít tốn kém, nhưng lâu cho trầm và chất lượng thấp. + Phương pháp sinh học: Tạo nem (vi sinh) rồi cấy vào thân cây. Cách này khó làm, ít người biết, giá thành cao, nhưng an toàn về mặt sử dụng sản phẩm. + Phương pháp hoá chất: Tạo hỗn hợp hóa chất rồi cấy vào thân cây. Cách này phức tạp, nhanh cho trầm, nhưng có thể lưu lại một phần hoá chất có hại. + Một số cách tạo trầm khác như kết hợp một số phương pháp trên với nhau. Hiện đã có sáng chế tạo trầm của các ông: Balnchette; Robert A (Shoreview, MN); Van Beek; Henry Heuveling (Amsterdam, NL) trong dự án TRP ở nước ta. Tuy nhiên, việc chuyển giao công nghệ này cho người dân, còn phải chờ. Mỗi phương pháp tạo trầm hương cho kết quả không giống nhau về số lượng, chất lượng, thời gian và phí tổn, nhưng có thể khẳng định con người đã tạo được trầm hương trên cây dó là rõ ràng (sau 2 năm tạo có thể thu được trầm hương lọai 5, lọai 6 từ 1 đến vài ba kg/cây). Hiện nay những tổ chức và cá nhân nắm được kỹ thuật tạo trầm chưa nhiều, họ thường giữ bí mật, coi đó là bí quyết riêng. Đã có một số doanh nghiệp, cá nhân chuyên lo dịch vụ tạo trầm hương trên cây dó trồng (trong đó có
  10. phương pháp tạo trầm bằng vi sinh du nhập từ Thái Lan), nhưng chưa có cơ sở chắc chắn cho sự thành công của các dịch vụ này về mặt khoa học và pháp lý. Chế biến trầm hương nhân tạo và thị trường Trầm hương nhân tạo chưa nhiều và chất lượng còn thấp, thường dùng làm nguyên liệu chế tác trầm cảnh, làm bột sản xuất nhang thơm và để chưng cất tinh dầu. Công đọan chế tác trầm hương đầu tiên là tách phần gỗ nhiễm dầu (trầm hương) ra khỏi phần gỗ chưa nhiễm dầu bằng những công cụ thô sơ (rìu, đục, dũm…) với lao động thủ công có tay nghề (xỉa trầm). Sản phẩm thu được là trầm hương có dạng miếng, mảnh, thanh … Chiết xuất tinh dầu trầm hương có thể dùng phương pháp tẩm trích, lôi cuốn bằng khí CO2 hoặc hơi nước… Việc sản xuất tinh dầu TH của ta hiện nay chủ yếu bằng phương pháp chưng cất thủ công truyền thống. Các công đọan chưng cất theo phương pháp này gồm: Băm, nghiền trầm hương hoặc cây dó đã tạo trầm hương thành bột, sau đó ngâm nước rồi cho vào nồi chưng cất. Sản phẩm chính thu được là tinh dâu và sản phẩm phụ là bột dùng cho sản xuất nhang. Các cơ sở sản xuất tinh dầu trầm hương hiện nay có ở Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Bình Định và TTp Hồ Chí Minh…, nhưng sản lượng chưa nhiều (khỏang vài chục lít/năm) do khan hiếm nguyên liệu (phải có 4-5 tấn cây dó mới tạo trầm hoặc 2-3 tấn đầu ngông, xát trầm mới thu được 1 lít dầu), chất lượng dầu chưa cao, do nguyên liệu chưa chuẩn (cây dó tạo trầm hương không đồng lọat, thu gom nhiều nơi không đồng lọai…) và công nghệ chế biến thủ công, nên giá bán chỉ trong khỏang 5.000 - 9.000 USD/lít FOB. Chưa có văn bản nào của cấp có thẩm quyền quy định hay xác nhận về tiêu chuẩn chất lượng tinh dầu trầm hương Việt Nam theo thông lệ Quốc tế. Việc đánh giá chất lượng tinh dầu chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, xem mùi, màu sắc, thời gian lưu mùi.
  11. Thị trường mua bám trầm hương nhân tạo (trầm mảnh, trầm cảnh, tinh dầu) ở nước ta diễn ra chủ yếu tại Tp HCM. Giá trầm mảnh lọai 5 đẹp từ 1,5 - 2 triệu/kg (bằng 50-60% giá trầm hương thiên nhiên), trầm cảnh giá bán từ 5 - 50 triệu, thậm chí nhiều hơn, tùy theo số chi, màu sắc, hình dáng, nét thẩm mỹ của người tiêu dùng… Tinh dầu trầm hương nhân tạo có giá bán từ 80 - 120 triệu/lít. Các thương nhân có quan hệ mua trầm hương nhân tạo với nước ta thường là người Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, đôi khi có người ẢRập và Tây Âu. Một số doanh nghiệp nước ta (chủ yếu là ở Tp HCM) đã nhập khẩu trầm hương và tinh dầu của Malaysia, Indonesia để tái chế sau đó tái xuất. Việc xuất khẩu trầm hương nhân tạo, trầm hương nhập khẩu được Nhà nước cho phép theo xác nhận của tổ chức CITES III. HIỆU QUẢ, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG 1. Hiệu quả kinh tế Dó bầu là cây đa dụng, có thể cho những sản phẩm như: + Gỗ làm đồ gia dụng, làm bột giấy, bột nhang; + Lá làm dược liệu; + Vỏ làm sợi; + Sản phẩm chính của cây dó bầu là trầm hương, phần có giá trị nhất. Hiệu quả kinh tế của trồng cây dó bầu, tạo trầm hương, chế biến, xuất khẩu rất khả quan. - Trường hợp bán cây dó nguyện liệu (cây dó trồng đã trưởng thành: đường kính thân 18-20cm, cao 5-6 m, trọng lượng bình quân 100kg tươi/cây, khỏang 7-8 năm tuổi), chưa tạo trầm (người mua sẽ tạo trầm), giá hiện nay là 500.000 đồng/cây. Nếu 1 ha trồng thuần lọai khỏang 1.300 cây (tỷ lệ sống 80% ~ 1.000 cây khi bán) thì doanh thu sẽ là 500 triệu, trừ chi phí trồng, chăm sóc, bảo vệ và phí tổn vốn khỏang 50 triệu, thu nhập trước thuế là 450 triệu/ha/CKSX 10 năm (giá trị tạo ra bình quân 50 triệu/ha/năm).
  12. - Trường hợp bán cây dó đã tạo trầm hương (thời gian tạo trầm khỏang 2 năm) lượng trầm hương thu được bình quân 1 kg lọai 5/cây,giá bán 100 USD/kg (khỏang1,5 triệu/kg) thì 1 ha trồng thuần lọai có doanh thu là 1,5 tỷ đồng, trừ chi phí đầu tư (kể cả chi phí vốn) khỏang 540 triệu, thu nhập trước thuế là 960 trtiệu/ha/CKSC 10 năm (giá trị tạo ra bình quân 150triệu/ha/năm). - Trường hợp sử dụng tòan bộ cây dó đã tạo trầm để chưng cất tinh dầu (mức tiêu hao 5.000 kg cây dó tươi đã tạo trầm cho 1 lít dầu), và giá bán 6.000 USD/lít (khỏang 90 triệu đồng), thì giá trị tạo ra khỏang 1,8 tỷ/ha, trừ chi phí khỏang 600 triệu, thu nhập trước thuế khỏang 1,2 tỷ/ha/CKSX 10 năm (giá trị tạo ra bình quân 180 triệu/ha/năm). Một số tính tóan về chi phí và hiệu quả các lọai hình kinh doanh: Ngòai hiệu quả kinh tế trực tiếp, trồng cây dó bầu tạo trầm hương còn: + Tạo công ăn việc làm cho người lao động, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho nông thôn, vùng sâu vùng xa; + Tạo nguồn nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến tinh dầu, công nghiệp hương liệu, mỹ phẩm và dược phẩm. + Tạo nguồn hàng xuất khẩu giá trị lớn, hiệu quả cao. + Tăng độ che phủ của rừng, chống xói mòn đất, giữ nước, bảo vệ môi trường. + Bảo tồn và phát triển lòai cây đặc hữu, qúy hiếm, có giá trị đặc biệt về khoa học và kinh tế của nước ta. Đó còn là sự phù hợp của quy luật sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, làm giàu trên cơ sở khai thác và tái tạo lợi thế đặc hữu, ưu việt của tài nguyên Quốc gia. 2. Thách thức và triển vọng
  13. Cây dó bầu được trồng và đã tạo ra trầm hương, cho hiệu quả kinh tế cao, nhưng đó mới là kết quả bước đầu, có tính chất tự phát, riêng lẻ. Để SX trầm hương nhân tạo (trồng cây dó, tạo trầm hương, chế biến, xuất khẩu) trở thành ngành kinh tế SX hàng hóa hiệu quả cao dựa trên lợi thế "trời cho" của nước ta, phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức: * Trước hết là ở cấp quốc gia chưa có chiến lược phát triển rõ ràng đối với cây dó cho trầm hương. NĐ số 18/HĐBT, ngày 17/01/1992 của Hội đồng bộ trưởng xác định cây dó (Aquilaria crassna) là một trong những lọai thực vật đặc hữu, có giá trị đăc biệt về khoa học và kinh tế, có số lượng và trữ lượng rất ít, đang có nguy cơ diệt chủng; nghiêm cấm khai thác, sử dụng; khuyến khích, hổ trợ mọi tổ chức và cá nhân bảo vệ, phát triển nguồn lợi qúy hiếm này. Nhưng mãi tới 13 năm sau (2005), Bộ NN & PTNT mới chính thức đưa cây dó bầu vào danh mục cây trồng rừng SX ở 6/9 vùng sinh thái lâm nghiệp. Trước đó (1998) trong dự án cấp quốc gia về trồng mới 5 triệu ha rừng, lòai cây đặc biệt qúy hiếm này cũng không có mặt chính thức trong danh sách cây trồng chủ yếu của dự án. Không có chiến lược, không quy họach nên cây dó bầu không có đất trồng chính thức, không có nguồn cung cấp tín dụng và nhiều "cái không" nữa dành cho lòai cây này. Một vài số liệu tính tóan hết sức thú vị về lòai cây này: Nếu có 100 triệu cây dó bầu trồng đã trưởng thành (tương ứng với 100.000 ha trồng thuần lọai), tác động cho mỗi cây tạo ra 1 kg trầm hương lọai 5 (điều này rất hiện thực), với giá bán thấp nhất hiện nay 100 USD/kg (bằng 50% giá trầm hương thiên nhiên cùng lọai), thì giá trị tạo ra sẽ là 10 tỷ USD/CKSX 10 năm. Hoặc tòan bộ cây dó đã tạo trầm như trên, chế biến thành tinh dầu (50cây/lít), giá bán 6.000USD/lít, thì giá trị tạo ra là 12 tỷ USD. Dĩ nhiên muốn có 10 - 12 tỷ USD, trong đó thu nhập trước thuế ít nhất là 4-5 tỷ USD, trước hết cần có 100.000 ha đất hoặc hơn và khỏang 60.000 tỷ VNĐ vốn đầu tư. Đó là một thách thức không nhỏ! - Thách thức thứ hai là trồng cây dó, tạo trầm hương, chu kỳ SX tương đối dài ngày (khoảng 10 năm), vốn đầu tư lớn (hơn 500 triệu/ha), sản phẩm chưa phải là mặt hàng nhu cầu thiết yếu cho SX và đời sống, nếu không có chính sách hổ trợ của Nhà nước, nhất là về tín dụng thì không dễ dàng gì phát triển nhanh ngành SX mới, có
  14. nhiều lợi thế này. Và điều đó xảy ra, nước ta sẽ chấp nhận đi sau Thái Lan, cho dù Thái Lan không có lợi thế tự nhiên bằng ta. Thử tính tóan vài số liệu để tiêu thụ 18 - 20 triệu cây dó đã trồng: Nếu mua 1 cây dó trưởng thành để tạo trầm (thời gian tạo trầm 2 năm) theo giá hiện nay là 500.000 đ, thì một DN kinh doanh ngành này (mua cây, tạo trầm, chế biến, XK) với quy mô 100.000 cây/năm, CKSX 30 tháng, DN này phải có lượng vốn ít nhất là 200 tỷ đồng mới có thể tiến hành kinh doanh bình thường. Điều này khó có DN nào đủ vốn chủ sở hữu để KD, trong khi đó các tổ chức tín dụng hầu như "lơ đũa" đối với khỏan vốn đầu tư trung hạn kiểu này cho các DN tư nhân. - Thách thức thứ ba là về công nghệ tạo trầm. Đây là khâu quyết định nhất, nhưng chưa tập trung nghiên cứu, thực nghiệm một cách bài bản, chưa tạo ra sản phẩm đồng lọat, chất lượng tương ứng và chuyển giao rộng rãi. Một thách thức khác cũng không kém phần gay cấn là thông tin về thị trường còn bất cập, rời rạc, chưa được định lượng rõ ràng (mới dựa theo số liệu thương mại lịch sử). Ngòai ra, còn những thách thức khác như: Chất lượng cây giống, các chỉ tiêu về lâm sinh đối với cây dó trồng, sự tương thích giữa các cây trồng xen, bệnh của cây, tạo trầm chất lượng cao, sự hiểu biết về tạo kỳ nam cũng như tổ chức hổ trợ nghề nghiệp … đang đặt ra khá cơ bản và bức bách. Tuy nhiên, triển vọng của việc trồng cây dó, tạo trầm hương, chế biến, xuất khẩu là rất hiện thực và hấp dẫn: Một là, trồng cây dó, tạo trầm hương, chế biến, xuất khẩu, hiệu quả kinh tế rất cao. Đây là động lực trực tiếp thúc đẩy các tổ chức và cá nhân đầu tư vào ngành SX mới này. Thật hấp dẫn và lý tưởng đối với sản xuất lâm nghiệp khi một ha trồng cây dó, tạo trầm hương có thể làm ra giá trị 1,5 - 1,8 tỷ đồng/CKSX 10 năm, bình quân gía trị tạo ra 150 -180 triệu ha/năm, trong đó lợi nhuận từ 50 - 60 %. Hai là, sản phẩm trầm hương, nhất là tinh dầu có thị trường tiềm năng rộng lớn vì đó là là nguyên liệu có nguồn gốc thảo dược qúy hiếm mà ngành hương liệu - mỹ phẩm hướng tơi để cho ra những sản phẩm nước hoa, mỹ phẩm được coi là người bạn vĩnh hằng của sắc đẹp và sự quyến rũ của phụ nữ, nhất là tầng lớp phụ nữ thượng lưu,
  15. có thu nhập cao…. Các ngành đông y, dược phẩm, các lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là Hồi giáo và Phật giáo, có nhu cầu sử dụng trầm hương ngày càng nhiều. Đây chính là thị trường hiện thực, lý tưởng, có khả năng thanh tóan nhanh của ngành SX trầm hương nhân tạo nước ta. Ba là, sự khan hiếm về nguồn cung cấp trầm hương (thiên nhiên cạn kiệt, sự phục hồi tự nhiên hết sức lâu dài ) làm cho giá cả có xu hướng ngày càng tăng. Điều này thật sự có lợi cho ngành SX trầm hương nhân tạo. Một điều hết sức may mắn là cây dó bầu cho trầm hương nhiều và tốt chỉ có ở nước ta và một vài rất quốc gia (Campuchia, Lào). Đó là lợi thế so sánh hết sức quan trọng .Từ kinh nghiệm thành công bước đầu về trồng cây dó, tạo được trầm, cùng với khát khao làm giàu, tính năng động sáng tạo của người Việt Nam, có sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sẽ là cơ hội cho ngành SX trầm hương nhân tạo nước ta phát triển ./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2