Trích dẫn trong nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm trả lời phản <br />
biện quốc tế<br />
Dương Minh Thành, Khoa Giáo dục Tiểu học<br />
Email: thanhdmi@hcmup.edu.vn, điện thoại: 0908453764<br />
<br />
<br />
Tóm tắt. Trích dẫn và cách thức trả lời phản biện là những kĩ năng không thể <br />
thiếu của một nhà khoa học. Mục đích của báo cáo nhằm giới thiệu những <br />
nguyên tắc trong trích dẫn và một số kinh nghiệm trả lời phản biện khi gửi <br />
đăng bài báo tới một tạp chí khoa học quốc tế.<br />
Abstract. Citing and replying to peer review comments are indispensable skills of <br />
a scientist. The aim of this report is to introduce principles of citation and some <br />
experiences of replying to peer review comments when submitting papers to an <br />
international scientific journal.<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
<br />
Trong báo cáo này chúng tôi muốn bàn luận một vấn đề liên quan đến kinh <br />
nghiệm và kĩ năng trong nghiên cứu khoa học chứ không hẳn là một báo cáo khoa <br />
học. Lúc nhận được lời đề nghị từ phía những người tổ chức Hội thảo Khoa học <br />
Cán bộ trẻ Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh lần thứ I – năm 2015, chúng <br />
tôi khá băn khoăn về việc chọn một nội dung báo cáo phù hợp với chủ đề “Cán bộ <br />
trẻ với khoa học giáo dục”. Từ sự gợi ý của họ, chúng tôi nhận ra cần phải nói về <br />
một vấn đề gì đó mà ai cũng có thể bắt gặp, có thể tham gia đóng góp ý kiến nhưng <br />
không kém phần quan trọng đối với một người làm khoa học. Vấn đề trích dẫn và <br />
kinh nghiệm trả lời phản biện quốc tế trong nghiên cứu khoa học có thể đáp ứng <br />
được những tiêu chí này.<br />
Trích dẫn trong nghiên cứu khoa học không phải là vấn đề mới mẻ, nó đã được <br />
đề cập trong hầu hết giáo trình về nội dung, phương pháp nghiên cứu khoa học ở <br />
trường đại học cũng như nó đã được thực hiện bởi bất kì ai đã từng viết tiểu luận, <br />
làm luận văn tốt nghiệp hoặc xa hơn là thực hiện các nghiên cứu khoa học. Tuy <br />
nhiên, theo đánh giá của chúng tôi, đây chẳng bao giờ là vấn đề đơn giản, nhiều <br />
người đã không hiểu đúng, thậm chí ngộ nhận. Từ việc không hiểu đúng hoặc ngộ <br />
nhận có thể dẫn đến việc không thực hiện đúng, chủ quan hoặc cố tình không thực <br />
hiện. Nhiều dẫn chứng đã chỉ ra rằng những sai sót trong việc trích dẫn có thể gây <br />
tác hại không nhỏ đến sự nghiệp nghiên cứu của một nhà khoa học.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Liên quan đến việc trả lời phản biện quốc tế, kinh nghiệm của chúng tôi cho <br />
thấy, việc này có mối liên hệ mật thiết với vấn đề trích dẫn. Hầu hết các ý kiến <br />
phản biện đối với những bài báo khoa học của chúng tôi đều ít nhiều đề cập đến <br />
những kết quả trích dẫn trong đó. Bên cạnh đó, hiểu đúng vai trò của phản biện để <br />
từ đó đưa ra những trả lời xác đáng giúp ích nhiều, thậm chí có vai trò quyết định <br />
cho việc bài báo khoa học có được nhận đăng hay không.<br />
Để hoàn thành bản báo cáo này, chúng tôi dựa chủ yếu trên tài liệu (Nguyễn <br />
Văn Tuấn 2013) kết hợp với một số kinh nghiệm thực tế của bản thân trong việc <br />
gửi đăng bài báo khoa học và trả lời các phản biện của một số tạp chí quốc tế. Mặc <br />
dù chúng tôi đưa ra ví dụ chủ yếu trong chuyên ngành Toán học nhưng những <br />
nguyên tắc và kinh nghiệm được đề cập có thể bắt gặp trong bất cứ chuyên ngành <br />
khoa học nào.<br />
2. Tại sao phải trích dẫn<br />
<br />
Nghiên cứu khoa học luôn gắn liền với trích dẫn. Trích dẫn cho phép nhà khoa <br />
học diễn giải cơ sở để từ đó đề xuất ý tưởng, cung cấp nguồn gốc của phương <br />
pháp sử dụng trong nghiên cứu, cách thức tiến hành nghiên cứu, cuối cùng là đánh <br />
giá, bình luận và thiết lập được mối liên hệ giữa kết quả nghiên cứu với những kết <br />
quả khác đã công bố trước đó. <br />
Theo (Nguyễn Văn Tuấn, 2013), việc trích dẫn chứng tỏ người viết am hiểu <br />
kiến thức hiện hành trong chuyên ngành, tức là hiểu được sự phát triển của tri thức <br />
khoa học chuyên ngành ở thời điểm thực hiện nghiên cứu. Do đó việc trích dẫn <br />
trong bài báo của một nhà khoa học cho ta thấy nhà khoa học đó có thường xuyên <br />
cập nhật kiến thức chuyên ngành mới hoặc nghiên cứu đó có đi cùng dòng chảy với <br />
những nghiên cứu khác trong cùng chuyên ngành hay không.<br />
Việc trích dẫn không đúng nguyên tắc, không cẩn thận hoặc không trích dẫn <br />
có thể dẫn đến “đạo văn”. Đạo văn (plagiarism) được hiểu là sử dụng ý tưởng, <br />
phương pháp và câu văn của người khác mà không ghi rõ nguồn gốc. Đạo văn là một <br />
vấn đề nghiêm trọng liên quan đến đạo đức khoa học mà bất cứ một nhà khoa học <br />
nào cũng cần phải hiểu rõ để tránh.<br />
3. Nguyên tắc trích dẫn<br />
3.1. Trích dẫn đúng nguồn gốc<br />
Khi sử dụng một kết quả của một ai đó, tác giả bài báo phải trích dẫn đúng tài <br />
liệu là nguồn gốc của kết quả đó (gọi tắt là tài liệu gốc). Trong trường hợp không <br />
trích dẫn đúng nguồn gốc, phản biện của tạp chí có thể yêu cầu tác giả cung cấp <br />
thông tin về tài liệu gốc.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2<br />
Ví dụ. Phản biện của tạp chí yêu cầu như sau: <br />
“…the reference [AB10] in the first line is not the good one. It should be <br />
replaced by a reference to Lemma 2.1 in the paper I. Bajo and S. Benayadi <br />
(1997), Lie algebras admitting a unique quadratic structure, <br />
Communications in Algebra, 25(9), 27952805 …” <br />
khi phát hiện việc trích dẫn ở đây không đúng với tài liệu gốc.<br />
Việc trích dẫn đúng nguồn gốc chứng tỏ tác giả bài báo ghi nhận công lao của <br />
người phát kiến và đưa ra được điểm xuất phát của vấn đề. Tuy nhiên cũng có <br />
trường hợp không thể trích dẫn tài liệu gốc (vì tác giả không có điều kiện tiếp cận <br />
với tài liệu gốc) thì tác giả phải nói rõ, chẳng hạn: <br />
“The first examples were given in (Dixmier, 1920, cited in Lee, 1985)”.<br />
Trường hợp này được gọi là trích dẫn thứ phát. Trích dẫn thứ phát có thể được <br />
chấp nhận nhưng phải có lí do hợp lí (chẳng hạn tài liệu gốc đã có từ rất lâu, rất <br />
khó để tìm thấy). Đối với những người làm khoa học thì nên tránh trích dẫn thứ phát <br />
vì chúng có thể ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu và làm giảm cảm tình của <br />
phản biện bài báo khoa học.<br />
3.2. Tất cả kết quả quan trọng về mặt lý thuyết và phát biểu về mặt dữ liệu đều <br />
phải trích dẫn.<br />
Trong Toán học, một kết quả được gọi là quan trọng (hay còn gọi là không <br />
tầm thường) nếu có nhiều tác giả khác đề cập và công nhận (bằng cách trích dẫn). <br />
Nếu tác giả bài báo không trích dẫn đối với một kết quả quan trọng nào đó thì phản <br />
biện có thể phải nhắc nhở tác giả.<br />
Ví dụ.<br />
“… The link of the paper with existing literature should be carefully <br />
established and eventually extended the well known object (see for example <br />
Dixmier’s book: Enveloping algebras or previous literature) …”.<br />
“… there is not any such reference in the submitted paper …”.<br />
“… Some lines later (in section 7.1) the authors recall the notion of <br />
quadratic dimension of quadratic Lie algebras and the formula of this <br />
dimension in the case of reductive Lie algebras, proved in Corollary 2.1 in :<br />
S. Benayadi, Socle and some invariants of quadratic Lie superalgebras, <br />
Journal of Algebra 261 (2003), 245291. <br />
The reference to this paper should be added …”.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
“In Section 2 it would be necessary to mention Theorem 3.1 in [BBB], besides <br />
the already given …”.<br />
Có những kết quả không thực sự quan trọng hoặc dễ dàng hiểu được thì không <br />
cần phải trích dẫn cho dù kết quả đó đã từng xuất hiện ở đâu đó. Nói một cách <br />
khác, một nhà khoa học có thể phát hiện ra nhiều kết quả nhưng không có nghĩa <br />
toàn bộ chúng đều có giá trị đến mức những người đi sau phải trích dẫn. Những <br />
người đi sau có quyền chọn lọc, đánh giá kết quả xem có xứng đáng trích dẫn hay <br />
không. Do đó nếu được trích dẫn một kết quả nào đó, nhà khoa học sẽ cảm thấy <br />
vinh hạnh vì kết quả của mình được đồng nghiệp ghi nhận và đánh giá cao.<br />
Bên khoa học thực nghiệm cũng tương tự, những kiến thức phổ biến, quen <br />
thuộc với nhiều người thì không cần phải trích dẫn. <br />
Việc lạm dụng trích dẫn, trích dẫn kể cả những kết quả không quan trọng <br />
hoặc những kiến thức phổ biến có thể làm giảm giá trị của bài báo và đưa đến việc <br />
phản biện đánh giá thấp tác giả bài báo (chẳng hạn họ có thể đánh giá tác giả không <br />
hiểu biết nhiều về chuyên ngành).<br />
3.3. Không trích dẫn tài liệu mà người viết chưa đọc<br />
Khi muốn trích dẫn kết quả nằm trong một tài liệu nào đó tác giả bài báo phải <br />
có tài liệu đó trong tay để kiểm chứng kết quả và xem xét liệu có mối liên hệ thực <br />
sự giữa kết quả đó với kết quả của mình hay không.<br />
Đôi khi trong quá trình bình duyệt bài báo, phản biện sẽ chỉ ra một số tài liệu <br />
cần phải trích dẫn (nhưng không có trong danh mục tài liệu tham khảo của bài báo) <br />
thì tác giả bài báo cần phải tìm đọc cẩn thận những tài liệu đó.<br />
Ví dụ. <br />
“Also an explanation in order to clarify the work here, should be given in <br />
relation to:<br />
Albuquerque, Helena; Barreiro, Elisabete; Benayadi, Said Quadratic Lie <br />
superalgebras with a reductive even part. J. Pure Appl. Algebra 213 (2009), no. <br />
5, 724 – 731”.<br />
“It would be necessary to review these references in order to complete the <br />
presentation of the work”.<br />
Không được phép trích dẫn những tài liệu chỉ nhằm mục đích mượn danh nâng <br />
giá trị bài báo của tác giả lên mà không nhằm mục đích thể hiện mối liên hệ trực <br />
tiếp giữa tài liệu trích dẫn và kết quả nghiên cứu của tác giả. Thậm chí trích dẫn <br />
kết quả vì sự tôn trọng đối với tác giả kết quả đó cũng không được phép. Nếu tác <br />
giả bài báo trích dẫn tài liệu không vì mục đích khoa học thì khi gửi tới các tạp chí <br />
<br />
<br />
<br />
4<br />
đàng hoàng sẽ rất dễ bị các phản biện phát hiện. Nếu nhẹ thì phản biện sẽ yêu cầu <br />
giải thích rõ ý đồ của việc đưa tài liệu đó vào danh sách các tài liệu tham khảo. <br />
Nặng hơn thì phản biện sẽ từ chối cho đăng bài báo. Ở đây chúng ta luôn chú ý <br />
rằng, phản biện ở các tạp chí quốc tế đàng hoàng đều là chuyên gia trong lĩnh vực <br />
mà tác giả bài báo đang nghiên cứu.<br />
Một chú ý khác, nếu muốn bình luận một kết quả trong một tài liệu nào đó thì <br />
tác giả bài báo càng phải đọc cẩn thận tài liệu đó chứ không được lấy bình luận của <br />
người khác đưa vào bài báo của mình. Cho dù tác giả bài báo đồng ý với bình luận <br />
đó thì cũng phải trình bày theo một cách khác (trong tài liệu (Nguyễn Văn Tuấn, <br />
2013) có đề xuất một số cách trình bày).<br />
3.4. Những tài liệu tham khảo không có tác dụng đối với nội dung nghiên cứu thì <br />
không đưa vào danh mục tài liệu tham khảo<br />
Có nhiều người thích đưa nhiều tài liệu tham khảo vào danh mục tài liệu tham <br />
khảo như là thói quen hoặc nhằm “đánh bóng” bài báo. Đây là sở thích tai hại. Trong <br />
khoa học người ta quy ước rằng chỉ những tài liệu tham khảo có liên quan đến kết <br />
quả nghiên cứu và được đề cập trong nội dung bài báo mới được phép đưa vào danh <br />
mục tài liệu tham khảo. Cho dù một tài liệu nào đó có liên quan nhưng không đề cập <br />
bất kì ở đâu trong nội dung bài báo cũng sẽ bị phản biện hoặc ban biên tập nhắc <br />
nhở. <br />
Ví dụ.<br />
“In the bibliography there are some references, explicitly, [BB97], [Bou58], <br />
[Bou71], [FS87] and [Sam80], which are not cited within the text. It should <br />
be either removed or cited somewhere …”.<br />
3.5. Không trích dẫn những nguồn tư liệu không đáng tin cậy, không thể kiểm <br />
chứng<br />
Trong nghiên cứu khoa học, thông tin trên báo chí truyền thông hoặc phát biểu <br />
của một ai đó (cho dù người đó có uy tín cỡ nào) đều có thể được xếp vào những <br />
thông tin không được kiểm chứng và không đáng tin cậy. Do đó nhà khoa học cần <br />
phân biệt tạp chí khoa học với tạp chí phổ thông và không nên sử dụng các thông tin <br />
trên tạp chí phổ thông trong bài báo khoa học của mình.<br />
Ngược lại nhà khoa học sau khi thực hiện nghiên cứu cần gửi những kết quả <br />
tới các tạp chí khoa học chứ không nên công bố chúng trên các tạp chí phổ thông. <br />
Bởi vì các kết quả này sẽ không được sử dụng hoặc trích dẫn sau đó. Tuy nhiên vẫn <br />
có những trường hợp ngoại lệ là tạp chí phổ thông đó có uy tín trong khoa học <br />
(chẳng hạn tờ The Washington Post) thì thông tin công bố trên đó có thể coi là đáng <br />
tin cậy. Ngoài ra những số liệu trong báo cáo của những cơ quan quản lý cấp quốc <br />
<br />
<br />
<br />
5<br />
gia, những tổ chức quốc tế có uy tín (ví dụ Bộ Giáo dục Singapore, UNESCO, <br />
WHO) cũng có thể coi là những thông tin đáng tin cậy.<br />
Từ ý trên, những cơ quan quản lý cấp quốc gia, những tổ chức quốc tế có uy <br />
tín mỗi khi công bố báo cáo đều phải cung cấp số liệu đáng tin cậy. Nếu không có <br />
thể gây ra những hệ lụy khó lường cho những người sử dụng các số liệu đó.<br />
3.6. Khi trích dẫn kết quả nào đó trong bài báo quốc tế, không đề học vị và chức <br />
danh của tác giả kết quả đó (trừ phần cám ơn)<br />
Như vậy trích dẫn đúng không phải là điều đơn giản. Do đó nhà khoa học phải <br />
tập thói quen trích dẫn đúng, ban đầu có thể sẽ khó khăn và mắc một số lỗi nhưng <br />
sau một vài lần sẽ quen dần. Ngoài ra nhà khoa học phải biết lập kế hoạch và quyết <br />
định sử dụng tài liệu trích dẫn nào, phải thường xuyên cập nhật các tài liệu trích <br />
dẫn để tránh lạc hậu trong nghiên cứu, phải kiểm tra cẩn thận danh mục tài liệu <br />
tham khảo trước khi gửi đăng bài báo (Nguyễn Văn Tuấn, 2013).<br />
4. Trả lời phản biện quốc tế<br />
Sau khi nhận được bài báo gửi đăng, ban biên tập sẽ đọc qua, nếu đánh giá bài <br />
báo không đạt họ sẽ từ chối ngay nhưng thường kèm theo lí do lịch sự nào đó.<br />
Ví dụ. Ban biên tập từ chối một bài báo ngay từ đầu: <br />
“…Informal consultations with potential referees have persuaded me<br />
that unfortunately we cannot consider your article. At present<br />
we have an extremely large backlog of excellent articles awaiting <br />
publication. We are thus forced to return articles that might otherwise be <br />
considered …”.<br />
Hoặc lịch sự hơn họ nói như sau (được coi như lời từ chối):<br />
“…. So, in the case of your submission, I very much regret having to say <br />
that, following an initial review, I am not able to process your paper in the <br />
manner you would expect. This should certainly not be considered as a <br />
rejection of your paper, as my decision has nothing to do with the quality of <br />
the work, it is solely concerned with the need to maintain our desired speed <br />
of publication … This situation is likely to continue for the next six months <br />
or so. Please feel free to submit your paper to another journal for <br />
consideration. I wish you well with that …”.<br />
Còn nếu ban biên tập đánh giá bài báo có tiềm năng họ sẽ gửi cho phản biện <br />
(23 phản biện kín tùy theo tạp chí). Phản biện sau khi đọc xong có quyền từ chối <br />
cho đăng bài báo (với một lí do học thuật nào đó), ban biên tập sẽ thông báo tác giả <br />
về việc từ chối cho đăng bài nhưng họ không gửi kèm lí do mà phản biện đưa ra.<br />
<br />
<br />
<br />
6<br />
Ví dụ. Một trường hợp từ chối bài báo do phản biện không đồng ý:<br />
“… We have received an evaluation from our referee on the paper entitled <br />
ABC submitted for publication in Kodai Mathematical Journal.<br />
We regret to say that we cannot accept the paper for publication in<br />
Kodai Mathematical Journal because the referee does not recommend it <br />
…”.<br />
Trong trường hợp phản biện đồng ý cho đăng bài báo (thường kèm theo những <br />
yêu cầu chỉnh sửa theo ý của phản biện), ban biên tập sẽ gửi thông báo đến tác giả <br />
bài báo và yêu cầu chỉnh sửa bài báo theo yêu cầu của phản biện. Ngoài ra tác giả <br />
bài báo phải trả lời những thắc mắc hoặc làm rõ những điều chưa rõ do phản biện <br />
chỉ ra. Sau đó tác giả bài báo chỉnh sửa và gửi bản trả lời phản biện cho ban biên tập <br />
tạp chí, họ sẽ gửi chúng đến các phản biện. Khi nhận được, các phản biện sẽ xem <br />
xét lại bài báo đã chỉnh sửa và các câu trả lời, nếu thấy không thỏa đáng họ có thể <br />
từ chối cho đăng. Còn nếu họ thấy tác giả bài báo trả lời đầy đủ, tiếp thu nghiêm <br />
túc những ý kiến, làm thỏa mãn những thắc mắc của họ thì chắc chắn bài báo sẽ <br />
được đăng.<br />
Một lưu ý nữa khi trả lời phản biện, tác giả bài báo phải tỏ thái độ trân trọng <br />
các ý kiến đóng góp của phản biện (cần coi đó là những ý kiến xác đáng làm cho <br />
chất lượng bài báo trở nên tốt hơn), trả lời một cách lịch sự không thái quá, không <br />
được né tránh những yêu cầu của phản biện hoặc thực hiện những yêu cầu đó một <br />
cách qua loa, đại khái. Tác giả bài báo đôi khi phải nỗ lực để làm thỏa mãn tối đa <br />
yêu cầu của phản biện. Chẳng hạn phản biện yêu cầu viết lại một phần nào đó (vì <br />
quá dài, vì phần đó viết chưa tốt hoặc viết khó hiểu) thì tác giả bài báo phải bỏ <br />
công sức viết lại thực sự theo một cách tốt hơn hẳn.<br />
Thường mở đầu cho phần trả lời nên có một vài câu dẫn nhập để tác giả bài <br />
báo chứng tỏ là đã tiếp thu và sửa chữa đầy đủ theo yêu cầu của phản biện.<br />
Ví dụ.<br />
“Thanks to the pertinent remarks and comments by the reviewers, the <br />
changes below were implemented in the paper. All suggested modifications <br />
were applied.”<br />
Sau đó đi vào chi tiết, tác giả bài báo sẽ trả lời từng phần nhỏ, làm rõ tất cả <br />
các yêu cầu của phản biện.<br />
Ví dụ. Nếu phản biện yêu cầu viết lại phần tóm tắt và nhắc nhở tác giả chú ý <br />
những điều sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
7<br />
“The abstract does not result informative enough. Since the notion of <br />
singular quadratic Lie superalgebra of the title is not standard, the abstract <br />
should give a more precise information on the definition. In particular, I <br />
think that the name “dupnumber” should be explicit in the abstract. The <br />
sentence “Finally, we study a class of quadratic Lie superalgebras obtained <br />
by the method of generalized double extension” is quite vague; the authors <br />
should briefly clarify at least one of their goals. Finally, I recommend to <br />
avoid the citations to the references in the abstract …”<br />
thì tác giả bài báo phải viết lại một cách cẩn thận, bổ sung các thông tin cần thiết <br />
và trả lời khẳng định với phản biện rằng tác giả đã nghiêm túc thực hiện công việc:<br />
“The abstract was modified. The notion of “singular quadratic Lie <br />
superalgebra” is defined, as well the dupnumber. Some goals are clearly <br />
announced. It results a fully condensed abstract”<br />
Nếu phản biện yêu cầu viết lại phần dẫn nhập vì quá dài<br />
“The introduction is clearly too long. Although it is interesting to give a <br />
summary of the main results, the apparition of so many new definitions <br />
(which will be defined again in the main sections of the paper) and the <br />
complete statement of the theorems result, to my opinion, in a quite <br />
unreadable introduction”<br />
thì tác giả bài báo phải rút ngắn lại đáng kể (chẳng hạn còn một nửa so với ban <br />
đầu) và trả lời:<br />
“Following the useful remarks from the referee, the Introduction was <br />
shortened to 2 pages long. It summarizes the results with highlights only”.<br />
Nếu phản biện yêu cầu so sánh kết quả trong bài báo với một kết quả trong bài <br />
báo khác:<br />
“It should be necessary to compare the results here with those in [BK03].”<br />
thì tác giả bài báo phải tìm đọc bài báo đó, đưa vào danh mục tài liệu tham khảo và <br />
đưa ra được những so sánh để trả lời như sau:<br />
“Following the remarkable suggestions from the referee, the reference to <br />
[BK03] was addressed in the Introduction to present the classification <br />
problem and also in Remark 1.18 with a comparison with obtained results”.<br />
Nếu phản biện yêu cầu xem lại phần tài liệu tham khảo:<br />
“In the bibliography there are some references, explicitly, [BB97], [Bou58], <br />
[Bou71], [FS87] and [Sam80], which are not cited within the text. It should <br />
be either removed or cited somewhere”<br />
<br />
<br />
8<br />
thì tác giả bài báo phải xem xét lại cẩn thận để có thể trả lời:<br />
“The noncited references were removed from the bibliography”.<br />
Tới đây có thể kết luận rằng, trả lời phản biện là một công việc không hề đơn <br />
giản. Nó đòi hỏi tác giả bài báo phải tập trung tinh thần, đầu tư nghiêm túc vào từng <br />
câu trả lời, nỗ lực thực hiện đầy đủ các yêu cầu. Đối với các tạp chí khoa học, <br />
phản biện được ví như những “người gác đền” giữ chất lượng của tạp chí và do đó <br />
giữ khoa học đi đúng hướng. Theo (Williams, 2004), có ba quy tắc vàng mà tác giả <br />
bài báo phải luôn ghi nhớ khi trả lời phản biện: trả lời đầy đủ, trả lời lịch sự và trả <br />
lời có chứng cứ rõ ràng. Mặc dù trả lời phản biện khá vất vả nhưng cũng đáng để <br />
làm vì đây được coi là công đoạn cuối cùng để công trình nghiên cứu được chấp <br />
nhận đăng trên tạp chí, mang lại niềm hạnh phúc cho tác giả.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Văn Tuấn (2013), Từ nghiên cứu đến công bố Kỹ năng mềm cho <br />
nhà khoa học, Tái bản lần thứ 1, NXB Tổng hợp TP.HCM.<br />
2. Williams HC (2004), “How to reply to referees’ comments when submitting <br />
manuscripts for publication”, Journal of the American Academy of Dermatology <br />
51, 7983.<br />
3. Tư liệu cá nhân gồm ý kiến của phản biện và trả lời của nhóm tác giả cho <br />
những bài báo được đăng sau:<br />
Minh Thanh Duong, Georges Pinczon and Rosane Ushirobira, (2012), “A <br />
new invariant of quadratic Lie algebras”, Journal of Algebra and Representation <br />
Theory 15(6), 11631203 (tạp chí quốc tế SCIE).<br />
Minh Thanh Duong and Rosane Ushirobira (2014), “Singular quadratic <br />
Lie superalgebras”, Journal of Algebra 407, 372412 (tạp chí quốc tế SCI).<br />
Minh Thanh Duong (2014), “A classification of solvable quadratic and <br />
odd quadratic Lie superalgebras in low dimensions”, Revista de la Unión <br />
Matemática Argentina 55(1). 119–138 (tạp chí quốc tế SCIE).<br />
Minh Thanh Duong, “The Betti numbers for a family of solvable Lie <br />
algebras”, Bulletin of the Malaysian Mathematical Sciences Society (to appear) <br />
(tạp chí quốc tế SCIE).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />