Trịnh Cung
Mĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh từ khi có “Đổi mới”
I. Ảnh hưởng từ chính sách Đổi mới
Có thể, ở một mặt khác, trong giới hạn của bản chất sáng tạo, sự đổi mới về phương diện
sáng tác của giới mĩ thuật Việt Nam (trong hoàn cảnh riêng của nó) không hoàn toàn nhờ vào
và cũng không chờ đến sự ra đời của chính sách Ðổi mới này. Không ch riêng đối với các hoạ
sĩ Sài Gòn vốn đã có một thời làm nghệ thuật theo nhiều cách rất riêng và đã có những thành
tựu đáng kể trong nền mĩ thuật Việt Nam hiện đại, các hoạ sĩ tiền phong Hà Nội như Nguyễn
Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên,... cũng đã “ngoan cố”, lặng lẽ cố
thủ một nền hội hoạ bên ngoài đường lối của nền thuật xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc từ
1954 cho đến trước ngày đất nưc thống nhất và rồi đã trỗi dậy rực rngay khi tiếng súng
vĩnh viễn ngừng nổ trên toàn đất nước. Ðây chính là lớp than hồng sáng tạo mĩ thuật còn sng
sót đã làm cháy bùng niềm tin vào i mới, cái tự do sáng tạo trong giới hoạ sĩ trẻ thế hệ miền
Bắc trưởng thành sau 1975, trước khi có chính sách Ðổi mới ra đời.
Cho đến hôm nay, Hội Mĩ thuật Việt Nam vẫn là một hội chính trị-nghnghiệp, ngoại trừ
tiêu chí hiện đại nhưng phải đm đà bn sắc văn hoá dân tộc, mĩ thuật Vit Nam trong
nhiều thập niên qua không hcó một chính sách đổi mới nào. Tuy nhiên, sban hành chính
sách Ðổi mới của nhà nước kể từ 1985, dù chchủ yếu trong lãnh vực kinh tế, nhằm đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, tụt hậu, nhưng sự thay đổi lịch sử này như một trận bão lớn
đã tạo ra hiu ứng liên đới tất yếu đối với các lãnh vc khác, trong đó có mĩ thuật.
Riêng tại phía Nam, với thành phHChí Minh (TPHCM) là trung tâm - vốn là một thành ph
hiện đại, năng động nhất nước về nhiều mặt, nhất là về kinh tế - đã vươn lên mạnh mẽ khi
chính sách Ðổi mới có hiệu lực và tất nhiên, mĩ thuật đã không bỏ lỡ cơ hội “ăn theo” ngay để
hồi sinh sau 10 năm ngưng tr hoạt động vì một cơ chế quản lí lỗi thời. Và ngay khi có chính
sách Ðổi mới, cũng như Hà Nội với Ðặng Thuỵ Khuê, Nguyễn Quân, hai hosĩ thuộc thế hệ
mới này đã “take over” (tiếp quản) các vị trí lãnh đạo quan trọng nht trong Ban chấp hành
Hội Mĩ thuật Việt Nam, ở TPHCM, giới trẻ cũng đồng thời đã giữ nhiều vai trò chủ yếu trong
Ban chp hành Hội Mĩ thuật Thành Phố, Ca Lê Thắng và Ðào Minh Tri là hai khuôn mặt lãnh
đạo trẻ tiêu biểu cho xu thế cởi mở, không chỉ về quản lí mĩ thuật mà cả về sáng tạo dù rằng
vẫn còn trong một khuôn khổ nhất định. Và họ đã tạo ra một thập niên nhộn nhịp, hào hứng
cho mĩ thuật ở phía Nam kể từ 1990 với ba điều nổi bật:
1. Mrộng giao lưu mĩ thuật quốc tế;
2. Thành lp và bo trợ nhóm 10 hoạ sĩ trẻ đương đại do Nguyễn Trung - hoạ sĩ tiền
phong hàng đầu miền Nam làm đầu tàu, tạo nên một sinh khí mới cho sự hình thành
bước đu nền mĩ thuật đương đại TPHCM;
3. Bùng nổ hoạt động gallery.
1. Giao lưu quốc tế
Ðây là một sự đột phá táo bạo của Hội Mĩ thuật TPHCM mà chưa có tiền lệ trong toàn bộ lịch
sử nền mĩ thuật Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chđộng đón tiếp các hoạ sĩ nước ngoài đến từ châu Âu, Hoa Kì, Nhật Bn, Hàn Quc,
Singapore,... và khuyến khích các hoạ sĩ, các nhà buôn tranh thành phố mang tác
phẩm đi triển lãm các nước.
Xuất bản một tạp chí mĩ thuật song ngữ (Việt-Pháp), không kể đến nhiu cuộc triển
lãm nhóm giữa hoạ sĩ Sài Gòn và vài hoạ sĩ nước ngoài, Hội Mĩ thuật thành phố đã t
chức được ít ra là hai cuộc triển lãm quốc tế k quy mô: một với các hoạ sĩ TPHCM -
Singapore và một với các ho sĩ TPHCM-Nhật Bản vào những năm cuối của thập niên
Ðổi mới (1985-1995).
Ngoài ra, không thể không nhắc đến hai sự kiện mĩ thuật Vit Nam mang tầm vóc toàn
thể lịch sử mĩ thuật Việt Nam đã được người Mĩ và người Pháp lần lượt tổ chức tại Hoa
Kì và Paris, sau đó Ðôi bÐại dương / An ocean apart do Indochina Arts Project của
nhóm cựu chiến binh Mĩ tổ chức vào năm 1996 và Paris-Hà Nội-i Gòn do Pháp tài tr
vào năm 1998.
2. Nhóm 10 người
Sự xuất hiện của nhóm hoạ sĩ 10 người của TPHCM vào nhng năm đầu của thập niên 90 thế
ktrước là một tập hợp các tài năng của cả ba thế h và nhiều nguồn khác nhau. Nhóm gồm
có: Nguyễn Trung (thế hệ 40, từng là Chủ tịch Hội Ho sĩ Trẻ Sài Gòn trước năm 1975); Ca Lê
Thắng và Ðào Minh Tri (thuộc thế h 50, trưởng thành và được đào tạo trong môi trường chủ
nghĩa xã hội miền Bắc) và 7 ho sĩ trẻ thuộc thế hệ đu tiên của trường Ðại học Mĩ thuật
TPHCM kể từ 1975 gồm có: ÐHoàng Tường, Trần Văn Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Nguyn
Trung Tín, Hứa Thanh Bình, Nguyễn Tấn Cương và NÐồng. Ðây là một sự kiện có giá trị cột
mốc trong sự đổi mới của mĩ thuật thành phố, phá vỡ sự kìm hãm của tình trng mĩ thuật chỉ
đơn thuần là một công cụ chính trị.
Nguyễn Trung, Bên trong chùa
(tổng hợp), 2000 Ðỗ Hoàng Tường, Xanh và
vàng (sơn dầu), 1998
Ca Lê Thắng, Bố cục (sơn dầu), 2000 Trần Văn Thảo, Ánh sáng
xanh (sơn dầu), 1994
Ly Hoàng Ly, Bầu sữa (sắp đặt),
2005 Ly Hoàng Ly, Tháp mâm (sắp đặt),
Chiangmai, 2005
Không phải ngẫu nhiên mà có nhóm “10 người” ở TP Hồ Chí Minh cũng như sự ra đời “Gang of
Five” của những Trần Lương, Ðặng Xuân Hoà, Trí Hiếu, Hồng Việt Dũng, Phm Quang Vinh
trong cùng mt thời điểm như thế ở Hà Nội. Chắc chắn đây chẳng phải kết quả từ một cuộc
vận động có hệ thống hoặc từ một chủ trương của tổ chức, mà chính là từ nhu cầu chính đáng
của bản chất sáng tạo mĩ thuật đã âm muốn cởi trói từ lâu. Nó như một dòng chảy ngầm chờ
phun trào. Và tất nhiên cơ hội tốt nhất của nó chính là sự ban hành chính sách Ðổi mới của
Ðảng Cộng sản Vit Nam năm 1985.
3. Sbùng nổ gallery
Như đã nói ở trên, chính sách Ðổi mới này đã mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các thành phần
kinh tế trong nước và mở cửa đón tiếp các doanh nhân ngoại quốc cũng như Việt kiều về thăm
quê hương. Mỹ thuật TPHCM là nơi đầu tiên hưởng cái lợi từ chủ trương này vì đa phần Việt
kiều đu có “y mơ rễ má” với miền Nam mà thành phố Sài Gòn là trung tâm. Do đó, các
cuộc trin lãmnhân và nhóm ca các hoạ sĩ không phải chỉ diễn ra hàng tháng mà nhiều
khi là hàng tuần. Gallery và cơ sở sản xuất tranh sơn mài, hàngnghệ nở rộ dù còn rất
nghiệp dư. Thị trường mĩ thuật nhộn nhịp và phát đạt nhanh chóng với nguồn khách chính là
Việt kiều và du khách quốc tế. Thị trường tranh Việt Nam lúc bấy giờ giá thấp hơn nhiều so với
các nước phát triển nên lôi cuốn được các nhà buôn tranh tcác nước trong khu vực và cả một
số nước Âu Mĩ (số này rất ít và không chuyên nghiệp), nhiều nhất vẫn là Hồng Kông. Plum
Blossom và Lã Vọng Gallery là hai nhà buôn tranh mđường đến Vit Nam sớm nhất vàm
cho tranh Vit Nam được quốc tế biết đến bằng các cuộc triển lãm và xuất bản sách tại Hồng
Kông giới thiệu một cách trân trọng hội hoạ Vit Nam từ năm 1991.
Sự cởi mở trong quản lí mĩ thuật không chỉ giúp các hoạt động mĩ thuật trong nước được khởi
sắc mà còn giúp nhiều hoạ sĩ ra nước ngoài tự giới thiu tranh mình thông qua lời mời của các
tổ chức văn hoá và một số gallery cỡ nhỏ. Trong số các tổ chức văn hoá ấy, đầu tiên có Hội
Người Việt tại Pháp và sau đó là Indochina Project của những cựu binh Hoa Kì, gallery Plum
Blossom, gallery Lã Vọng của Hồng Kông,...
II. Thời kì tuột dốc
Hình như con số 10 luôn báo hiệu cho một sự thay đổi. Không chỉ riêng ở Hà Nội, mĩ thuật
TPHCM cũng không là mt ngoại lệ. Những nhà buôn tranh đều nhìn nhận thời huy hoàng của
họ đã thật sự trôi qua k từ 1996, hay chính xác hơn là từ sau vụ nhà bán đấu giá Christie’s
cho thu hồi hai bức tranh giả: một của Nguyễn Sáng, một của Bùi Xn Phái trong cuộc bán
đấu giá tại Singapore năm 1999.
Tất nhiên, với cách làm ăn mang tính cơ hội và đầy chất nghiệpcủa giới buôn tranh Vit
Nam, sự tuột dốc của thị trường mĩ thuật Việt Nam là đương nhiên. Phổ biến nhất là bán tranh
giả được vẽ từ bản gốc hoặc hình chụp các tác phẩm của các danh hoạ Việt Nam. Một phần lỗi
khác là do chính các hoạ sĩ vì chạy theo lợi nhuận đã sao chép lại chính tác phẩm cũ của mình
hoặc ăn cắp phong cách và đ tài của các hoạ sĩ nổi tiếng đang ăn khách theo đơn đặt hàng
của giới gallery hoặc người mua. Ở Hà Nội, tiêu biểu nhất cho trường hợp này có Bùi Xuân
Phương v y chang và kí tên theo kiểu của bố mình cố danh hoạ Bùi Xuân Pi; trong Nam
có Lê Vượng v y chang cả đ tài lẫn bút pháp của ÐQuang Em. Ban đầu, Lê Vượng được
Vĩnh Lợi gallery đầu tư, sau đó một bà buôn tranh người Vit Hồng Kông bỏ tiền làm sách v
Lê Vượng như một tài năng đc biệt của hội hoạ Vit Nam nhằm bán tranh cho những ai ham
thích lối vẽ của nhà danh hohọ Ðmà không có đủ 10.000 USD để mua một bức tĩnh vật, thì
đã có tranh Vượng không khác gì vđề tài và không hề thua sút cách vẽ tỉ mỉ của Ð
Quang Em. Ðiều này tht sự đã gây thất vọng cho những nhà nghiên cứu mĩ thuật Việt Nam,
người nước ngoài đã một thời từng ca tụng và quảng bá cho mĩ thuật một nước vừa tìm lại
được chính mình nhờ vào chính sách Ðổi mới, trong số này có Corinne de Ménonville (Pháp) và
Nora Taylor (Mĩ). Và chính nó là nguyên nhân dẫn đến sự hiu quạnh ngày nay của thị trường
mĩ thuật và kéo theo sự tuột dốc về phẩm cách nghệ sĩ của một số i năng hội hoạ giá vẽ Vit
Nam.
III. Nhng tín hiệu của niềm hi vọng
1. Những nhân tố mới
Hoạ sĩ Việt Nam không phải tất cả đều làm như thế, mặc dù hin tượng này đang là khuynh
hướng số đông. May thay, chúng ta còn những người trẻ khác cả ở ngoài Bắc lẫn trong Nam,
họ chính là những tia sáng ở cuối đường hầm, họ tht sự dấn thân, khao kt đi tìm cho mình
một thế giới mới - thế giới của sáng tạo đích thực. Nhóm 5 người của Hà Nội gồm có Ðặng
Xuân Hoà, Trn Lương, Hà Trí Hiếu, Hồng Việt Dũng, Phạm Quang Vinh và nhóm 10 hosĩ của
TP HCM gồm có Nguyễn Trung, Ca Lê Thắng, Ðào Minh Tri, ÐHoàng Tường, Nguyễn Thanh
Bình, Trần Văn Thảo, Hứa Thanh Bình, Nguyễn Tấn Cương, Nguyễn Trung Tín, NÐồng đã
tạo được một sự bùng nổ sáng tạo trong giới trẻ kể từ những triển lãm đầu tiên của họ
TPHCM và Hà Nội vào các năm 1995-1997. Ðó là bước đệm cho các th loại tích cực nhất của
mĩ thuật đương đại Vit Nam ra đời như nghệ thuật sắp đặt, trình diễn, vidéo art,...
Những người khởi xướng cho cuộc khám phá vào thế giới hội hoạ ngoài giá vẽ ở Việt Nam
không ai khác hơn là một số hoạ sĩ Hà Nội kể từ sau 1995 như: Trương Tân, Vũ Dân Tân, Trần
Lương. Những hoạt động triển lãm mang tính thể nghiệm của họ ở Hà Nội và TPHCM đều
mang tính tự phát nhưng đã lôi cuốn thêm nhiều họa sĩ trẻ khác vào cuộc như Nguyễn Minh
Thành, Ðào Anh Khánh (Hà Nội), Ly Hoàng Ly, Nguyễn Minh Phương, Như Huy (TPHCM),... tạo
nên một diện mạo trẻ trung, có bản sắc và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho nền mĩ thuật đương
đại Việt Nam.
2. Mĩ thuật đương đại - một lựa chọn khó khăn và “dũng cảm”
Phải chăng những nhà tiền phong trẻ này đang chứng minh cho một điều ngược lại mà nhà
nghiên cu mĩ thut người Mỹ, tiến sĩ Nora Taylor, đã phát biểu trong một phỏng vấn trên
talawas 11.6.2005 rằng “nghệ sĩ Việt Nam không được biết đến như những người dũng cm”.
Thực ra trong một hoàn cảnh không thuận lợi về nhiều mặt, nhất là cơ chế xã hội của một
quốc gia cộng sản và h thống mĩ thuật cũ kĩ của Việt Nam, chúng ta không thể mong chờ mĩ
thuật đương đại Việt Nam ngang vai với các nước trong khu vực vào ngay lúc này. Ngay cả khi
mĩ thuật đương đại Vit Nam được các cơ quan quản lí mĩ thuật thừa nhận và dành cho các tác
phẩm mĩ thuật ngoài giá v chỗ trưng bày thuộc hệ thống triển lãm quốc gia, trong nhà hoặc
tự do xuất hiện trên đường phố (điều mà cách đâyn 10 năm, các nghệ sĩ Thái Lan đã trình
diễn rất ngoạn mục), thì những Ðào Anh Khánh và các nhà tiền phong trẻ khác cũng vẫn phải
chịu một sự quản lí theo đường lối văn hoá chính trị của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, với đường lối văn h nghệ thuật như thế, nếu những ai đó không chịu dùng loại
hình ngh thuật này để ca tụng quê hương, dân tộc và các chủ trương của nhà nước, thì Việt
Nam vẫn không phải là sân chơi tự do cho các trào u nghệ thuật đương đại như sắp đặt,
trình din,... mà ni dung tác phẩm thuộc loại “có vấn đề” bởi chức năng ngôn ngữ nghệ thuật
đích thực của nó luôn nhằm tác động trực tiếp đến cộng đồng về những vấn đ của cuộc sống
con người đang bị xâm hại bởi bất kì mt lí do nào.
IV. Suy cho cùng...
Sự hưng thịnh và suy thoái của mĩ thuật TPHCM cũng như trong phạm vi cả nước, không hoàn
toàn phụ thuộc vào mt chính sách nào, mà tác gi chính của các biến đổi ấy phần lớn là do
nghệ sĩ - chthể của sáng tạo, người tạo ra tác phm và cả những xu thế nghệ thuật mới.
một chừng mực nào đó, chính sách chỉ thật sự có tác dụng khai thông dòng chảy, ảnh hưởng
tốt đến xã hội về chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hoá,... khi nó được xuất phát từ một thiết
chế chính trị xã hội đúng. Nhưng đối với sáng tạo, không có chính sách nào đẻ ra được những
tác phm bất hủ, chỉ có những tài năng lớn mới làm được điều đó. Và nếu anh là nghsĩ đích
thực thì không ai có thể thay đổi được đường bay nghệ thuật của anh, trừ khi anh gục ngã.
Sài Gòn 24.02.07
(Tham lun hội tho “Mĩ thuật Việt Nam sau Ðổi mới” tại Hà Nội 05.2007)