intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ người Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cây lúa và các sản phẩm từ lúa đóng vai trò trung tâm trong đời sống và văn hóa của người Việt, đặc biệt trong bối cảnh văn hóa lúa nước. Trường ngữ nghĩa về cây lúa trong tục ngữ không chỉ phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên mà còn thể hiện những giá trị đạo đức, tri thức và kinh nghiệm sống của cộng đồng. Qua các câu tục ngữ, người Việt đã khéo léo khắc họa những bài học về lao động, sự cần cù và lòng biết ơn đối với đất đai. Bài viết này sẽ khám phá trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản phẩm từ lúa trong tục ngữ người Việt, từ đó làm nổi bật những đặc trưng văn hóa lúa nước và ý nghĩa của chúng trong đời sống hằng ngày.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ người Việt

  1. 34 ĐỖ THỊ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VỂ... 2. K h á i n iệ m trư ờ ng n g h ĩa Trường ngữ nghĩa là một khái niệm TRƯỜNG NGỮ NGHĨA trong từ vựng học. Theo tác giả Đỗ Hữu v ế CÂV LÚA VÀ CÁC Châu, tính hộ thông về ngữ nghĩa của từ vựng thê hiện qua những tiểu hệ thông SẢN PHẨM TỪ LÚA trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ PHẢN ÁNH ĐẶC TRƯNG giữa những tiểu hệ thông ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với VĂN HOÁ LÚA NƯỚC nhau về ngữ nghĩa [1, tr. 171 ]. Các từ trong cùng một trường luôn có quan hệ ý nghĩa TRONG TỤC NGỮ vởi nhau và quan hệ này vừa là cơ sở đê xác lập trường vừa có tác dụng liên kết các đơn NGƯỜI VlệT _________________ • ___________________ vị từ vựng trong một trường nghĩa. Các nhà từ vựng thường nói đến bôn nhóm trường Đ ỗ THỊ KIM LIÊN ngữ nghĩa: Trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (xét trên trục dọc), trường 1. v ề sự tồ n tạ i của trư ờng ngữ nghĩa tuyến tính (xét trên trục ngang - nghĩa - lớp từ ngữ ch ỉ cây lú a và các trục ngữ đoạn) và trường nghĩa liên tưởng sản p h â m từ lú a (xét trong việc sử dụng từ ngữ). Trong tục Khảo sát cuôn Tục ngữ Việt Nam chọn ngữ, lớp từ tạo thành trường chủ yếu là lọc của Vương Trung Hiếu, Nxb. Văn nghệ, trường biểu vật và trường liên tưởng. 1996 (618 trang) vối 96 chủ đề, chúng tôi 3. Ngữ n g h ĩa của các p h á t ngôn tục nhận thấy dấu ấn văn hoá lúa nước của ngữ p h ả n án h v ă n hoá lú a nước người Việt thê hiện qua tục ngữ khá rõ. 3.1. C á c từ g o i tên c â y lú a và sả n Trong tổng sô’ 2400 phát ngôn tục ngữ thì p h ă m từ c â y lú a có đến 446 phát ngôn chứa các từ ngữ xuất Người Việt canh tác lúa nước vói mục hiện thành trường đề cập đến cây lúa và đích lấy hạt lúa làm lương thực chính. Cây sản phẩm cây lúa cũng như kinh nghiêm lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ, trồng lúa. Trong cuô’ Kho tàng tục ngữ n người ta thu hoạch về lấy hạt, được gọi là Việt Nam, do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, hạt lúa. Nhưng khi đã mang về nhà (có thể trong sô' 9000 phát ngôn có 609 phát ngôn phơi khô để cất giữ) còn được gọi là thóc. viết về cây lúa. Con sô’ này nói lên người Nêu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch Việt trồng lúa và canh tác lúa nước từ lâu thì không gọi là hạt thóc mà gọi là hạt lúa. đời, để lại dấu ấn qua lớp từ ngữ, chúng Trong tư liệu của chúng tôi có bô’n từ được phản ảnh nền văn hoá lúa nước của người dùng với tần sô’ cao là lúa với: "Thóc hoa Việt, vì vậy bài viết của chúng tôi đi sâu dâu, trầu lá mặt", từ cơm là 66 lần "Lớn bát tìm hiểu trường ngữ nghĩa do lớp từ ngữ cơm, to bó lúa", từ gạo 17 lần "Mẹ dần lại phản ánh dặc trung văn hoá lúa nước của đẻ con đần, gạo chiêm đem giã mâ’y lần vẫn người Việt. chiêm"; "Gạo chợ, nưởc sông, củi đồng, trầu
  2. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 35 miếng". Trong sử dụng từ lúa có biến thể cơm chấm muôi; cơm tẻ trong "Cơm tẻ no, ngữ âm là lủ "Khôn như tiên không tiền xôi vò chẳng thiết"; "Cơm tẻ mẹ ruột" để chỉ cũng dại, dại như chó có ló cũng khôn". loại cơm nấu từ gạo khác với loại xôi nấu từ Trong dân gian, có nhiêu loại lúa khác nếp; cơm hàng trong "Cơm hàng cháo chợ, nhau, nhưng chủ yếu có hai loại lúa được ai lỡ thì ăn" để chỉ cơm nấu với mục đích trồng vào hai khoảng thời gian khác nhau bán cho người qua đường. Bên cạnh đó còn và thu hoạch cũng khác nhau đó là lúa có những câu tục ngữ phản ánh cách thức chiêm và lúa mùa. Vê' từng loại lúa dùng để nấu cơm thành các kiểu cơm: "Cơm ráo, ăn vào những dịp khác nhau chủ yếu có hai cháo dừ"; "Cơm sông là cơm thảo, cơm nhão loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nâu thành là cơm hà tiện", "Cơm sông tại nồi, cơm sôi cơm dùng trong bữa ăn hằng ngày, còn lúa tại lửa"; "Cơm sông vì nồi, không sông vì nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa vung", hoặc phản ánh cách thức ăn cơm nếp ngon hơn lúa tẻ: "Đắt lúa tẻ, rẻ lúa khác cháo: "Cơm và, cháo húp"; "Học chọc nếp"; Gần chùa chẳng được ăn xôi"; "Cơm tẻ bát cơm, học đơm bát cháo"; "Cơm quanh no xôi vò chẳng thiết"; "Có thịt đòi xôi". rá, mạ quanh bờ"; hoặc phản ánh cách gọi Ngoài những từ trên, ta còn gặp các từ tên đơn vị đo lường lượng cơm hằng ngày: khác đều là sản phẩm của hạt lúa được "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng hơi đâu mà giận tách từ hạt lúa ra: tấm, cám, mắn, trấu\ người dưng thêm gầy"; "Cơm ba bát áo ba "Ra tay gạo xay ra cám"; "Trai di giày đến manh"; "Cơm ba bát, thuổc ba thang". Ca đám, trai về nhà bôc cám rang"; "No cơm dao cũng sử dụng từ chỉ đơn vị đo lường tấm, ấm ổ rơm"; "Trấu trong nhà, thả gà di lượng cơm trong bát, như: "Cơm ăn mỗi bữa đâu". Hoặc ta bắt gặp những tổ hợp từ mỗi lưng, uống nước cầm chừng để dạ ghép: thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, thương ai". Cơm còn được dùng để đánh giá lúa má, cơm cháo, tấm cám: "Xay lúa Đồng tính cách con người: c ắ n hột cơm không vỡ Nai, thóc gạo vê ngài, tấm cám về tôi"; (chỉ người có tính keo kiệt so đo); "Cắn cơm "Thóc lúa vê nhà, lợn gà ra chợ". không vỡ, cắn tiền vỡ tan". 3.2. C á c từ g ọ i tê n th ự c p h â m ch ẻ Ngoài từ cơm, ta còn bắt gặp từ cháo. b iên từ h ạ t lú a Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nâu lâu hơn. Đặc biệt, Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp nhiều vào những ngày đói kém, thiêu gạo, hay yếu nhát là cơm. Cơm là lương thực chính trong mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo bữa ăn hằng ngày của người Việt. Tiêu đê ăn: "Cháo nóng húp quanh, công nọ' tra chuẩn dê đánh giá sự no đủ là: "No cơm ấm dần"; "Ãn cháo đá bát"; "Cơm hàng cháo chợ áo"; "No cơm ấm cật". Cơm có nhiều loại ai lỡ thì ăn". Cùng với cháo, trong các thứ khác nhau vơi những tên gọi theo những quà bánh được chê biến từ gạo, phải kê đến nguồn gốc khác nhau. Ta có cơm cày, cơm bánh đúc. Bánh đúc là một món tăn ngon, bô cấy tro n g "Cơm cày cơm cấy ai th ấ y thì căn" dưỡng của người Việt trước đây, được mọi dể chỉ cơm ăn vào dịp làm mùa; cơm hom người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành trong "Ăn cơm hom, nằm giường hòm" để bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi chỉ loại cơm ngon dắt tiền, cơm chăm, cơm (hoặc hàn the), quấy đều và đun lên, sau đó mùa trong "Cơm mùa treo chái chùa cũng đổ theo khuôn, dặt ở sàng: "Bánh đúc bày chín"; cơm chăm (mắm chườm), cơm muối sàng". Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm trong "Cơm. muôi hơn chuôi chết" dể chỉ tôm ngon đến mức: "Bánh đúc bẻ ba, mắm
  3. 36 ĐỖ THỈ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VỀ... tôm quệt ngược cả nhà tan hoang"; "Muôn được gọi bằng những tên khác nhau: Gỉôhg, ăn no bánh đúc, ăn bánh đúc đục mặt". Từ mạ (má), lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín. gạo tẻ hoặc nếp có thê xay thành bột, chế Khi gặt xong cắt phần trên thì gọi là rạ hay biến thành hồ: "Có bột mới gột nên hồ"; làm gôc rạ, còn phần trên của cây lúa phơi khô hàng xáo, bánh dày: "Khôn khéo bánh dầy, thì gọi là rơm. Ta bắt gặp tên gọi này qua vụng dại chày cối"; "Đấu hàng xáo, gáo hàng các câu tục ngữ: Giông: "Không nhặt mà rặt dầu" (với nghĩa là vật dùng đê đo lường đốì giống"; "Nhất nước nhì phân, tam cần tư với từng loại); "Hàng xay hàng xáo láo nháo giống, Muốn ăn lúa phải tìm giống"; Mạ: ghẹo chồng con bồ còn thóc hết". Nếp (cũng "Mạ chiêm đào sâu chôn chặt mạ mùa chôn là một loại gạo nhưng quý hdn) đê gói bánh chặt mà đi"; "Khoai ưa lạ, mạ ưa quen"; chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy "Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen"; "Mạ câu: "An chực đòi bánh chưng" hoặc "An mày đòi xôi gấc" để nói đến người đi ăn chực già ruộng ngấu"; "Mạ mùa sưởng cao, /?ỉự không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự chiêm ao thấp”; Lúa vào thời kì phát triển: hảo tâm của người cho. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”; Lúa trô bông: "Lúa trô mâm Sau đây là một sô câu tục ngữ phản xôi, dẫy nồi chồng vợ"; Lúa chín: "Lúa chín ánh món ăn nấu từ gạo nếp: "Nếp lộn lòn hoa ngâu đi đâu chẳng gặt"; Rơm, rạ: "Lửa cha con đánh chén"; "Có xôi nói xôi dẻo, có gầm rơm lâu ngày cũng bén"; "Om rơm dặm thịt nói thịt bùi"; "Gần chùa chẳng được bụng"; "Lúa giỗ ngã mạ, vàng rạ mạ xuống". miếng xôi"; "Muôn ăn xôi ông ơi xắn áo"; "Ăn xôi chùa ngọng miệng"; "Cơm tẻ ăn no, 3.4. C á c từ g ọ i tê n th ờ i tiế t, th ờ i vụ xôi vò chả thiết". g á n với v iệ c tr ồ n g lú a Các từ gọi tên các công cụ, hoạt động a. Thời tiết có ảnh hưỏng rất lởn dên biến từ lúa, thóc thành gạo. như chày, cối, việc trồng lúa. Chính vì vậy, tục ngữ đã côi xay. dần, sàng: "Khôn khéo vá may, phản ánh kinh nghiệm nhận biết vê thời vụng vê chày cối"; "Nhác đâm thì đổi chày, tiết có liên quan đến thời kì phát triển, nhác xay thì đổi cối"; "Nói trặc họng cối trồng lúa. Đó là kinh nghiệm trông sao và xay"; "Hát khi xay lúa, múa khi tôi trời"; trăng: "Sao rua đứng trô’ lúa lôc được ăn"; c, "Xay lúa thì đừng ẵm em"; "Xay thóc có "Tua rua một tháng mười ngày, cấy trốc chàng, việc làng có mõ". Thậm chí, cối xay luống cày cũng được lúa xôi"; "Tua rua thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ bằng mặt cất bát cơm chăm, tua rua di con // (thì) học, côi H (thì) xay thóc. Nia, nằm, cơm chăm đã cạn" (Tua rua bằng mặt sàng, thúng là vật dụng để sàng, để đựng có nghĩa là trông thấy). Hay kinh nghiệm và sảy gạo: "Bánh đúc bày sàng”; "Đá trô n g trăn g : "M uôn ă n lúa th á n g năm thúng đụng nia". Ca dao cũng có những câu trông trăng rằm tháng Tám"; "Muôn ăn lúa dùng các từ nia, sàng để chỉ dụng cụ sàng tháng mười trông trăng mồng tám tháng sảy gạo: "Ra dường ông nọ bà kia, về nhà tư"; "Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa chẳng khỏi cái nia cái sàng". sâu"; "Trăng mười bốn dược tằm, tỏ trăng 3.3. C ác từ g ọ i tê n c á c th ờ i hì p h á t hôm rằm thì được lúa gieo". tr iề n c ủ a c à y lú a Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, Cây lúa có quá trình phát triển khoảng sấm, chớp, gió dể biết trước mất mùa hay bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, nó được mùa: a l) Vê nắng, mưa: "Nắng tốt
  4. TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 37 dưa mưa tốt lúa"; "Mồng tám tháng tám a. Các từ ngư gọi tên thứ tự của việc không mưa bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi"; canh tác lúa nước. "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con Trong các từ được sắp xếp theo trình tự đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng vể tính cần thiết người ta quan tâm trưởc chín có mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà hêt là nước. Nước là nguồn gốc của sự sông ăn"; "Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa và nó cũng là nhân tô" đầu tiên nói đến khi thóc"; a2) Vê sấm: "Tháng mười có sấm cấy trồng lúa: "Nhất nước nhì phân, tam cần, trên nấm cũng có ăn"; "Lúa chiêm đứng tứ giống"-, "Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba nép đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà canh điền"-, "Nhất canh trì, nhì canh viên, lên"; a3) về gió: "Trời nồm tốt mạ, trời giá ba canh điền"-, "Cày cấy, bón phân phải kê tôt rau"; "Gió đông là chồng lúa chiêm, gió anh phạt bờ cuốc gốc". bấc là duyên lúa mùa". b. Cách thức làm đất là phải chú trọng b. Người Việt trước đầy trồng lúa chủ đất ải. Trong câu: "Đất không ải, rải thêm yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Vê phân" là nói đến kinh nghiệm làm đất, sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay nhưng câu: "Đất chổng lên, nền vạc phang, ải tảng bâng, cấy sáng giăng, không phải Chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa thằng nào đấm" lại là chê cách làm đất, chăm). Như vậy, hằng năm người Việt canh cách canh tác không đúng. Đất phải làm tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa th ật ải: "Ai bở chồng con ở, ải sượng chồng mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa con đi"; "Một cục đất ải bằng một bãi theo hai vụ này: "Chiêm xấp xới, mùa đợi phân"; "Cày ải hơn rải phân". Cùng với việc nhau"; ''Chiêm bơ bãi, mùa phải thời", nghĩa làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về đất: "Ai thâm không bằng dầm ngấu"-, "Thứ ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời nhất phân ngấu, thứ nhì ngâu tươi", chú gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có trọng cách thức làm đất đê gieo mạ: "Ướp sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trưa". là một trong những ngôi sao làm bạn với c. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng nhà nông: "Tua rua đi bắc mạ mùa". là phải diệt sạch cỏ: "Ăn cơm làm cỏ chẳng 3.5. C ác từ g ọ i tên k in h n g h iệ m bỏ đi đâu"; "Một búi cỏ, một giỏ thóc"; "Một tr ồ n g lú a và c a n h tá c lú a nư ớc lượt cỏ, thêm một giỏ thóc". Liên quan đến kinh nghiệm trồng lúa d. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: "Cày và canh tác lúa phải nói đến trường ngữ cạn khoẻ trâu, cày sâu tốt lúa"; "Cày gãi bừa nghĩa gồm những từ chỉ công cụ sản xuất chùi, lúa thui thóc lép/Cậy sâu bừa kép, lúa lúa nước, như cái cày, cái bừa, cái liềm.... đẹp bông sây"; "Cày sâu làm đầu lúa tốt"; đặc biệt con vật gắn bó mật thiết với con "Thứ nhất cày nỏ thứ nhì bỏ phân". Sau đây người là con trâu: "Con trâu là đ ầ u cơ là kiểu cày chưa đúng cách: "Cày sưa bừa nghiệp; Ruộng sâu trâu nái không bằng con mệt"; "Cây sáng cấy tôi, gặp phải chân bừa gái đẳu lòng"; "Trâu lên mạ xuồng". Tuy dối toi ăn". Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhiên do giối hạn về phạm vi khảo sát, nhau: "Chiêm đi đơn, mùa đi kép". chúng tôi chưa có điêu kiện đê cập đên Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy trường ngữ nghĩa nói về loài vật gắn với như một nhận thức tấ t yếu: "Chẳng cấy lấy việc canh tác lúa nưốc trong đó có con trâu. đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi
  5. 38 ĐỖ THỈ KIM LIÊN - TRƯỜNG NGỮ NGHĨA VÊ... cấy được phản ánh bằng những động tác tiền không gạo mạnh bạo xó bếp"; "Ngồi khác nhau: "Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu". đông thóc, móc đông tiên". Tục ngữ còn phản ánh cách thức cây lúa: Thứ hai, nó là thước đo sự giàu nghèo: "Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được "Làm ruộng không trâu, làm giàu không ăn"; "Cấy cạn đẻ nhiều là điều nhà nông"; thóc"; "Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo "Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi"; "Lúa tháng tám mới ra nhà giàu"; "Khen nhà mùa thì cấy cho sâu, lúa chiêm thì gửi cành giàu lắm thóc"; "Chứa tiền chứa thóc thì dâu cũng vừa"; "Vụ mùa cấy lúa cao, vụ giàu"; "Làm ruộng không trâu làm giàu chiêm cấy lúa trũng". không í/ióc"; "Con học, thóc vay". Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới Thứ ba. thóc gạo là thưởc: đo tính giá trị nưốc, cách thức tưới nước cho ruộng: "Đất trong lời nói: "Lời nói quan tiền thúng thóc". điền đất thổ, ruộng cao tưới trước, ruộng Cuối cùng, thóc gạo còn là thước đo sự thấp tưới sau"; "Không nước không phân khôn dại: "Khôn như tiền không tiền cũng chuyên cần vô ích"; "Làm ruộng thì phải đắp dại, dại như chó có ló cũng khôn"; "Mạnh vì đìa, vừa dễ giữ nưổc, khi về dễ đi"; "Làm gạo bạo vì tiền khôn ngoan dù mốc". ruộng thì phải đắp bờ, may cờ thì phải viên 3.7. Các từ g ọ i tên đơn vị đ o n g đêm đo đường mép". Công cụ để tưới nưởc ở những lường thóc h oặc ch ứ a dựng, lúa, gạo, cơm ruộng cao thấp khác nhau: "Cao bờ thì tát Trong tục ngữ, ta bắt gặp những danh từ gàu dai, gàu sòng chỉ tá t được nơi thấp bờ". chỉ đơn vị gọi tên vật dùng đê đong đếm thóc Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi gạo: "Ba thưng cũng vào một đấu”; "Đấu vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông hàng xáo, gáo hàng dầu"; "Được vài đấu thóc dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó khấn trời làm mưa". Từ chỉ vật chứa đựng có hình giông như chữ A): "Lúa phơi màu, thóc, lúa, gạo, cơm như bồ, cót, bát, giỏ, trông nhau liềm hái"; "Cắt rạ thì dùng bằng thúng-. "Tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc"; A, quét nhà thì dùng bằng chổi"; "Đánh một "Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con /ưữi A bằng ba công việc lưỡi hái". bồ còn thóc hết"; "Thóc cót thóc bồ"; "Thóc gạo đầy bồ cũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc"; "Dòm 3.6. C ác từ g ọ i tê n g i á t r ị h à n g h oá giỏ bỏ thóc"; "Một lượt cỏ, một giỏ thóc"; "Cày lấ y th ó c lú a là m đ ơ n v ị so s á n h sâu cuốc bẫm, thóc đầy lẫm khoai đầy bồ"; Sự độc canh cây lúa (và lương thực nói "Nắm cbgiỏ thóc"; "Lời nói thúng thóc, lời nói chung) tạo ra tâm lí lấy hạt lúa (hoặc lương dùi đục cẳng tay"; "Căn ló không bằng xó thực) làm hệ quy chiếu, hệ chuẩn mực nhà". Thậm chí, tục ngữ còn sử dụng cả trong n h ậ n thức, đánh giá mọi quan hệ những danh từ chỉ vật đựng thóc, lúa để gọi khác. Vì vậy, thóc gạo được coi là thước đo các từ chỉ người với nghĩa chỉ tập hợp: "Một nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Ta giỏ sinh đồ, một bồ ông công, một đống ông gặp một sô lượng các câu tục ngữ phản ánh nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, giá trị này. một thuyên bảng nhãn". Trước hết thóc gạo là thước đo mô'i Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, quan hệ thân sơ giữa người với người trong người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm cộng đồng: "Ong tiến ông thóc, ông cóc gì bằng bát, đọi. Khác các nước sôìrg bằng ai"; "Bà tiên bà thóc, bà cóc gì ai"; "Không nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ tiền không gạo mạnh bạo gì thầy"; "Không dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa,
  6. TCVHDG só 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 39 nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng đũa, HÒ SÔNG NƯỚC... bát, chén, đọi, môi, thìa..., như: "Bớt bát cơm mặt còn hơn nợ nần"; "Có bát mát mặt; (T iếp theo tr a n g 42) Lớn bát cơm to bó lúa"; "Một nút lạt một đầu từ lao động, tiếng hò vang tạo nên bát cơm"; "Cơm ba bát áo ba manh"; "Ngồi niềm phấn khích, trở thành sợi dây gắn kết mát ăn bát đầy, lầy cầy không đầy bát”- "Sợ , tấ t cả mọi người. Mỗi làn điệu đều có tên bát cơm đầy không sợ thầy to tiếng"; "Ản gọi đặc trưng cho từng hoạt động nhất cháo đá bát"-, "Một quả cà bằng ba bát/ định, ví dụ hò rời bến xuất hiện khi đò đón chén thuôc"; "Một chén thuốc ta bằng ba khách tại các bến dọc theo sông Mã, hò mái chén thuốc tàu"; "Lời nói đọi máu"; "Ba voi nhì do người ở vị trí tay chèo thứ hai trên không được đọi xáo". thuyền hát lên, hoặc hò kéo thuyên, hò mái 4. K ế t lu ậ n đẩy, mái ruỗi... tấ t cả đều mang nội dung Khảo sát các phát ngôn tục ngữ Việt, cũng như âm hưởng riêng. Nhưng sức lan chúng ta bắt gặp nhiều lớp từ xuất hiện toả của mỗi điệu hò đi khắp nơi giúp hò thành trường ngữ nghĩa, trong đó có cả sông nưốc bay đi rấ t xa, tới đâu cũng được trường ngữ nghĩa về cây lúa, các sản phẩm người dân ghi nhớ, tái tạo cho phù hợp với từ lúa, các thời kì sinh trưởng cây lúa, sự hệ thông dân ca từng địa phương. Do đó canh tác lúa nước của người Việt, thang giá những biến thể mới từ điệu gôc đã xuất trị lấy lúa gọi tên đơn vị đo để so sánh... hiện, lưu truyền rộng rãi tuỳ thuộc vào khả Đây là những từ ra đời từ sốm, đa số đơn năng sáng tạo lúc sử dụng, cứ như vậy hò tiết, phản ánh đặc thù văn hoá lúa nước sông nước được người Việt Bắc Trung Bộ của người Việt khá rõ mà qua nhiều biến hoàn chỉnh theo thời gian tạo nên sức cuốn đổi của thời gian, chúng được lưu giữ như hút mạnh mẽ đốì với những ai nghe hò và những nhân chứng in đậm dấu ấn lịch sử.o trực tiếp tham gia.n Đ .T .K .L T .H .T TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa 1. Tôn Thất Bình (1994), Dãn ca Bình Trị tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. Thiên, Nxb. Thuận Hoá, Huế. 2. Nguyễn Thái Hoà (1982), Miêu tả và phàn Loại các khuôn hình tục ngữ Việt Nam. 2. Vũ Ngọc Khánh (1989), “Tiếng hát. sông Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Hương”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (sô' 4). 3. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt 3. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dán Nam - Cấu trúc và thi pháp. Nxb. Khoa học xã ca Việt Nam, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội. hội, Hà Nội. 4. Tú Ngọc (1974), “Những bài hát lễ nghi - 4. N g u y ễn T hị H ư ơ ng (1999), "Đ ặc trư n g ngữ phong tục Việt, Nam”, Tạp chí Văn hoá dân nghía của nhóm tục ngữ chứa các từ chi quan hệ gian, ( sô' 4). thân tộc", Tạp chí Ngôn ngữ sô 6, tr.27-33. 5. Nhiều tác giả (1991), Dãn ca Nghệ Tĩnh. 5. Vương Trung Hiếu (1996), Tục ngữ Việt Nxb. Âm nhạc, Nghệ Tĩnh. Nam chọn lọc. Nxb. Vàn nghệ. 6. Trung tâm Văn hoá thông tin Lệ Thuỷ 6. Nguyền Xuân Kính (2002). Kho tàng tục (1996), Hò khoan Lệ Thuỷ, Tài liệu sưu tám. ngữ người Việt, tập 1, 2, Nxb. Vãn hoá - Thông tin. Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0