Truyện ngắn về Mối Tình Đầu
lượt xem 6
download
Mối tình đầu (Premier amour) là một trong những tác phẩm quan trọng đầu tiên của Samuel Beckett. Ông khởi sự viết truyện ngắn này, có thể nói là truyện thật ngắn đầu tiên, năm 1945, nhưng có nhiều tư liệu – như của nhà Grove Press ở New York chẳng hạn, là nơi hầu như toàn bộ tác phẩm của Beckett đã được xuất bản – ghi là 1946. Nguyên tác tiếng Pháp (Nhà xuất bản Les Éditions de Minuit, 1970) được chính ông đem dịch qua tiếng Anh, nhưng bản dịch này (First Love) mãi đến năm 1972...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Truyện ngắn về Mối Tình Đầu
- vietmessenger.com Samuel Beckett Mối Tình Đầu Bản dịch Hoàng Ngọc Biên Mối tình đầu (Premier amour) là một trong những tác phẩm quan trọng đầu tiên của Samuel Beckett. Ông khởi sự viết truyện ngắn này, có thể nói là truyện thật ngắn đầu tiên, năm 1945, nhưng có nhiều tư liệu – như của nhà Grove Press ở New York chẳng hạn, là nơi hầu như toàn bộ tác phẩm của Beckett đã được xuất bản – ghi là 1946. Nguyên tác tiếng Pháp (Nhà xuất bản Les Éditions de Minuit, 1970) được chính ông đem dịch qua tiếng Anh, nhưng bản dịch này (First Love) mãi đến năm 1972 mới được hoàn tất, và đã được xuất bản lần đầu tiên ở Nxb. Calder and Boyars, London, 1973. Hai mươi bốn năm (1946 –1970) là một thời gian khá dài, nhưng thắc mắc của người đọc cũng như của các nhà xuất bản về sau đã được chính tác giả giải đáp: người đàn bà trong Mối tình đầu là người có thật, có nghĩa sách là một tự thuật, và ông đã muốn chờ cho đến khi “người đàn bà trong truyện qua đời”, cho đến khi “nó không thể làm cho người ấy cảm thấy đau” (theo Patrick Magee, 24.3.1976, New Haven, Conn.) mới cho phổ biến. Mối tình đầu 1, với giọng kể mơ màng, trầm ngâm của một người đàn ông nhân đi thăm mộ cha ở nghĩa trang thuật lại một câu chuyện tình của mình (gặp một người con gái trên một chiếc băng ở công viên, về sống với cô, rồi bỏ ra đi khi cô cho ra đời đứa con của anh – nhưng thực tế người ta đã biết không phải là của tác giả Beckett!), có thể là một khúc dạo đầu cho thế giới những gương mặt hom hem, những con người khắc nghiệt, cô đơn, ương ngạnh, mệt mỏi, biếng lười, những nhân vật tự kể chuyện mình, trong khuôn khổ một nơi chốn bốn phía bị dồn ép (đến độ người ta tự hỏi đó còn đuợc gọi là nơi chốn?), mà sự hiện diện trên trái đất không có một ý nghĩa nào – tác thành bằng những chữ, của Beckett? °°° Tôi vẫn thường liên hệ, hoặc đúng hoặc sai, cuộc hôn nhân của tôi với cái chết của cha tôi, về thời gian. Hai việc ấy, trên những bình diện khác, còn có những mối liên hệ nào khác chăng, không phải là chuyện không thể có. Nói ra điều mình tưởng là mình biết, việc ấy với tôi đã là
- chuyện không dễ. Cách nay không lâu, tôi có viếng mộ cha tôi, đó là điều tôi biết chắc, và có ghi lại ngày tháng cha tôi mất, chỉ là ngày mất mà thôi, bởi lẽ cái ngày ấy, ngày sinh của ông, tôi không thấy có gì đáng để ý. Tôi ra đi buổi sáng và trở về vào buổi tối, ăn trưa nhẹ ở ngay nghĩa trang. Thế nhưng mấy hôm sau, khi muốn biết xem ông mất lúc bao nhiêu tuổi, tôi phải trở lại ngôi mộ, để ghi ngày sinh của ông. Hai cái ngày làm mốc giới hạn đó, tôi có ghi vào một miếng giấy, mà bây giờ đi đâu tôi cũng đem theo. Chính bởi thế mà tôi có thể xác định là khi lấy vợ tôi hẳn phải vào khoảng hăm lăm tuổi. Bởi vì ngày sinh của tôi, tôi xin nói lại, ngày sinh của chính tôi, tôi chưa bao giờ quên nó, tôi chưa bao giờ buộc phải viết ra, nó vẫn khắc sâu trong trí nhớ của tôi, ít ra là cái năm, với những con số mà đời sống khó làm sao xóa nổi. Chính cái ngày cũng thế, tôi chỉ cần làm một cố gắng là nhớ ra ngay, và tôi vẫn thường tổ chức ăn mừng nó, theo cách của tôi, tôi sẽ không nói là mỗi lần nó trở lại, không, bởi vì nó cứ trở lại hoài, cứ trở lại hoài. Cá nhân tôi không có gì chống các nghĩa trang, tôi đi dạo ở đấy một cách tự ý, có lẽ còn tự ý hơn là ở nơi khác, khi tôi phải đi chơi. Mùi các xác chết, mà tôi ngửi thấy rất rõ dưới mùi cỏ và mùn, tôi chẳng thấy nó khó chịu tí nào. Có lẽ nó hơi quá ngọt một chút, hơi nồng một chút, nhưng thích hơn mùi người sống rất nhiều, hơn cái mùi bốc lên từ nách, từ bàn chân, từ đít, từ những bao qui đầu nhớp nháp và những cái noãn tuyệt vọng. Và khi xác cha tôi đến đóng góp vào đó, dù chỉ là đóng góp khiêm nhường thôi, tôi hầu như đã có thể nhỏ một chút nước mắt. Những người sống, họ có tắm rửa cũng vô ích, có xức nưóc hoa cũng vô ích luôn, họ vẫn bốc mùi thối. Vâng, nói đến chỗ đi dạo, khi ta cần phải đi chơi ngoài, hãy dành cho tôi những nghĩa trang đi, còn các bạn, các bạn cứ dạo chơi ở các công viên, hay ở đồng quê. Miếng bánh mì kẹp nhân của tôi, trái chuối của tôi, tôi ăn thấy ngon miệng hơn khi tôi ngồi ăn trên một ngôi mộ, và khi mắc tiểu, mà tôi thì cứ mắc tiểu hoài, tôi tha hồ chọn. Hoặc tôi tản bộ, hai tay chắp sau lưng, giữa những phiến đá mỏng, những phiến đá đứng thẳng, nằm dẹp, để nghiêng và tôi tuyển lọc những câu khắc trên bia mộ. Những câu khắc trên bia mộ chưa hề làm tôi chán ngán bao giờ, lúc nào cũng có ba bốn câu buồn cười tới độ tôi phải níu vào cây thánh giá, hay tấm bia, hay tượng thiên thần, để khỏi ngã. Những câu viết cho tôi, tôi đã viết từ lâu và lúc nào tôi cũng hài lòng về nó, khá bằng lòng. Những cái viết khác, mực viết chưa kịp ráo tôi đã thấy chán ghét chúng, thế nhưng văn bia của tôi thì tôi vẫn cứ thích mãi. Nó minh họa một điểm về ngữ pháp. Không may là nó có ít cơ hội sẽ được đưa lên cao khỏi cái bộ óc đã quan niệm nó, trừ phi là Nhà nước sẽ lo việc đó. Thế nhưng để có thể đào xác tôi lên, trước tiên phải tìm ra tôi, và tôi e rằng mấy ông Nhà nước tìm ra tôi khi sống khó khăn ra sao thì khi chết cũng khó khăn bằng ấy. Chính vì thế mà tôi vội vàng ghi nó ngay vào chỗ này, trước khi quá trễ: Nơi đây yên nghỉ kẻ khật khờ Chết liên miên tới độ sống mãi tới giờ Có một âm tiết thừa trong câu thơ thứ nhì và là câu cuối, nhưng cái này chẳng có gì quan trọng, theo ý tôi. Người ta sẽ tha thứ cho tôi còn hơn thế nữa, khi tôi chết đi. Thế rồi chỉ may mắn một chút xíu, ta có thể được chôn cất đàng hoàng, với những người sống để tang và đôi khi còn có một góa phụ đòi đâm đầu xuống huyệt, và hầu như lúc nào cũng có câu chuyện hay ho về cát bụi, mặc dù tôi từng để ý là chẳng có gì bụi bặm hơn những cái lỗ đào loại ấy, đất hầu như lúc nào cũng là thứ đất bầy nhầy, và cả người chết cũng chẳng có gì đặc biệt cho thấy là cát bụi, trừ phi hắn, hay thị, chết cháy thành than. Dù sao cái vở hài kịch cát bụi đó coi cũng đẹp. Thế nhưng nghĩa trang của cha tôi, tôi không thấy có gì thích đặc biệt. Nó ở xa quá, giữa chốn thôn quê, nằm bên sườn đồi, và cũng quá nhỏ, quá nhỏ đi. Vả lại nó cũng coi như đã đầy, chỉ thêm vài bà góa phụ nữa là hết chỗ. Tôi thích Ohlsdorf hơn, đặc biệt là về phía Linne, trên đất Phổ, với bốn trăm mẫu xác người chật cứng, dù tôi không quen ai ở đó, trừ người dạy thú tên Hagenbeck, mà tôi chỉ biết tiếng thôi. Người ta có khắc một con sư tử trên mộ ông ta, nếu tôi nhớ đúng. Cái chết với Hagenbeck hẳn là có khuôn mặt một con sư tử. Những chuyến xe đò đi đến đến đi, đầy ắp các ông chồng góa, các bà vợ góa và những đứa con mồ côi. Những lùm cây, những hang động, những hồ nước với những con thiên nga, đem an ủi đến cho những người đau khổ. Dạo ấy là vào tháng Chạp, tôi chưa bao giờ cảm thấy lạnh đến thế, món canh cá chình ăn còn nằm trong bụng, tôi sợ chết, tôi dừng chân lại để ói, và tôi thấy thèm được như họ.
- Thế nhưng, bây giờ để bước qua một đề tài ít buồn hơn, ngày cha tôi mất tôi đã phải đi ra khỏi nhà. Ông chính là người muốn tôi ở lại. Đó là một con người kỳ lạ. Một ngày nọ ông bảo, Hãy để nó yên, nó đâu làm phiền ai. Ông không biết là tôi đang lắng nghe. Cái ý nghĩ đó ông hẳn là đã nói ra hoài, nhưng những lần khác tôi không có mặt ở đấy. Người ta chưa bao giờ muốn cho tôi xem di chúc của ông, người ta chỉ nói với tôi là ông để lại cho tôi nhiều tiền lắm. Dạo ấy tôi tin, và ngày nay tôi vẫn còn tin, là, trong di chúc của ông, ông đã yêu cầu người ta để cho tôi căn phòng tôi vẫn ở lúc ông còn sống, yêu cầu người ta đem đồ đến phòng cho tôi ăn, y như trước đó. Có lẽ đây còn là điều kiện tiên quyết của mọi chuyện còn lại. Bởi vì ông hẳn là thích có cảm tưởng tôi còn sống dưới mái nhà của ông, nếu không ông đã không chống lại việc người ta đuổi tôi ra ngoài. Có lẽ chỉ là ông thương hại tôi. Nhưng tôi không tin điều này. Lẽ ra ông nên để hết ngôi nhà cho tôi, như thế tôi được yên thân, mà những người khác vả lại cũng sẽ yên thân, bởi vì như thế tôi sẽ nói với họ, Các người cứ ở lại đi, hãy coi như nhà của các người vậy! Đây là một ngôi nhà rộng mênh mông. Vâng, ông quả đã bị lừa, ông cha tội nghiệp của tôi, nếu như thật sự ông có ý định bảo bọc tôi, ngay cả khi đã ở bên kia nấm mồ. Còn về tiền bạc, công bằng mà nói, họ đã đưa tiền cho tôi, ngay hôm sau ngày chôn cất cha. Có lẽ trong thực tế họ không thể làm khác hơn. Tôi bảo họ, Các người hãy giữ tiền ấy đi, và hãy cho tôi tiếp tục sống ở đây, trong căn phòng của tôi, như lúc cha còn sống. Tôi nói thêm, Xin Chúa đón nhận linh hồn cha, với hi vọng làm cho họ vui lòng. Nhưng họ không muốn thế. Tôi đề nghị với họ xin cho được phục vụ họ, vài giờ trong ngày, làm những công việc thu dọn vụn vặt mà nhà nào cũng cần có, nếu như người ta không muốn nhà mình sập xuống thành cát bụi. Làm việc vặt, đó là chuyện còn có thể làm được, tôi không biết tại sao. Tôi đề nghị với họ đặc biệt để tôi lo săn sóc cái nhà kính trồng cây. Ở đấy tôi sẵn lòng làm việc ba hay bốn giờ một ngày, trong hơi nóng, chăm sóc những cây cà chua, những cây cẩm chướng, những cây lan dạ hương, những cây giống. Trong nhà này, chỉ có cha tôi và tôi mới hiểu được những cây cà chua. Thế nhưng họ không muốn. Một ngày nọ, khi từ phòng vệ sinh trở về, tôi thấy cánh cửa phòng tôi đóng khóa và đồ đạc tôi chất đống trước cửa. Đó là để nói cho các bạn biết tôi bị táo bón như thế nào, vào cái thời ấy. Chính sự lo âu làm cho tôi bị bón, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi có thật bị táo bón không? Tôi không nghĩ thế. Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào. Thế tuy nhiên, tôi hẳn là có bị bón, bởi vì làm sao cắt nghĩa được cách khác hơn những buổi ngồi cầu kéo dài, những buổi ngồi cầu khủng khiếp, trong phòng vệ sinh? Hồi đó tôi không đọc bao giờ, trong cầu cũng như ở những nơi khác, tôi không mơ mộng cũng chẳng suy nghĩ, tôi mơ hồ nhìn cái cuốn lịch treo trên một cái đinh trước mắt tôi, trên đó ta thấy hình in màu một thanh niên râu ria đứng giữa một bầy cừu, hẳn đó là Giêsu, tôi lấy hai bàn tay banh hai bên mông ra và tôi rặn, một! hậy! hai! hậy!, với những động tác ch ?huyền, và tôi chỉ có gấp mỗi một chuyện, là trở về phòng mình và nằm duỗi người ra. Đó chính là táo bón, phải không? Hay là tôi đã nhầm nó với chứng ỉa chảy? Mọi thứ đều lộn xộn trong đầu óc tôi, những nghĩa trang và những lễ cưới và đủ thứ loại phân khác nhau. Đồ đạc tôi không nhiều lắm, họ đem chất đống dưới đất, sát ngay cửa, giờ đây tôi còn thấy cái đống đồ nhỏ xíu nằm đó, trong một thứ hố tường tối hù ngăn hành lang với phòng tôi. Chính trong cái khoảng trống nhỏ tí bít kín cả ba phía đó tôi phải thay quần áo, tôi muốn nói là thay cái áo khoác dài mặc trong nhà và áo ngủ để mặc vào bộ đồ đi xa, tôi muốn nói là vớ, giày, quần, áo, áo khoác, áo choàng và nón, tôi hi vọng tôi không quên cái gì khác. Tôi thử nhiều cánh cửa khác, bằng cách vặn quả nắm và đẩy ra, trước khi ra khỏi nhà, nhưng không cánh cửa nào mở được cả. Nếu tôi tìm thấy một căn phòng cửa mở tôi nghĩ là tôi sẽ cố thủ trong đó, chỉ có hơi ngạt mới lôi tôi ra khỏi phòng mà thôi. Tôi cảm thấy trong nhà có nhiều người như thường lệ, nhưng tôi không nhìn thấy ai cả. Tôi mường tượng mỗi người đều tự giam mình trong chỗ ở riêng, đang vểnh tai nghe ngóng. Thế rồi thoắt một cái mọi người ló ra ở cửa sổ, hơi lùi ra sau một chút, núp kỹ sau màn trướng, khi nghe tiếng cánh cửa hướng ra đường khép lại sau lưng tôi, lẽ ra tôi nên để cửa mở. Và thế là những cánh cửa mở và mọi người đổ ra, đàn ông, đàn bà, trẻ con, mỗi người bước ra từ phòng mình, và những tiếng nói, những tiếng thở dài, những nụ cười, những bàn tay, những chùm chìa khóa nắm trong tay, một tiếng reo lớn nhẹ nhõm, rồi đến những câu nói cảnh giác nhắc nhở, nếu như thế này thì thế kia, nhưng nếu như thế kia thì thế này, cả một bầu không khí ngày hội thật sự, ai nấy đều hiểu rõ, xin ngồi vào bàn, xin ngồi vào bàn ăn, việc xông căn phòng đợi được mà. Tất cả những cái ấy dĩ nhiên đều là chuyện tưởng tượng, bởi lẽ tôi không còn ở đó nữa. Những sự việc có lẽ đã xảy ra khác hẳn, nhưng cái cách những sự việc xảy ra thì có gì quan trọng đâu, một khi chúng xảy ra? Và tất cả những cái môi từng hôn tôi, những trái tim từng thương tôi (đúng là người ta thương yêu bằng trái tim, có phải vậy không, hay tôi lại nhầm lẫn
- với cái gì khác rồi?), những bàn tay từng đùa chơi với những bàn tay của tôi và những cái đầu suýt nữa đã chiếm hữu tôi! Con người thật là lạ lùng. Người cha tội nghiệp, ngày hôm ấy ông hẳn là rất bực mình, nếu như ông có thể nhìn thấy tôi, nhìn thấy chúng tôi, bực mình cho tôi, tôi muốn nói. Trừ phi là, trong cái đạo lý cao siêu thoát tục của ông, ông nhìn xa hơn thằng con trai mình, là kẻ mà thân xác chưa hoàn toàn đủ sức đối phó với mọi khó khăn. Thế nhưng bây giờ để bước qua một đề tài vui hơn, tên người đàn bà mà tôi sắp lấy làm vợ ít lâu sau đó, tên tục, gọi là Lulu. Ít nữa là nàng xác nhận với tôi như thế, và tôi không thấy nàng có thể có lợi lộc gì khi nói dối tôi, về chuyện này. Dĩ nhiên là ta không làm sao biết chắc được mà nói. Không phải là người Pháp, nàng gọi là Loulou. Tôi cũng vậy, cũng không phải là người Pháp, tôi gọi là Loulou như nàng. Cả hai chúng tôi đều gọi là Loulou. Nàng còn cho tôi biết cả họ nàng, nhưng tôi quên mất rồi. Lẽ ra tôi nên ghi lại, trên một mẩu giấy, tôi không thích quên những danh từ riêng. Tôi làm quen với nàng trên một chiếc ghế dài, trên bờ kênh, một trong những con kênh, bởi vì thành phố chúng ta có tới hai con kênh, nhưng tôi chưa hề biết phân biệt kênh này với kênh kia. Đó là một chiếc ghế dài đặt rất đúng chỗ, lưng dựa vào một đống đất và rác rưởi khô cằn, đến độ nguyên cả bàn mông tôi được phủ kín. Hai bên sườn cũng vậy, từng phần, nhờ hai cái cây già cỗi, có thể nói là đã chết, cặp hai đầu này và đầu kia chiếc ghế dài. Chắc hẳn chính những cái cây ấy, một ngày đẹp trời nọ khi những tán lá rì rào gợn sóng, đã gợi ý, cho một người nào đó, để một cái ghế dài ở đây. Trước mặt, cách vài mét, con kênh chảy, nếu như những con kênh đều chảy, tôi thì tôi chẳng biết gì cả, thế nên ngay cả về phía ấy tôi cũng khó bị ai bắt gặp. Thế mà nàng đã bắt gặp tôi đấy. Tôi nằm dài, trời đêm dịu quá, tôi nhìn qua những cành cây trụi lá, nhờ những cành ấy mà hai cây nọ chống đỡ cho nhau trên đầu tôi, và qua những đám mây trôi rời rạc đứt đoạn, tôi thấy một góc trời đầy sao đi qua đi lại. Nhích ra cho em ngồi với, nàng nói. Động tác đầu tiên của tôi là đứng dậy bỏ đi, thế nhưng vì cơn mệt, và vì thật tình không biết đi đâu, tôi đổi ý không làm vậy. Thế là tôi rút chân lại một chút và nàng ngồi xuống. Không có gì xảy ra giữa chúng tôi, buổi tối hôm ấy, và nàng sau đó cũng bỏ đi ngay, chẳng nói với tôi một câu. Nàng chỉ hát, như cho chính nàng, và may là không hát lời, vài bài dân ca xưa, hát từng đoạn rất rời rạc, nhảy từ bài này qua bài khác, và trở lại bài nàng vừa dứt nửa chừng trước khi hát hết bài mà nàng thích hơn bài kia. Nàng hát lạc giọng nhưng nghe dễ chịu. Tôi cảm thấy tâm hồn ấy sớm mang một nỗi buồn chán không đi tới đâu, nhưng trong mọi tâm hồn đây có lẽ lại là thứ tâm hồn ít gây rầy rà hơn hết. Ngay cả chiếc ghế dài, nàng cũng mau chán nó, và về phần tôi, thì chỉ một cái liếc thôi với nàng là đã đủ. Đây thật ra là một người đàn bà cực kỳ kiên trì. Nàng trở lại ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa và mọi việc xảy ra gần như cùng một kiểu. Một vài lời đã được trao đổi có lẽ. Ngày kế đó trời mưa và tôi nghĩ là tôi sẽ được yên thân, nhưng tôi đã lầm. Tôi hỏi nàng có phải nàng có ý định đến làm phiền tôi mỗi tôi hay không. Em làm phiền anh sao? nàng nói. Tôi cảm thấy nàng nhìn tôi. Nhưng hẳn là nàng chẳng thấy gì hơn. Hai hàng lông mi có lẽ, và một chút mũi và trán, thấy trong tối, bởi vì trời tối. Em nghĩ chúng ta thế này là thoải mái chứ, nàng nói. Cô làm phiền tôi, tôi nói, tôi không thể duỗi người khi cô ở đây. Tôi nói trong chiếc cổ áo khoác ngoài của t ??hưng dù thế nàng vẫn nghe được. Bộ anh thích duỗi người như vậy lắm sao? nàng nói. Cái sai nhầm mà con người vẫn mắc phải, là lên tiếng nói chuyện với người khác. Thế thì anh cứ việc gác chân lên đầu gối của em, nàng nói. Tôi không đợi nàng yêu cầu lần nữa. Tôi cảm giác dưới những bắp chân tôi cặp đùi béo tròn của nàng. Nàng bắt đầu vuốt ve hai mắt cá của tôi. Hay ta đá nàng một đá vào đít nhỉ, tôi tự hỏi. Ta nói với họ về chuyện duỗi người và thế là họ nhìn thấy ngay một thân hình nằm dài. Cái mà tôi quan tâm, tôi, ông vua không có quần thần, cái mà với nó việc tôi có một thân xác đúng chỉ là chuyện tai nạn xa xôi và phù phiếm nhất trong những tai nạn, cái đó chính là sự biếng nhác trong đầu, là sự làm lắng dịu ý nghĩ về bản ngã và ý nghĩ về cái cặn bã những chuyện tầm phào rầy rà mà người ta gọi là phi ngã, và còn gọi là thiên hạ, vì làm biếng. Thế nhưng vào tuổi hăm lăm mà con người hiện đại là hắn còn phải thủ dâm, cả về mặt thể xác, thỉnh thoảng, ấy chính là phần số chung của mỗi người, chính tôi đây tôi cũng không được miễn, nếu việc ấy ta có thể gọi là thủ dâm. Nàng dĩ nhiên nhận ra ngay điều này, đàn bà họ đánh hơi dương vật lửng lơ cách xa họ tới mười kilômét và họ tự hỏi, Làm thế nào mà nó phát hiện ra mình ở đây được nhỉ? Ta không còn là ta nữa, trong những hoàn cảnh như thế, và ta mà không còn là ta nữa thì thật là vất vả, còn vất vả hơn cả khi ta là ta, dù mọi người có nói sao chăng nữa. Bởi lẽ khi ta là ta thì ta biết ta phải làm gì, để ít là ta hơn hết, còn khi ta không còn là ta thì ta lại là bất cứ ai, không thoát đi đâu được. Cái mà người ta gọi là tình yêu đó chính là lưu đày, với một tấm bưu thiếp từ quê nhà thỉnh thoảng nhận được, đó là những gì tôi cảm nghĩ, buổi tối
- hôm ấy. Khi nàng chấm dứt, và khi cái bản ngã của tôi, con người đã thuần hóa, hồi phục được nhờ một khoảnh khăc vô thức ngắn ngủi, tôi chỉ còn một mình. Tôi tự hỏi có phải mọi chuyện đều chỉ là do mình bịa đặt, có phải thật tình là sự việc đã xảy ra hoàn toàn khác, theo một sơ đồ mà tôi phải quên đi chăng. Thế tuy nhiên hình ảnh của nàng vẫn gắn liền với hình ảnh chiếc ghế dài, đối với tôi, không phải với chiếc ghế dài ban đêm, mà là chiếc ghế dài vào buổi tối, đến độ nói về chiếc ghế dài, y như khi nó đã hiện ra trước mặt tôi buổi tối, đối với tôi, là nói về nàng. Điều này chẳng chứng minh đuợc gì, nhưng tôi chẳng muốn chứng minh điều gì cả. Còn về chiếc ghế dài ban ngày, ta chẳng phải mất công nói tới, tôi không có ở đó nữa, tôi bỏ nó đi từ sáng sớm và chỉ trở lại đó khi hết buổi chiều. Vâng, ban ngày tôi lục lạo kiếm cái ăn, và đánh dấu những chỗ trú. Nếu các bạn hỏi tôi, và chắc chắn là các bạn muốn hỏi, tôi đã dùng số tiền cha tôi để lại vào việc gì, tôi sẽ nói cho các bạn biết là tôi chẳng dùng làm gì cả, tôi vẫn giữ nó trong túi đây. Bởi vì tôi biết rằng tôi sẽ không trẻ mãi, và mùa hè sẽ không kéo dài vĩnh viễn, cả mùa thu cũng vậy, cái tâm hồn trung lưu của tôi nói cho tôi biết vậy. Rốt cuộc tôi bảo nàng là tôi chán lắm rồi. Nàng làm phiền tôi vô cùng, cả khi vắng mặt cũng vậy. Vả lại nàng vẫn còn làm phiền tôi hoài, hưng nó cũng như những chuyện khác mà thôi. Vả chắng bị làm phiền với tôi bây giờ cũng chẳng làm sao nữa, hoặc có làm sao thì cũng chỉ một chút, thế thì bị làm phiền, nó có nghĩa là gì vậy, tôi còn cần bị làm phiền nữa là đàng khác, tôi đã đổi hệ thống, tôi nắm đầu dây, đây là lần thứ chín hay thứ mười gì rồi, và thế là sắp chấm dứt, những cái làm phiền, những cái dàn xếp, rồi người ta sẽ không còn nói về nó nữa, không nói về nàng cũng chẳng nói về những người khác, không nói chuyện cứt ỉa cũng chẳng nói chuyện trời đất. Thế là anh không muốn em đến nữa? nàng hỏi. Thật không tin nổi là người ta có thể cứ lặp lại cái người khác vừa nói với mình, y như họ sợ phải lên dàn thiêu nếu cứ tin vào tai mình. Tôi bảo nàng thỉnh thoảng cứ đến. Thời ấy, tôi không hiểu rõ đàn bà. Vả chăng đến nay tôi vẫn không hiểu rõ họ. Cả đàn ông cũng vậy. Cả thú vật cũng vậy. Cái mà tôi hiểu rõ hơn cả, không nói ra nhiều, ấy chính là những nỗi đau của tôi. Tôi suy nghĩ hết những nỗi đau ấy, ngày nào cũng vậy, mà nghĩ mau lắm, tư tưởng nó đi mau quá, thế nhưng không phải mọi nỗi đau đều đến từ tư tưởng. Vâng, có những giờ, nhất là vào buổi chiều, tôi cảm thấy tâm trí lờ mờ, kiểu Reinhold. Thật là cân bằng. Vả lại những nỗi đau của tôi, tôi không hiểu chúng rõ. Nó hẳn là do chỗ tôi không chỉ là sự đau khổ. Cái khó là ở chỗ đó. Thế nên tôi rút lui xa dần, đến độ tôi đã phải thấy kinh ngạc và sửng sốt, nhìn từ một hành tinh khác. Rất hiếm, nhưng thế cũng đã đủ. Đời sống, cái cũng không tệ lắm. Không có gì khác hơn là đau khổ, điều này làm đơn giản biết bao nhiêu sự việc! Đâu đâu cũng là chuyện buồn thảm! Như vậy thì đây đúng là cạnh tranh rồi, và còn bất chính nữa. Tôi sẽ cho các bạn biết hết, một ngày nào đó, nếu tôi nghĩ tới, và nếu tôi có thể nói, hết tất cả những nỗi đau lạ lùng của tôi, nói chi tiết, và phân biệt từng loại riêng, để cho được sáng tỏ. Tôi sẽ nói cho các bạn biết những nỗi đau của lý trí, những nỗi đau của trái tim hay những nỗi đau cảm xúc, những nỗi đau của tâm hồn (đẹp lắm, những nỗi đau của tâm hồn), rồi đến những nỗi đau của thân thể, những nỗi đau nội tâm hoặc âm ỉ lúc đầu, rồi đến những nỗi đau hiện ra trên bề mặt, bắt đầu từ những sợi tóc và đi lần một cách có phương pháp và không có gì vội vã xuống tới tận những bàn chân, cái chỗ yêu quí của những vết chai, những chuột rút, những vết loét nẻ, những móng chân thụt, những mụn mủ bị rộp, những chỗ da lột và những chứng kỳ cục khác. Và với những ai dễ thương chịu lắng nghe tôi thì cùng dịp này, tôi sẽ kể cho nghe, y như một hệ thống mà tôi quên mất tên tác giả, những lúc không say thuốc, chẳng say rượu, cũng chẳng có ngất ngây gì, mà con người không cảm thấy gì hết. Tiếp đó dĩ nhiên là nàng muốn biết tôi hiểu chữ thỉnh thoảng như thế nào, như thế mới biết mở miệng ra nói ta sẽ mắc phải cái gì rồi. Tám ngày một lần? Mười ngày một lần? Mười lăm ngày một lần? Tôi bảo nàng hãy đến ít hơn, ít hơn nhiều, đừng đến hẳn nếu có thể, và nếu nàng không thể thì hãy đến ít được chừng nào hay chừng ấy. Vả chăng ngày hôm sau tôi bỏ không đến chỗ chiếc ghế dài, do nàn thì ít mà, tôi phải nói thôi, do chiếc ghế thì nhiều, vì tình trạng của nó không đáp ứng được những yêu cầu của tôi, dù những yêu cầu ấy chỉ là tầm thường, bởi lẽ những cơn lạnh đã bắt đầu làm người ta rét run, và còn bởi những lý do khác quả là phù phiếm nếu đem nói với những đồ ngốc như các bạn, và tôi đã đến trú trong một cái chuồng bò bỏ hoang tôi phát hiện được trong những chuyến chạy lùng kiếm. Chuồng bò nằm ở góc một cánh đồng mà trên mặt tầm ma ló ra nhiều hơn cỏ và bùn nhiều hơn tầm ma, nhưng dưới đất thì có lẽ lại có nhiều đặc điểm đáng kể. Chính trong cái chuồng đầy phân bò khô và rỗng, khi tôi lấy tay chọc thủng vào nó phát ra một thứ tiếng thở dài, chính trong cái chuồng bò đó lần đầu tiên trong đời tôi, tôi sẽ sẵn sàng nói là lần cuối cùng nếu tôi có đủ mocphin trong tay để mà phung phí, tôi đã phải đấu tranh với một thứ tình cảm bấy giờ đang tự khoác cho mình, giữa lúc đầu óc tôi vẫn lạnh băng, cái tên khủng khiếp là tình yêu. Cái tạo nên
- vẻ đẹp của đất nước chúng ta, tất nhiên không kể sự kiện là nó có ít người, dù ở đây không ai có cách gì tìm cho ra được một cái bọc dương vật nhỏ xíu, là mọi thứ người ta đều bỏ phế không ai nhận chỉ trừ những đống phân cũ của lịch sử. Những đống phân ấy, người ta hăm hở nhặt chúng lên, người ta nhồi rơm cho chúng và đưa chúng đi trong đám rước. Bất cứ nơi nào thời đại thả xuống một cục phân mũm mĩm ghê tởm các bạn sẽ thấy có những nhà yêu nước của chúng ta, ngồi xổm xuống đất và lấy mũi hít hít, mặt mày nẩy lửa. Đây là thiên đường của những kẻ không nhà không cửa. Là cái rốt cuộc đã cắt nghĩa tại sao tôi thấy hạnh phúc. Mọi thứ đều giục ta cúi mình xuống. Tôi không thấy có cái gì liên hệ giữa những nhận xét ấy. Nhưng nếu có một liên hệ, không những một mà nhiều, thì phần tôi, tôi chẳng chút nghi ngờ. Thế nhưng những liên hệ nào? Vâng, tôi yêu nàng, đó là chữ mà tôi đã dùng để gọi, và than ôi bây giờ tôi vẫn còn dùng để gọi, cái việc mà tôi vẫn làm, hồi ấy. Tôi không có những dữ kiện về việc này, vì trước đây chưa hề yêu bao giờ, nhưng tôi có nghe người ta nói tới chuyện này, tất nhiên, ở nhà, ở trường, ở nhà thổ, ở nhà thờ, và tôi đã đọc những cuốn tiểu thuyết, viết bằng văn xuôi và văn vần, dưới sự hướng dẫn của ông thầy dạy kèm, bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, trong đó người ta nói rất nhiều về vấn đề này. Thế nên tôi cũng đủ tư cách đặt một cái tên gọi cho điều tôi đang làm bấy giờ, khi tôi bất chợt thấy mình đang viết chữ Lulu trên một đống phân bò cái lâu ngày, hay khi nằm dài dưới trăng, giữa đống bùn, tôi cố nhổ nguyên gốc những cây tầm ma. Đó là những cây tầm ma bự tùa, có những cây cao tới một mét, tôi nhổ chúng lên, và việc này làm tôi thấy khuây khỏa, mà bản chất tôi thì có bao giờ thích nhặt cỏ dại đâu, ngược lại, tôi mà có cỏ dại trong tay tôi còn đem tống hết vào làm phân bón. Hoa, thì lại là chuyện khác. Tình yêu làm ta đau khổ, đó là cái chắc rồi. Nhưng nói đúng, thì tình yêu nàng thuộc loại gì vậy? Tình yêu đam mê? Tôi không tin thế. Bởi vì tình yêu đam mê chính nó là cuồng dâm, có phải vậy không? Hay tôi lại nhầm nó với mỊt loại nào khác? Có nhiều loại lắm, có phải vậy không? Loại nào cũng đẹp hơn loại nào, có phải vậy không? Tình yêu thuần khiết, chẳng hạn, nó lại cũng là một loại mới trở lại với tôi đây. Nó không vụ lợi. Hay có lẽ tôi yêu nàng bằng một tình yêu thuần khiết? Tôi khó tin được điều này lắm. Liệu tôi có vẽ tên nàng lên chỗ cứt bò năm nắng ấy không nếu tôi không yêu nàng bằng một tình yêu trong sáng và không vụ lợi? Và thêm vào đó, là vẽ với ngón tay của tôi, ngón tay sau đó tôi đã cho vào miệng mút? Coi kìa, coi kìa. Tôi cứ nghĩ tới Lulu, nếu nói thế chưa phải là đã nói hết, thì cũng đã là nói khá nhiều, theo ý tôi. Vả chăng tôi đã chán cái tên Lulu ấy rồi và tôi sẽ cho nàng một cái tên khác, lần này chỉ có một âm tiết thôi, Anne, chẳng hạn, tên này không phải chỉ một âm tiết nhưng cái ấy cũng không sao. Thế là tôi cứ nghĩ tới Anne, tôi, con người đã học được cách không nghĩ tới gì hết, có chăng là nghĩ tới những nỗi đau của tôi, rất mau, rồi tới những biện pháp cần sử dụng để không phải chết đói, hay chết lạnh, hay chết vì xấu hổ, nhưng không bao giờ bất cứ vì cớ gì nghĩ tới những người sống với tư cách là người sống (tôi tự hỏi từ này có nghĩa là gì), dù tôi có thể đã nói gì chăng, hoặc dù tôi có thể có lúc sẽ nói gì chăng, về vấn đề này. Bởi vì tôi vẫn thường nói luôn, và lúc nào tôi cũng sẽ nói những chuyện chưa bao giờ có thật hoặc đã có thật nếu các bạn muốn, và có lẽ là lúc nào cũng sẽ có thật, nhưng không phải là sự có thật mà tôi gán cho chúng. Những cái mũ kêpi, chẳng hạn, đúng là có thật, và ít có hi vọng là chúng sẽ biến mất, thế nhưng tôi chưa bao giờ đội một cái mũ kêpi, không, sai rồi. Tôi có viết đâu đó, Họ cho tôi một... cái mũ. Sự thật là “họ” chưa bao giờ cho tôi một cái mũ, tôi vẫn luôn bảo quản cái mũ của chính tôi, cái cha tôi đã cho tôi, và tôi chưa hề có một cái mũ nào khác cái ấy. Vả lại, nó đã theo tôi đến tận mồ. Thế là tôi cứ nghĩ tới Anne, rất nhiều, rất nhiều, hai chục phút, hăm lăm phút và lâu tới nửa giờ một ngày. Tôi có được những con số này là nhờ cọng những số khác nhỏ hơn. Đó hẳn là cách yêu của tôi. Như vậy có phải kết luận là tôi yêu nàng bằng loại tình yêu trí thức đã khiến tôi phát ngôn biết bao nhiêu điều bậy bạ, ở một nơi khác? Tôi không thể nào tin chuyện đó. Bởi vì, nếu tôi yêu nàng theo cách ấy, liệu tôi có thể thích thú khi vẽ ra chữ Anne trên những đống cứt bò lâu ngày? Có thích thú khi nhổ đầy tay những cây tầm ma? Và liệu tôi có cảm thấy dưới cái đầu mình cặp đùi nàng rung liên hồi, như hai chiếc gối dài bị ma ám? Để chấm dứt, để cố gắng chấm dứt cảnh ngộ này, một tối nọ tôi đi đến chỗ có chiếc ghế dài, vào cái giờ ngày trước nàng vẫn đến gặp tôi. Nàng không có đó và tôi hoài công chờ đợi nàng. Bấy giờ đã là tháng Chạp, hoặc không nữa là tháng Giêng, và đang giữa mùa lạnh, nghĩa là rất đúng, rất hợp lý, hoàn hảo, như bất cứ cái gì đúng mùa. Nhưng khi trở về tới chuồng bò là tôi dựng ngay ra một lý lẽ để cho mình một đêm thật ngon lành, và dựa trên sự kiện là giờ giấc chính thức có nhiều cách ghi khắc, trong không khí và trong bầu trời, cả trong lòng người nữa, cũng như một năm có nhiều gày. Vậy thì ngày hôm sau tôi đến chỗ chiếc ghế dài sớm hơn, sớm hơn rất nhiều, hầu như ngay từ đầu hôm, thế mà vẫn là quá trễ, bởi nàng đã ở đó, trên chiếc ghế dài, dưới những cành cây đóng băng kêu
- răng rắc, trước hồ nước lạnh buốt. Tôi đã nói với các bạn đây là một người đàn bà cực kỳ kiên trì. Ngôi mộ trắng cả sương. Tôi không cảm giác gì hết. Nàng theo đuổi tôi như thế có được lợi lộc gì nào? Tôi hỏi nàng thế nhưng không ngồi xuống, mà cứ đi lui đi tới và dậm chân. Trời lạnh nên đường đi đã nhấp nhô chỗ cao chỗ thấp. Nàng trả lời tôi là nàng không biết. Nàng có thể thây gì nơi tôi? Tôi xin nàng cho tôi biết điều này, nếu có thể. Nàng ăn mặc coi bộ ấm. Nàng đút hết hai bàn tay vào một bao tay lông. Tôi còn nhớ khi tôi nhìn cái bao tay ấy tôi đã bật khóc. Thế mà tôi không nhớ ra màu của nó. Tình hình lúc bấy giờ thật là tệ. Tôi từ trước vẫn khóc dễ, khóc mà chẳng đem lợi lộc gì về cho mình, cho tới mới đây. Nếu tôi cần phải khóc vào một giờ nào đó tôi sẽ nén không để rơi xuống một giọt nước mắt, tôi thành thật tin như thế. Tình hình bây giờ đây thật tệ. Chính những sự việc làm cho tôi khóc. Thế mặc dù tôi chẳng có gì buồn phiền. Và khi tôi bất chợt thấy mình khóc không có cớ gì rõ ràng, ấy là tôi đã nhìn thấy cái gì, thấy mà không biết. Đến độ tôi tự hỏi phải chăng chính cái bao tay phụ nữ đã làm tôi khóc, tối hôm đó, chứ đúng ra không phải là lối đi, bây giờ đất cứng và lồi lõm, nhắc tôi nhớ những viên đá lát đường, hoặc cái gì khác nữa, một cái gì đó mà có lẽ tôi đã nhìn thấy, thấy mà không biết. Có thể nói là tôi nhìn thấy nàng lần đầu. Nàng ngồi co ro và ủ kín khăn áo, đầu cúi xuống, cái bao tay với hai bàn tay để trong lòng, hai chân khép vào nhau, gót chân lơ lửng. Nàng không hình dạng, không tuổi, gần như không sống, có thể là một bà già hoặc một cô bé. Và cái cách trả lời ấy, Em không biết, Em không thể. Chỉ có tôi mới không biết mà cũng không thể. Có phải em đến là vì tôi? tôi hỏi. Vâng, nàng đáp. Vậy thì, tôi đây, tôi nói. Thế còn tôi bộ không phải vì nàng mà tôi đã đến đây? Tôi đây, tôi đây, tôi tự nhủ. Tôi ngồi xuống bên cạnh nàng nhưng lại đứng dậy ngay, đứng phắt dậy, y như vừa ngồi trên một cái bàn ủi nóng. Tôi muốn bỏ đi, để xem có phải chuyện như thế là chấm dứt hay không. Thế nhưng để an toàn hơn, trước khi bỏ đi, tôi yêu cầu nàng hát cho tôi nghe một bài hát. Tôi tưởng nàng sẽ từ chối, tôi chỉ muốn nói là không chịu hát, nhưng không, sau một lúc nàng bắt đầu cất tiếng hát, và cứ thế hát một lúc lâu, vẫn hát hoài một bài tôi nghĩ vậy, không thay đổi tư thế. Tôi không biết bài hát, tôi chưa bao giờ nghe ai hát nó và tôi sẽ không bao giờ nghe ai hát nó nữa. Tôi chỉ nhớ là nó nói về những cây chanh, hay những cây cam, tôi không còn biết là cây gì, và còn nhớ được nó nói về những cây chanh, hay những cây cam, đối với tôi thế là đã thành công rồi, vì trong số những bài hát tôi đã nghe trong đời mình, và tôi quả là có nghe hát, vì ta có thể nói là thực tế không thể có chuyện sống, ngay cả sống như tôi sống đây, mà không nghe ai hát, trừ phi là ta điếc, tôi không còn nhớ gì cả, không một chữ, không một nốt, hoặc ít chữ, ít nốt đến độ, đến độ sao, đến độ không gì cả, bởi câu này đã kéo khá dài rồi. Thế là tôi bỏ đi và vừa bỏ đi tôi vừa nghe nàng hát một bài khác, hay là đoạn tiếp của vẫn bài hát ấy, bằng một giọng nhỏ và tôi càng đi xa nó càng nhỏ dần càng nhỏ dần, và rốt cuộc im bặt, hoặc là nàng đã hết hát, hoặc là tôi đã đứng quá xa nên không thể nghe nàng được. Tôi không thích cứ phải ôm một sự bất định loại ấy, vào thời ấy; tất nhiên tôi vẫn sống trong sự bất định, bằng sự bất định thôi, thế nhưng những bất định tủn mủn ấy, thuộc lĩnh vực thể xác như người ta vẫn nói, tôi rất muốn tống khứ chúng ngay tức khắc, chúng có thể quấy rầy tôi như những con ruồi trâu, suốt mấy tuần lễ liền. Vậy nên tôi bước lùi mấy bước và dừng lại. Thoạt đầu tôi không nghe gì cả, rồi tôi nghe giọng hát, nghe một tí thôi, bởi nó vọng đến nhỏ lắm. Tôi không nghe nó, rồi tôi nghe nó, vậy nên tôi lại phải bắt đầu nghe nó, vào một lúc nào đó, thế nhưng không, vẫn không có chuyện bắt đầu, bởi lẽ nó nhẹ nhàng ra khỏi sự im lặng và bởi lẽ nó rất giống sự im lặng. Khi giọng hát rốt cuộc ngừng lại tôi vẫn còn bước về phía nó, để được biết chắc là nó đã ngừng chứ không phải chỉ hạ giọng xuống mà thôi. Rồi khi thấy thất vọng, tự nhủ, Làm sao biết được, trừ phi là mình ở bên nàng, cúi sát nàng, tôi quay trở lại và bỏ đi luôn, lòng đầy bất định. Thế nhưng vài tuần lễ sau đó, thừa sống thiếu chết, tôi lại trở lại chỗ chiếc ghế dài, như thế là lần thứ tư hay thứ năm gì đó kể từ khi tôi bỏ nàng lại, gần như cũng cùng giờ đó, tôi muốn nói là gần như dưới cùng bầu trời đó, không, cả điều này cũng không phải, bởi vì lúc nào cũng vẫn cùng bầu trời đó mà không bao giờ cùng là bầu trời đó, làm sao cắt nghĩa được điều này, tôi sẽ không cắt nghĩa nó, thế thôi. Bấy giờ nàng không có đó. Nhưng đột nhiên nàng lại có đó, tôi không biết làm sao như thế, tôi không nhìn thấy nàng đi đến, cũng chẳng nghe nàng đi đến dù tôi đã hết sức nghe ngóng. Hãy cứ bảo là trời đang mưa, để cho có cái gì thay đổi, một chút thôi. Nàng che dù, tất nhiên, nàng hẳn là phải có nhiều quần áo lắm. Tôi hỏi nàng có phải đêm nào nàng cũng đến không. Không, nàng đáp, thỉnh thoảng thôi. Chiếc ghế dài ướt quá không ai dám ngồi lên. Chúng tôi đi bách bộ tùm lum, tôi cầm tay nàng, vì tò mò, để xem làm vậy tôi có thấy thích thú gì không, nhưng tôi chẳng thấy có gì thích thú, nên tôi bỏ tay nàng ra. Nhưng tại sao lại phải có những chi tiết ấy? Để làm chậm lại cái kỳ hạn này. Bấy giờ tôi nhìn thấy mặt nàng rõ hơn một chút. Gương mặt nàng, tôi thấy nó bình thường, một gương mặt như
- hàng triệu những gương mặt khác. Mắt nàng lé, nhưng cái này chỉ về sau tôi mới biết. Gương mặt nàng, nó dường như không trẻ cũng chẳng già, nó như lửng lơ giữa sự tươi mát và sự héo úa. Tôi chịu đựng rất dở, vào thời ấy, cái kiểu nhập nhằng không rõ như vậy. Còn về việc gương mặt của nàng, nó co đẹp hay không, hoặc xưa nó có từng đẹp hay không, hoặc liệu nó có may mắn gì sẽ trở nên đẹp hay không, tôi thú thật là tôi không sao có ý kiến được. Tôi từng thấy những gương mặt trên ảnh chụp mà có lẽ tôi có thể gọi là đẹp, nếu tôi có được dăm ba dữ kiện về cái đẹp. Và gương mặt của cha tôi, trên giường ông nằm khi chết, có ló ra cho tôi thấy khả năng một kiểu thẩm mỹ của con người. Nhưng những gương măt người sống, lúc nào cũng nhăn nhó, với làn da đỏ ửng, đó có phải là những đồ vật không? Tôi nắm nghía chỗ nước bất động, hay đang chảy chậm, lan tới nước trên trời rơi xuống, như thể chính nó đang khát vậy. Nàng hỏi tôi có muốn nàng hát cho nghe bài gì không. Tôi trả lời không, rằng tôi muốn nàng nói với tôi một cái gì đó. Tôi tưởng đâu nàng sắp nói với tôi là nàng không có gì để nói với tôi, tính cách nàng lẽ ra là như vậy đó. Vậy nên tôi đã ngạc nhiên một cách dễ chịu khi nghe nàng bảo là nàng có một căn phòng, ngạc nhiên một cách rất dễ chịu. Vả chăng tôi lấy làm nghi ngờ. Ai mà không có một căn phòng của mình? A, tôi nghe tiếng la ó. Em có hai phòng, nàng nói. Cô có mấy phòng, nói đúng ra? tôi hỏi. Nàng trả lời là nàng có hai phòng và một phòng bếp. Vậy là mỗi lần nói nó lại tăng lên. Cứ thế rốt cuộc nàng sẽ nhớ ra là có một phòng tắm. Có đúng là cô nói có hai phòng? tôi hỏi. Vâng, nàng trả lời. Hai phòng cạnh nhau? tôi hỏi. Rốt cuộc đã có một cuộc nói chuyện đúng nghĩa. Phòng bếp nằm ở giữa, nàng nói. Tôi hỏi nàng tại sao nàng không nói với tôi điều này sớm hơn. Phải tin là tôi không còn kiềm chế được nữa, vào thời ấy. Tôi không cảm thấy thoải mái bên cạnh nàng, trừ mỗi chuyện là tôi cảm thấy tự do nghĩ tới điều gì đó không phải là nàng, và thế là đã lớn lao lắm rồi, tới những chuyện cũ đã sống qua, hết chuyện này đến chuyện khác, và như vậy dần dà chẳng nghĩ tới gì hết, y như qua những nấc thang đi xuống một dòng nước sâu. Và tôi biết là khi rời bỏ nàng tôi sẽ mất đi cái tự do ấy. Quả đúng đây là hai căn phòng, cách biệt nhau bởi một phòng bếp, nàng không hề dối tôi. Nàng nói lẽ ra tôi nên đi lấy đồ đạc của tôi. Tôi cắt nghĩa cho nàng biết là tôi không có đồ đạc gì. Chúng tôi ở tầng trên một ngôi nhà cũ và từ cửa sổ người nào muốn nhìn thấy núi, có thể nhìn thấy núi. Nàng đốt một ngọn đèn dầu. Em không có điện à? tôi hỏi. Không, nàng đáp, nhưng nước và hơi đốt thì có. A, tôi nói, em có hơi đốt. Nàng bắt đầu cởi quần áo. Khi đàn bà họ không có việc gì làm, họ cởi áo quần, có lẽ đó lại là điều hay hơn hết cho họ làm. Nàng cởi ra hết, với một sự chậm rãi đến voi thấy cũng phải bực tức, trừ đôi vớ dài, chắc hẳn cố ý để kích thích ham muốn của tôi lên tới tột đỉnh. Chính lúc đó tôi mới thấy là nàng lé. May đây không phải là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một người đàn bà trần truồng, vậy nên tôi có thể ngồi lại, tôi biết là nàng sẽ không nổi giận. Tôi bảo nàng là tôi muốn xem căn phòng kia, bởi tôi chưa nhìn thấy nó. Nếu tôi đã nhìn thấy nó, tôi hẳn đã nói là tôi muốn nhìn lại nó. Anh không cởi áo quần ra sao? nàng hỏi. Ô, em biết đấy, tôi nói, tôi ít khi cởi áo quần lắm. Quả đúng thế, tôi chưa bao giờ là loại người có thể cởi quần áo bất cứ lúc nào. Thường tôi vẫn cởi giày ra khi nằm ngủ, tôi muốn nói là khi tôi chuẩn bị tư thế (tư thế!) ngủ, và sau đó là những áo quần ngoài tùy theo nhiệt độ bên ngoài. Thế là, vì không muốn làm mếch lòng, nàng buộc phải khoác đại lên người một chiếc áo ngủ và, tay cầm đèn, nàng đi theo tôi. Chúng tôi đi băng qua phòng bếp. Chúng tôi cũng vẫn có thể đi qua hành lang, về sau tôi đã nhận ra điều này, nhưng chúng tôi đã đi băng qua phòng bếp, tôi không biết vì sao. Có lẽ đó là lối đi ngắn nhất. Tôi nhìn căn phòng một cách khủng khiếp. Đồ đạc dày đặc đến độ vượt cả mọi tưởng tượng. Vậy là căn phòng này, tôi đã có nhìn thấy nó ở đâu đó rồi. Căn phòng gì lạ vậy? tôi la lên. Đây là phòng khách, nàng đáp. Phòng khách. Tôi bắt đầu tống hết đồ đạc ra qua cánh cửa đi ra hành lang. Nàng nhìn tôi làm. Nàng buồn, ít ra tôi đoán thế, bởi vì sự thật là tôi chẳng biết gì cả. Nàng hỏi tôi tôi làm gì vậy, nhưng không đợi một câu trả lời tôi nghĩ vậy. Tôi đưa ra ngoài hết món này đến món khác, có khi tới hai món cùng một lúc, và tôi chất đống chúng ngoài hành lang, sát cạnh chỗ tường tận cùng. Có cả trăm món, lớn có nhỏ có. Rốt cuộc đồ đạc lan tới ngay trước cửa, đến nỗi chúng tôi không thể ra khỏi phòng được, lại càng không thể đi vào phòng, qua cửa ấy. Chúng tôi có thể mở cửa và đóng cửa, bởi lẽ nó mở về phía bên trong, nhưng cửa thì không sao đi qua được. Nói khoa đại, là không đi qua được. Ít ra anh nên bỏ nón xuống chứ, nàng nói. Tôi sẽ nói với các bạn về cái mũ của tôi một lần khác có lẽ. Bây giờ trong căn phòng rốt cuộc chỉ còn mỗi một thứ ghế trường kỷ và vài ngăn kệ dính trên vách tường. Chiếc ghế trường kỷ, tôi kéo nó về phía cuối phòng, gần chỗ cửa lớn, còn những ngăn kệ thì ngày hôm sau tôi tháo chúng và tống hết ra ngoài hành lang, với chỗ đồ đạc còn lại. Trong khi tháo chúng ra, tôi còn nhớ cái lạ lùng, là tôi nghe chữ u xơ hay u xưa gì đó, tôi không
- biết chữ nào, tôi chưa bao giờ iết, tôi không biết chữ ấy có nghĩa gì và cũng chưa bao giờ tò mò tìm hiểu. Ôi những việc con người nhớ lại! Và kể lại! Khi mọi thứ được sắp xếp đâu đó tôi buông mình xuống ghế trường kỷ. Nàng không hề nhấc một ngón tay, để giúp tôi. Em mang khăn trải giường và mền cho anh đây, nàng nói. Thế nhưng khăn trải giường, tôi chẳng muốn tí nào. Em không muốn kéo màn lại sao? tôi hỏi. Chiếc cửa sổ đầy sương giá. Nó không trắng, là vì lúc ấy ban đêm, nhưng dù sao cũng có sáng lên một chút. Tôi có nằm để chân ra phía cửa lớn cũng vô ích, vì cái ánh sáng mờ và lạnh kia, nó vẫn cứ làm rầy tôi. Tôi đột ngột ngồi dậy và đổi vị trí chiếc ghế trường kỷ, nghĩa là phía lưng dài, trước đó tôi để dựa sát vào tường, tôi đưa nó trở ra ngoài. Nghĩa là cái phía hướng ra trước, để ngồi, nay quay sát vào tường. Sau đó tôi trèo vào trong, như một con chó leo vào cái rổ của mình. Em để đèn cho anh, nàng nói, nhưng tôi xin nàng đem nó đi. Thế nhỡ anh cần đi giữa đêm thì sao? nàng nói. Nàng sắp bắt đầu bàn cãi vặt rồi, tôi cảm thấy như vậy. Anh có biết phòng vệ sinh ở đâu không? nàng hỏi. Nàng có lý, tôi quên mất. Tiêu tiểu ngay trên giường, đó là cái khoái của chỉ một lúc mà thôi, còn sau đó ta cảm thấy khó chịu lắm. Em cho anh một cái bô đi tiểu đêm đi, tôi nói. Tôi xưa nay vẫn thích, nghĩa là khá thích, trong một thời gian khá lâu, những chữ bô đi tiểu đêm, nó làm tôi nhớ tới Racine, hay Baudelaire, tôi không còn biết là ai, có lẽ là cả hai, vâng, tôi lấy làm ân hận, tôi có đọc sách, và qua họ tôi đã đi tới chỗ động từ dừng lại, có thể nói là của Dante. Thế nhưng nàng không có bô đi tiểu đêm. Em có một loại ghế ngồi có đục lỗ, nàng nói. Tôi đã thấy bà cụ ngồi trên đó, ngồi cứng đơ như một cái cọc và hãnh diện, bà vừa mua nó, ấy xin lỗi, vừa nhặt nó được tại một buổi bán hàng từ thiện, trong một cuộc xổ số có lẽ, đó là một món đồ mang tính thời đại, và bà cụ dùng nó lần đầu, đúng hơn là bà cố dùng nó, và hầu như mong có ai đó nhìn thấy mình. Ta hãy hoãn lại nào, hoãn lại nào. Thế thì hãy cho tôi một cái gì làm đồ đựng thường thôi, tôi nói, tôi không có bị kiết lỵ. Nàng trở lại với một thứ soong, không phải là một cái soong thật sự tại vì nó không có cán, nó hình bầu dục và có hai quai với một cái nắp đậy. Đây là cái soong hầm thịt, nàng nói. Tôi không cần nắp đậy, tôi nói. Anh không cần nắp đậy? nàng nói. Nếu tôi nói tôi cần nắp đậy nàng hẳn sẽ nói, Anh cần nắp đậy? Tôi chuồi cái dụng cụ nhà bếp xuống dưới mền, tôi vẫn thích cầm một cái gì đó trong tay khi ngủ, như thế tôi ít sợ hơn, mà cái mũ của tôi thì hãy còn ướt mèm. Tôi quay mặt vào tường. Nàng lấy cây đèn trên mặt lò sưởi là nơi nàng vừa để nó xuống, ta hãy nói chính xác, hãy nói chính xác, phía trên tôi cái bóng nàng cử động múa may, tôi nghĩ nàng sắp bỏ tôi lại đó, nhưng không, nàng đến cúi xuống trên người tôi, trên chỗ lưng ghế. Tất cả những thứ đó, đều là của gia đình, nàng nói. Nếu tôi là nàng tôi đã bỏ đi ra rồi, đi rón rén. Nhưng nàng không nhúc nhích. Cái chủ yếu là lúc ấy tôi đã bắt đầu không còn yêu nàng nữa. Vâng, tôi đã cảm thấy dễ chịu hơn, hầu như sung sức cho những chuyến tuột dốc chậm rãi, những cuኙc đắm chìm kéo dài mà từ lâu lắm tôi bị tước đoạt, lỗi vì nàng. Và tôi thì chỉ mới tới đây thôi. Thế nhưng trước tiên ngủ cái đã. Bây giờ hãy thử đuổi ta ra khỏi cửa xem, tôi nói. Với tôi dường như ý nghĩa những lời nói ấy, và ngay cái tiếng động mà chúng phát ra, tôi chỉ nhận thức được có vài giây đồng hồ sau khi đã thốt ra. Tôi ít có thói quen nói đến độ thỉnh thoảng buột ra, từ miệng, những câu nói không chê vào đâu được về phương diện ngữ pháp nhưng lại hoàn toàn thiếu, tôi không nói là về ý nghĩa, bởi vì nếu ta xem xét kỹ những câu ấy ta sẽ thấy là chúng có một, và đôi khi nhiều ý nghĩa, mà là về cơ sở. Thế nhưng tiếng nói, lúc nào tôi cũng nghe nó, tôi phát ra đến đâu tôi nghe đến đó. Đây đúng là lần đầu tiên tiếng nói của tôi vang đến tai tôi chậm tới như thế. Tôi xoay người nằm ngửa, để xem cái gì xảy ra. Nàng mỉm cười. Một lát sau nàng bỏ đi, đem theo cây đèn. Tôi nghe tiếng nàng đi băng qua phòng bếp và khép cánh cửa phòng nàng lại sau lưng. Rốt cuộc tôi lại một mình, rốt cuộc lại nằm trong bóng tối. Tôi sẽ không nói dài dòng về chỗ này. Tôi tưởng mình sẽ có một đêm ngủ ngon lành, dù ngủ lạ chỗ, nhưng không, cái đêm của tôi quả là cực kỳ rộn ràng. Sáng hôm sau tôi thức dậy mệt nhoài, quần áo xốc xếch, mền gối cũng vậy, và Anne nằm cạnh tôi, tất nhiên là trần truồng. Nàng hẳn là đã ra sức quá nhiều! Tôi vẫn còn cầm cái soong trong tay. Tôi nhìn vào bên trong. Tôi chưa dùng tới nó. Tôi nhìn cái giống của tôi. Phải chi nó biết nói. Tôi sẽ không dài dòng về việc này. Đây là đêm yêu đương của tôi. Dần dần cuộc sống tôi ổn định, trong căn nhà này. Nàng dọn ăn cho tôi vào những giờ tôi đã chỉ định cho nàng, thỉnh thoảng nàng đến xem tôi có khỏe không và có cần gì không, nàng đổ bô cho tôi mỗi ngày một lần và dọn dẹp phòng mỗi tháng một lần. Nàng vẫn không cưỡng được cái cám dỗ muốn nói chuyện với tôi, nhưng nói chung tôi không có gì phải than phiền về nàng. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng nàng hát trong phòng nàng, bài nàng hát vang qua cửa phòng nàng, rồi phòng bếp, rồi cửa phòng tôi và như thế đến tận chỗ tôi nghe nhỏ đi nhưng vẫn rõ. Trừ phi là
- tiếng hát ấy đi qua ngả hành lang. Thỉnh thoảng nghe hát như thế, với tôi không có gì là phiền phức quá đáng. Một ngày nọ tôi xin nàng đem cho tôi một cây lan dạ hương, một cây còn sống, để trong chậu. Nàng đem cây lại cho tôi và để trên mặt lò sưởi. Trong phòng tôi, nay chỉ có chỗ trên lò sưởi là nơi ta còn có thể để những đồ vật, nếu không để chúng dưới đất. Cây lan dạ hương của tôi, tôi nhìn nó mỗi ngày. Nó màu hồng. Tôi thì tôi thích cây màu xanh hơn. Lúc đầu nó tốt lành, còn mọc ra vài cái hoa nữa, thế rồi nó chịu không nổi và rất chóng nó chỉ còn là một cái cọng cây nhão nhẹt giữa những chiếc lá ủ rũ. Cái củ của nó, ló một nửa ra khỏi đất, như đi tìm dưỡng khí, đã bốc mùi hôi. Anne muốn bứng nó đi nhưng tôi bảo nàng cứ để nó đó. Nàng muốn mua cho tôi một cây khác nhưng tôi bảo nàng tôi không muốn cây nào khác nữa. Điều làm tôi càng thấy phiền hơn, là những tiếng động khác, những tiếng cười và tiếng rên nhỏ, nghe âm ỉ đầy cả căn nhà vào những giờ nào đó, ban ngày cũng như ban đêm. Tôi không còn nghĩ tới Anne nữa, hoàn toàn không nghĩ tới, thế nhưng dù sao tôi cũng cần yên tĩnh để sống cuộc sống của tôi. Tôi có lý luận cũng vô ích, khi tôi tự nhủ không khí làm ra là để chuyên chở những tiếng động của thế giới, và những tiếng cười và tiếng rên dự phần nhiều trong số đó, tôi vẫn không bớt buồn phiền về việc ấy tí nào. Tôi không sao định được có phải là lúc nào cũng vẫn cùng một tên ấy hay là có nhiều người. Những tiếng cười và tiếng rên nhỏ kia nghe quá giống nhau! Vào thời ấy, tôi sợ những trạng huống phức tạp khốn khổ kia đến độ lần nào tôi cũng bị mắc lừa, tôi muốn nói là tôi cũng cố tìm cách biết rõ ràng đích xác. Tôi đã để rất nhiều thì giờ, suốt cả cuộc đời có lẽ, để hiểu rằng màu của một con mắt thoáng thấy, hay nguồn gốc của một tiếng động xa, đều gần với Giudecca, trong địa ngục của ngu dốt, hơn là sự hiện hữu của Thượng đế, hay sự hình thành chất nguyên sinh, hay sự hiện hữu của bản thể, và nó đòi hỏi, nhiều hơn, cái khôn ngoan hiểu biết phải chuyển hướng. Suốt một cuộc đời, kể cũng hơi nhiều, để đi tới cái kết luận an ủi ấy, ta không còn thì giờ để lợi dụng nó nữa. Vậy nên tôi đã đi tới khá xa, khi tra hỏi nàng, và nàng cho biết đấy là những người khách nàng tiếp luân phiên. Tất nhiên là tôi có thể đứng dậy và đến nhìn qua lỗ khóa, tỉ như nó không bị bịt kín, nhưng ta có thể thấy gì, qua những cái lỗ ấy? Thế ra em sống bằng nghề làm điếm? tôi hỏi. Chúng ta đang sống bằng nghề làm điếm, nàng trả lời. Em không thể bảo họ bớt gây tiếng ồn một chút sao? tôi nói, tựa như tô đương nhiên tin điều nàng vừa nói với tôi. Tôi nói thêm, Hoặc là một loại tiếng ồn khác? Họ phải sủa ăng ẳng như vậy, nàng nói. Vậy là tôi buộc sẽ phải đi, tôi nói. Nàng tìm những cái màn phủ tường trong mớ đồ ngổn ngang của gia đình và treo lên trước cửa phòng chúng tôi, cửa phòng tôi và phòng nàng. Tôi hỏi nàng có cách gì, thỉnh thoảng, tôi có thể ăn một củ cần không. Một củ cần! Nàng la lên, làm như tôi đã vừa cho nàng hay là tôi muốn nếm một đứa bé con Do thái. Tôi lưu ý nàng là mùa củ cần sắp hết đến nơi và nếu, từ đây đến đó, nàng có thể chỉ cho tôi ăn củ cần không thôi thì tôi sẽ biết ơn nàng lắm. Chỉ ăn củ cần! nàng la lên. Củ cần có cái vị của những cây hoa tím, đối với tôi. Tôi thích củ cần bởi chúng có cái vị của hoa tím và thích hoa tím bởi chúng thơm mùi củ cần. Nếu không có củ cần trên mặt đất này thì tôi đã không thích hoa tím và nếu hoa tím không có thì đối với củ cần tôi cũng sẽ dửng dưng như với củ cải, hay cải củ. Và ngay trong hiện trạng hệ thực vật của chúng, tôi muốn nói trong cái thế giới mà củ cần và hoa tím tìm được cách sống chung, thì tôi vẫn có thể dễ dàng nhịn cả hai thứ, rất dễ dàng, cả thứ này lẫn thứ kia. Một ngày nọ nàng dám cả gan báo cho tôi biết là nàng có thai, và có thai đã bốn hay năm tháng, với tôi. Nàng đứng nghiêng bên hông và mời tôi ngắm cái bụng nàng. Nàng còn cởi áo quần ra, chắc hẳn là để chứng tỏ cho tôi thấy là nàng không có giấu một cái gối dựa dưới váy, và dĩ nhiên là để được có cái thú cởi áo quần mà thôi. Có lẽ đây chỉ là một chứng trướng bụng thường thôi, tôi nói, để trấn an nàng. Nàng nhìn tôi bằng đôi mắt to mà tôi quên mất màu gì, đúng ra là bằng con mắt to, bởi vì mắt kia rõ ràng là đang chĩa về cái xác cây lan dạ hương. Nàng càng trần truồng, mắt nàng càng lé. Anh xem này, nàng nói, đầu cúi xuống trên đôi vú, cái quầng vú nó đã đậm lên rồi đấy. Tôi thu hết tàn lực còn lại và bảo nàng, Em phá thai đi, phá thai đi, thế thì nó khỏi có đậm lên nữa. Nàng vén hết màn trướng ra để khỏi làm mất đi những chỗ tròn trĩnh khác nhau trên người. Tôi nhìn thấy ngọn núi trơ trơ, đầy hang động, bí ẩn, nơi từ sáng tới chiều tôi chỉ nghe tiếng gió, những con chim mỏ nhát và những tiếng búa xa nghe sang sảng của những người đẽo đá hoa cương nghe sang sảng. Ban ngày tôi đi dạo chơi ngoài các bụi thạch thảo nóng bức, bụi đậu kim bốc mùi thơm và mọc dại và ban đêm tôi nhìn thấy những ngọn đèn thành phố xa xa, nếu tôi muốn, và những ngọn đèn khác nữa, những ngọn hải đăng và những thuyền có đèn hiệu, mà cha tôi từng đọc tên cho tôi biết, khi tôi còn nhỏ, những tên gọi mà tôi có thể tìm thấy lại, trong trí nhớ của tôi, nếu tôi muốn, là tôi biết. Bắt đầu từ ngày hôm đó mọi chuyện trở nên xấu đi, trong căn nhà này, đối với tôi, ngày càng xấu, không phải vì nàng bỏ bê tôi, mà là theo nghĩa nàng tối ngày cứ đến báo hại tôi với đứa con của chúng ta, đưa bụng và
- vú ra cho tôi coi và bảo tôi rằng đứa bé sắp ra đời vào bất cứ lúc nào, nàng đã thấy nó nhảy nhót trong bụng rồi đấy. Nếu nó nhảy nhót, tôi nói, nó không phải là của tôi. Ở trong nhà này tôi chưa hề cảm thấy có gì tệ lắm, chắc chắn là vậy rồi, dĩ nhiên đâ không phải đã là cái lý tưởng, thế nhưng tôì không coi thường những chỗ lợi. Tôi lưỡng lự không bỏ đi, lá đã rụng rồi, và tôi sợ mùa đông. Không nên sợ mùa đông, mùa đông cũng có những cái tốt, tuyết giữ ấm và làm giảm bớt tiếng ồn, và những ngày nhợt nhạt của nó lại qua mau. Thế nhưng tôi, vào thời ấy, tôi chưa biết là đất đai có thể dễ thương với những ai chỉ có nó, và khi còn sống, người ta có thể tìm thấy không biết bao nhiêu là mộ phần. Tôi đến chỗ kết thúc, là khi đứa bé ra đời. Nó làm tôi sực tỉnh. Thằng bé ấy, nó mắc chứng gì vậy. Tôi nghĩ là nàng có một người đàn bà bên cạnh, dường như thỉnh thoảng tôi nghe có những tiếng chân bước trong bếp. Bỏ một căn nhà ra đi khi không có ai đuổi mình ra đường, chuyện ấy làm tôi đau lòng. Tôi trườn người lên lưng ghế trường kỷ, tôi mặc áo vét, áo khoác ngoài và đội nón, tôi không quên gì hết, tôi buộc dây giày và tôi mở cánh cửa hướng ra hành lang. Một đống đồ cũ linh tinh chắn lối tôi di qua, nhưng dù thế tôi vẫn bước qua được, bằng cách leo lên, xô đẩy ầm ĩ. Tôi có nói về hôn nhân, dù sao đó cũng là một thứ kết hợp. Tôi bận tâm như vậy có lẽ là sai nhầm, những tiếng la hét kia thực là chưa có gì sánh kịp. Đây với nàng có lẽ là lần đầu. Những tiếng la hét theo tôi đến tận ngoài đường. Tôi dừng lại trước cửa nhà và lắng tai nghe ngóng. Tôi vẫn nghe những tiếng la hét đó. Nếu tôi không biết người ta la hét như thế trong nhà, thì chắc hẳn có lẽ tôi đã không nghe chúng. Nhưng vì biết rồi nên tôi nghe rõ lắm. Tôi không biết chắc lắm là mình đang ở đâu. Tôi tìm, giữa những ngôi sao và những tinh tú khác, chùm Đại hùng, nhưng tôi không nhìn thấy chúng. Tuy nhiên hẳn chúng phải ở đấy. Chính cha tôi là người đầu tiên đã chỉ chúng cho tôi. Ông cũng đã chỉ cho tôi nhiều ngôi sao khác, nhưng một mình tôi và không có ông thì lúc nào tôi cũng chỉ tìm ra được mỗi chùm Đại hùng. Tôi bắt đầu đùa với những tiếng la hét đại loại giống như trước đây tôi đã đùa với bài hát, bước tới, dừng lại, bước tới, dừng lại, nếu ta có thể gọi như thế là đùa. Hễ tôi bước đi, thì tôi không nghe chúng, nhờ tiếng bước chân của tôi. Nhưng vừa dừng chân là tôi tức khắc nghe chúng trở lại, dĩ nhiên mỗi lần nghe lại nhỏ hơn, thế nhưng một tiếng la nó to hay nó nhỏ thì ăn thua gì? Điều cần thiết, là nó ngừng. Trong nhiều năm sau đó tôi vẫn tưởng là chúng sẽ ngừng. Bây giờ thì tôi không còn tin điều ấy nữa. Lẽ ra tôi có thể có nhiều mối tình khác nữa, có lẽ. Thế nhưng tình yêu, không phải cứ muốn là có được. (1945) Mối tình đầu của Samuel Beckett, Hoàng Ngọc Biên dịch từ nguyên tác Premier amour (Paris: Les Éditions de Minuit, 1970) và giới thiệu, 64 trang, Nhà xuất bản Trình bầy, 1993. -------------------------------- 1 Mùa Giáng sinh năm 1989, khi đi nghỉ ở Dalat, tôi tình cờ đem theo cuốn sách mỏng Premier amour (Les Éditions de Minuit, 1970) để đọc lại, vì dạo ấy thỉnh thoảng mới nhận được sách mới từ nước ngoài. Một lần đi qua khu Hòa Bình, tôi mua tờ Văn hóa Thể thao Tp. HCM và đọc được tin Beckett qua đời. Mối tình đầu (Nxb. Trình bầy, 1993) ra đời trong những ngày chúng tôi nằm ở Khách sạn Palace, Dalat – và những trang giấy có thể đã được bôi bằng mực bút bi đen phần lớn ở Nhà Thủy tạ trên Hồ Xuân Hương. Bốn năm sau có dịp đọc bản tiếng Anh First Love ở Mỹ, tuy trong lòng cứ muốn mối tình đầu vẫn là... mối tình đầu, chúng tôi đã có một vài thay đổi nhỏ trong bản Việt ngữ. Như người bạn Nguyễn Đăng Thường ở London (người từng cho chúng ta nhiều bản dịch tuyệt vời của Beckett) thường hay trích dẫn tác giả này: "Ever tried. Ever failed. Try again. Fail better!" Hết
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Truyện ngắn " Quán trà "
25 p | 258 | 100
-
Truyện ngắn Yêu lại từ đầu
1071 p | 129 | 31
-
Truyện ngắn - Gió đầu mùa: Phần 2
125 p | 93 | 14
-
Mối tình đầu tiên
10 p | 120 | 10
-
Truyện ngắn Lát cắt của tình yêu
7 p | 106 | 9
-
Nửa Mối Tình Đầu
7 p | 97 | 9
-
Tạm biệt cậu...tình đầu của tớ
13 p | 165 | 9
-
Mối Tình Đầu 50 Năm Về Trước
1 p | 86 | 7
-
Nếu bạn là mối tình đầu của một ai đó
3 p | 89 | 6
-
Truyện về Mối tình đầu
15 p | 87 | 4
-
Những Mối Tình Đầu
4 p | 89 | 3
-
Truyện ngắn Mối tình đầu tiên
9 p | 77 | 3
-
Truyện ngắn Tạm biệt cậu…tình đầu của tớ
23 p | 88 | 3
-
Mối tình đầu của người đàn bà câm
7 p | 73 | 2
-
Mối tình đầu như vết chân trên cát
8 p | 79 | 2
-
Truyện ngắn hay về Mối tình đầu
10 p | 88 | 2
-
Truyện ngắn Mối Tình Đầu
14 p | 97 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn