intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Truyền thuyết đình Long Thái và vua Lê Trang Tông

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

154
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lê Trang Tông (1515 - 1584), còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế, là đế hiệu của Lê Ninh, hay Lê Huyên, là vua thứ 12 của nhà Lê, là người khởi đầu cho nhà Lê Trung Hưng hoặc Hậu Lê. Ông là con của vua Lê Chiêu Tông. Khi Chiêu Tông bị hại, ông được các trung thần đưa sang lánh nạn ở Ai Lao, rồi được Nguyễn Kim và các trung thần phò lên làm vua vào năm Quý Tỵ (1533) tại sách Thuý Thuần, đặt Hành tại ở Sầm Hạ. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Truyền thuyết đình Long Thái và vua Lê Trang Tông

  1. Truyền thuyết đình Long Thái và vua Lê Trang Tông Lê Trang Tông (1515 - 1584), còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế, là đế hiệu của Lê Ninh, hay Lê Huyên, là vua thứ 12 của nhà Lê, là người khởi đầu cho nhà Lê Trung Hưng hoặc Hậu Lê. Ông là con của vua Lê Chiêu Tông. Khi Chiêu Tông bị hại, ông được các trung thần đưa sang lánh nạn ở Ai Lao, rồi được Nguyễn Kim và các trung thần phò lên làm vua vào năm Quý Tỵ (1533) tại sách Thuý Thuần, đặt Hành tại ở Sầm Hạ. Vua về Nghệ An dấy nghĩa, được nhiều người theo, trong đó có các nhân vật nổi tiếng xứ Nghệ phò tá như Nguyễn Cảnh Hoan, Phan Công Tích... nên đã lấy lại được đất Thanh Hoá, Nghệ An (gồm cả Hà Tĩnh) và Quảng Bình, Quảng Trị. Nhà vua cho đặt Hành tại ở sách Vạn Lại (nay thuộc đất xã Vạn Lại Truyền thuyết về vua Lê Trang Tông được lưu truyền trong dân gian và được ghi vào thần tích đình Long Thái khá đầy đủ sinh động. Long Thái là tên làng có từ triều Nguyễn, còn trước nữa có tên là Vĩnh Thái. Đình làng ở đây được gọi tên gắn với tên làng Long Thái, nay thuộc xã Thái Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thuyết, làng Vĩnh Long là mảnh đất sinh ra Lê Ninh (tức vua Lê Trang Tông). Truyền thuyết ghi: Vào đầu thế kỷ XVI, nhà Lê Sơ suy vong. Đến thời vua Quang Thiệu đã có những sai lầm dẫn đến việc Mạc Đăng Dung lấn từng bước, rồi nổi lên chiếm ngôi vua, lập nên nhà Mạc. Các trung thần, quốc thích triều Lê di tản khắp nơi, mai danh ẩn tích, bởi những ai tỏ ra chống đối đều bị nhà Mạc giết hại hoặc giam cầm. Lúc bấy giờ có vị quan coi ngục là Bùi Hữu, quê ở làng Bỉnh Trung, xã Diêm Tràng, phủ Anh Đô (nay là thị trấn Yên Sơn, huyện Đô Lương) thấy tôn thất nhà Lê có nguy cơ bị diệt vong nên đã mưu kế bố trí cho con gái mình là Bùi Th ị Ngọc Thụy đưa cơm vào ngục chăm sóc cho vua Quang Thi ệu đang bị Mạc
  2. Đăng Dung giáng làm Hà Dương Vương và giam vào ngục kín. Đến khi biết chắc con gái đã có thai với nhà vua, Bùi Hữu cho con gái về quê để giữ gìn giọt máu của nhà Lê. Khi về quê ở, dân làng không hiểu sự tình nên nhiều bà con đã xa lánh, thậm chí có người còn mắng mỏ, coi thường Ngọc Thụy nên nàng phải bỏ làng đi lang thang. Khi đi đến làng Vĩnh Long, Ngọc Thụy bị động thai. Nàng đã dựa lưng vào hòn đá để nghỉ lấy lại sức. Hòn đá ấy sau này được dân gọi là hòn Đá Yên và dựng đền thờ, gọi là đền Đá Yên. Đủ 9 tháng 10 ngày, Ngọc Thụy đã ngả lưng vào một gò đất bằng phẳng ở phía Tây làng và sinh ra một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Đứa bé được đặt tên là Lê Ninh, nhưng sợ mọi người biết được tung tích, nên gọi là Chổm. Gò đất sinh ra Lê Ninh về sau được dân gọi là nền Nghinh Thần (nơi đón thần), và lập miếu thờ ở đó. Trong thuở hàn vi, mẹ con Lê Ninh được lũ trẻ chăn trâu làng V ĩnh Long che chở, chăm sóc. Theo “Cựu Lê sự tích” bằng chữ Hán lưu tại đình Long Thái thì: Lúc bà Ngọc Thụy sinh Lê Ninh, trên trời xuất hiện ánh hào quang vân lai ngũ sắc. Mọi người trong thôn trông thấy điều kỳ lạ, nên đã bàn bạc và phân công nhau đưa mẹ con Ngọc Thụy về chăm sóc. Được hơn một năm, nàng Ngọc Thụy đưa con về quê tại làng Bỉnh Trung, buôn bán ở chợ, nuôi con khôn lớn. An Thành hầu Nguyễn Kim - một trung thần của nhà Lê - đã đi tìm được Lê Ninh, rồi cùng các tướng quân đưa ông sang Ai Lao và tôn lên làm vua. Vua lên ngôi năm 1533, đặt niên hiệu là Nguyên Hoà. Vua có nhiều chính sách tiến bộ, nên đã thu hút được nhiều người tài về với mình. Năm Bính Ngọ - Nguyên Hoà thứ 14 (1546), tức là năm thứ 3 ở Hành điện sách Vạn Lại, vua cho mở khoa thi tuyển nhân tài và đậu 25 tiến sĩ, trong đó có 10 người Nghệ An, 01 người Hà Tĩnh, còn lại là người các tỉnh Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Trị. Đây là khoa thi chọn tiến sĩ đột xuất, khoa Ngự chế trong buổi giao thời chiến tranh, trận mạc diễn ra thường xuyên giữa nhà Lê và nhà Mạc (Nam - Bắc triều phân tranh) nên
  3. không được sử sách kịp ghi lại và không có bảng vàng, bia đá Văn miếu Hà Nội ghi nhận. Khoa thi Bính Ngọ - 1546 có lẽ chỉ quy tụ sĩ tử các tỉnh Bắc miền Trung và diễn ra ở Hành tại Vạn Lại, Thanh Hoá, tức kinh đô tạm thời của Lê Trang Tông, nên không được sử sách và văn bia đăng khoa Nhà nư ớc ghi lại, nhưng các triều vua về sau vẫn có các ghi nhận cho các vị tiến sĩ thi đậu ở khoa thi này và cũng đã có các tài liệu khoa bảng ở địa phương ghi nhận, lưu lại cho đến ngày nay. Tiến sĩ Nguyễn Văn Giá làm quan trong tri ều Huế đã cung cấp một tài liệu về khoa thi này và giúp h ọ Dương - Quỳnh Đôi ghi lên bảng treo tại nhà thờ họ Dương vì họ này có cụ tổ Dương Cát Phủ đậu bảng. Bảng ghi có nội dung như sau: Cung kính Đệ nhất thế Tiên tổ khoa quan sự trạng. Lê Trang Tông thần đế tị lập vu Thanh Hoá Hành điện Vạn Lại sách. Đô lập tam niên thiên hạ hào sĩ đa qui, Ư Bính Ngọ niên, Đế ngự đề tu kỷ dĩ yên bách tính, phú thủ thiên hạ ư nhân tâm luận thời trúng Thám hoa Nghệ An: Đặng Sơn, Ngô Trọng Điển; Quỳnh Đôi Dương Cát Phủ, quan chí Hữu thị lang phụng phong Khiêm mông Kiệt tiết tuyền lực công thần Lại bộ gia hạnh Đại phu Đốc Trung tử; Chân Lộc Phan Xá Lê Nguyên Trưng; Yên Thành Phan Duy Thực. Trúng Hoàng giáp: Đông Thành, Đào Hoa Lê Do ãn Nguyên; Hà Tĩnh, Sa Lang, Nguyễn Đình Mỹ. Trúng Tiến sĩ: Nam Đường, Đồng Luân, Trần Đăng Dụng; Hưng Nguyên, Hương Cái Phan Ti ến Thọ; Thanh Chương, Võ Liệt Phan Nhân Tường; Bích Triều, Lương Trường Bùi Duy Nhượng; Cát Ngạn Nguyễn Ngọc Dật. Dĩ thượng đẳng viên đăng khoa lục bất tuế vô hữu bi ký cố hậu nhân vô truyền, cô tồn dĩ bị thế khảo kỳ nguyên bản tại Quốc sử quán. Chí Hoàng Triều Quý Sửu khoa, Hội thí trúng Tiến sĩ, Đặng Sơn, Tri Lễ Nguyễn Văn Giá phụng sao tại Kinh biển hồi Dương tộc đạo sao bảng cung lục. Bảo Đại thập cửu niên, ngũ nguyệt, sơ tứ nhật, thập tam thế tôn Dương khánh thành trướng cung trang cúng.
  4. Tạm dịch: “Cung kính! Sự trạng khoa bảng quan tước của vị Tiên tổ thứ nhất: Vua Lê Trang Tông khi chi ếm được Thanh Hoá, lập Hành điện ở sách Vạn Lại. Đăng đô được 3 năm, hào sĩ thiên hạ tìm đến rất đông. Năm Bính Ngọ, vua ra đề thi: Phú "tự sửa mình để yên trăm họ", luận "Về lấy người tài trong thiên hạ". Trúng Thám hoa: người Nghệ An là Ngô Trọng Điển ở Đặng Sơn; Dương Cát Phủ ở Quỳnh Đôi, làm quan đến Hữu thị lang được phong lên chức Kiệt tiết tuyên lực công thần Lại bộ, gia hạnh Đại phu Đốc Trung tử; Lê Nguyên Trưng ở Phan Xá, Chân Lộc; Phan Duy Thực ở Yên Thành; Nguyễn Đình Mỹ ở Sa Lang, Hà Tĩnh. Trúng Tiến sĩ (Đệ tam giáp): Trần Đăng Dụng ở Đồng Luân, Nam Đường; Phan Tiến Thọ ở Hương Cái, Hưng Nguyên; Phan Nhân Tư ờng ở Võ Liệt, Thanh Chương; Bùi Duy Nhượng ở xã Lương Trường, tổng Bích Triều; Nguyễn Ngọc Dật ở Cát Ngạn. Vì các quan trên không ghi vào đăng khoa, không rõ năm và không có bia k ý truyền lại cho người sau. May còn một bản để khảo cứu ở Quốc sử quán. Đến đương triều khoa Quý Sửu, Nguyễn Văn Giá ở xã Tri Lễ, tổng Đặng Sơn dự thi Hội, trúng Tiến sĩ mới phụng sao ở Kinh (Kinh đô Huế). Họ Dương chép lại theo bản sao lên bảng lưu giữ. Bảo Đại năm thứ 19 (1944), tháng 5, ngày mồng 4. Cháu đời thứ 13 họ Dương, khánh thành trướng cung kính cúng vào nhà thờ”. Như vậy, bảng ghi về tiểu sử cụ Dương Cát Phủ ở nhà thờ họ Dương - Quỳnh Đôi đã ghi lại 11 người xứ Nghệ thi đậu Tiến sĩ khoa thi Bính Ngọ (1546), trong đó có 10 người Nghệ An, 01 người Hà Tĩnh. Bảng này ghi đủ tên
  5. các tiến sĩ như trong “Đông Yên nhị huyện khoa phổ” và các tài liệu gia phả, sắc phong các vị thần có tên như trên. Vua Lê Trang Tông được đông đảo các danh sĩ, tướng tài theo về nên đã nhanh chóng giải phóng được nhiều vùng đất rộng lớn, tiến tới thu phục trở lại Thăng Long, hoàn thành s ứ mệnh phục hưng triều Lê (sử gọi là thời Lê Trung Hưng). Do trải nhiều sương gió, trận mạc, vua mất vào ngày 19, tháng Giêng, năm Mậu Thân (1548) khi mới 34 tuổi. Sau khi vua mất, truy nguyên sự tích sinh thành vua tại tổng Bạch Hà, nên dân vùng này được triều đình cho phép làm dân tạo lễ (mọi phần hộ binh, hiệu binh, sưu sai các vi ệc đều được miễn giảm). Để tạ ân đức nhà vua, dân làng l ập đình miếu thờ, tôn làm thần Thành Hoàng làng. Sự tích vua được ghi chép lưu lại đến ngày nay tại đình Long Thái./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2