intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tự chủ đại học - các khoảng cách trong nhận thức và sự không đồng bộ về thể chế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tự chủ đại học - các khoảng cách trong nhận thức và sự không đồng bộ về thể chế giới thiệu qua về sự phát triển của chủ đề này trên thế giới và ở Việt Nam, và phân tích một số cản trở của việc triển khai chính sách tự chủ đại học vào thực tiễn GDĐH nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tự chủ đại học - các khoảng cách trong nhận thức và sự không đồng bộ về thể chế

  1. TỰ CHỦ ĐẠI HỌC - CÁC KHOẢNG CÁCH TRONG NHẬN THỨC VÀ SỰ KHÔNG ĐỒNG BỘ VỀ THỂ CHẾ Lâm Quang Thiệp Trường Đại học Thăng Long Tự chủ đại học là một chủ đề có lẽ được đề cập đến nhiều nhất trong cộng đồng giáo dục đại học (GDĐH) vào những năm gần đây. Bài viết này sẽ giới thiệu qua về sự phát triển của chủ đề này trên thế giới và ở Việt Nam, và phân tích một số cản trở của việc triển khai chính sách tự chủ đại học vào thực tiễn GDĐH nước ta. 1. Tự chủ đại học – thế giới và Việt Nam Tự chủ đại học là một chủ đề không hề mới, nó được nói đến rất nhiều trên thế giới và ở nước ta, và chắc sẽ còn được bàn cãi tiếp tục và mãi mãi, khi nào trên đời này còn tồn tại trường đại học. Các loại nhà trường, phần lớn liên quan đến nhà nước và tôn giáo đã ra đời trên thế giới cách đây khoảng ba nghìn năm. Tuy nhiên, khi xác định thời điểm ra đời của trường đại học, các nhà nghiên cứu lịch sử GDĐH phương Tây đã thống nhất với nhau rằng khi nào xuất hiện loại nhà trường có quyền tự chủ (đối với nhà nước và tôn giáo), thì xem như bắt đầu có trường đại học [The History of Higher Education, 1997]. Ở châu Âu đó là vào khoảng thế kỷ thứ 12, với trường Bologna ở Ý và một số trường khác ở Anh, Pháp. Sau đó khái niệm tự chủ đại học được nhắc đến nhiều nhất với sự ra đời của đại học kiểu Humboldt vào đầu thế kỷ 19 ở Đức, với các tiêu chí: tự chủ, tự do học thuật và gắn kết giữa giảng dạy với nghiên cứu [Lâm Quang Thiệp, 2018]. Vận dụng kinh nghiệm quốc tế, trong thập niên đầu đổi mới sau năm 1986 ở nước ta, khái niệm quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học đã được đưa vào Luật Giáo dục đầu tiên năm 1998. Để đảm bảo thực thi các khái niệm đó trong các cơ sở GDĐH, thực thể Hội đồng trường được đưa vào Điều lệ trường đại học đầu tiên năm 2003. Sau đó, trong các Luật Giáo dục và Luật GDĐH luôn luôn nhắc lại và ngày càng làm rõ thể chế tự chủ đại học. Tuy nhiên cho đến nay thể chế tự chủ đại học vẫn không thâm nhập suôn sẽ vào thực tiễn GDĐH vì rất nhiều lý do. Dưới đây chúng ta thử phân tích một vài lý do chủ yếu cản trở việc hiện thực thể chế tự chủ đaị học. 2. Khoảng cách trong nhận thức về tự chủ đại học Mặc dù chính sách tự chủ đại học đã được các cấp lãnh đạo cao của Đảng và Nhà nước đề xuất và đưa vào hệ thống luật lệ về giáo dục, nhưng nhận thức về chính sách này vẫn còn khoảng cách giữa cấp đề xuất và cấp áp dụng chính sách, cũng như giữa các cấp khác nhau thực thi chính sách trong thực tiễn. Liên quan đến tự chủ đại học, từ năm 2005, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới GDĐH của Chính phủ đã quy định “Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở GDĐH công lập”. Theo quy định này, khi đã đưa vào hội đồng trường (HĐT) đại diện của bộ chủ quản thì sự quản trị của bộ chủ quản không được thực hiện trực tiếp nữa mà thông qua đại diện này. Sau đó, Nghị quyết 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ lại nói rõ: “giảm 1
  2. mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của các trường đại học, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản; đổi mới mô hình quản trị đại học theo hướng chuyển từ chế độ thủ trưởng (hiệu trưởng) sang chế độ tập thể lãnh đạo (HĐT)”. Tiếp đến, Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 về tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập cũng chỉ đạo cần “nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế HĐT trong các trường đại học theo hướng HĐT là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học”, và quy định cụ thể “bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch HĐT”. Như vậy từ các cấp chỉ đạo, nhận thức về tự chủ đại học ngày càng rõ ràng và mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi nhận thức không theo kịp sự phát triển của chính sách, cấp áp dụng chính sách bên dưới thường có xu hướng bám theo các quy định cũ, thậm chí ban hành các văn bản vi phạm các văn bản chỉ đạo của cấp trên và các luật lệ đã được cải tiến. Điều đó thể hiện rất rõ ở trường hợp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cơ quan bên trên trường Đại học Tôn Đức Thắng, trong các sự kiện mâu thuẫn xảy ra vừa qua. Nhiều chuyên gia cho rằng Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1584/QĐ-TLĐ với nhiều quy định trái với Nghị quyết số 19-NQ/TW cũng như Luật số GDĐH năm 2018 về tự chủ đại học [Trần Đình Thiên, 2020]. Liên quan với tình hình này, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã kiến nghị Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cùng Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm trong việc ban hành các văn bản dưới luật của các tổ chức cấp dưới [Hiệp hội …,2020]. Hãy lấy thêm một ví dụ liên quan đến Nghị định 99/2019/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật GDĐH năm 2018 vừa mới ban hành ngày 30/12/2019. Ở Điều 7 của Nghị định nói trên vẫn quy định cơ quan chủ quản (tuy gọi chệch là cơ quan quản lý trực tiếp) có nhiều quyền quyết định bên trên HĐT chứ không phải chỉ cử đại diện tham gia HĐT. Ví dụ này chứng tỏ những người soạn thảo Nghị định, do những lý do khác nhau, không thật thấm nhuần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc đảm bảo cho “HĐT là cơ quan có thực quyền cao nhất của trường đại học” như đã nêu trên đây. Khoảng cách trong nhận thức được nói ở đây không chỉ phụ thuộc vào trình độ nhận thức, mà đôi khi còn liên quan đến lợi ích nhóm. “Khi đó, lợi ích của “nhóm đang giữ quyền” trở thành thế lực cản trở mạnh mẽ hoạt động tự chủ”. [Trần Đình Thiên, 2020]. 3. Sự không đồng bộ về thể chế trong tự chủ đại học Một trong những khó khăn trong việc thực thi chính sách tự chủ đại học, đặc biệt ở cấp cơ sở, là sự không đồng bộ về thể chế. - Xin nêu một ví dụ. Một trong các quyền quan trọng về tự chủ đại học của HĐT là lựa chọn hiệu trưởng. Các chuyên gia quốc tế cũng lưu ý đến quyền này, khi nói “HĐT chỉ có một người thừa hành duy nhất là hiệu trưởng” [John Carver, 2006]. Do đó khi quyền này thuộc về Bộ chủ quản thì thực tế HĐT đã bị vô hiệu hóa. Cho nên Luật GDĐH năm 2018 quy định: “Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập do HĐT quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận”. Tuy nhiên theo quy định của Bộ GD&ĐT, thể hiện ở Quyết định 7939/QD- BGĐT ngày 20/11/2008, quyền đề cử hiệu trưởng các trường đại học trực thuộc Bộ là 2
  3. chức năng của Vụ Tổ chức và Cán bộ của Bộ chứ không thuộc chức năng của HĐT (chúng tôi không rõ quyết định này hiện có còn hiệu lực không). Như vậy, có sự không đồng bộ về thể chế, sự không đồng bộ này là một trong những lý do vô hiệu hóa tác dụng của HĐT, cản trở việc thực hiện quyền tự chủ của trường đại học. Một ví dụ khác là Luật đầu tư công được áp dụng đối với các đối tượng “có liên quan đến hoạt động đầu tư công, quản lý và sử dụng vốn đầu tư công” [Luật đầu tư công, 2019], trong đó có các trường đại học công lập. Khi được tự chủ, trường đại học công lập có phải tuân thủ Luật đầu tư công hay không? Nếu không có quy định rõ, trường đại học công lập tự chủ sẽ gặp khó khăn trong hoạt động. Trong trường hợp trường Đại học Tôn Đức Thắng, tuy là trường công lập thuộc Tổng Liên Đoàn Lao động nhưng không nhận ngân sách Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã có Văn bản số 3995/VPCP-KGVX ngày 18/6/2008 quy định “Trường được tự quyết định mức thu học phí và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật như một trường ngoài công lập”. Đó là một cách xử lý tốt của Chính phủ trong một trường hợp cụ thể, hỗ trợ nhà trường ứng phó với sự không đồng bộ về thể chế nói trên. - Đối với các trường đại học ngoài công lập, quyền tự chủ đại học cũng gặp nhiều vấn đề. Chính sách coi trọng GDĐH ngoài công lập đã được Nhà nước lưu ý ngay từ lúc loại hình trường này ra đời vào đầu thập niên 1990. Xu hướng đó thể hiện rõ nhất trong Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới GDĐH, đưa ra chỉ tiêu vào năm 2010 có “khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập”. Trong thực tiễn chỉ tiêu này đã không đạt được, sau đó nó phải bị điều chỉnh nhiều lần, và cho đến nay, năm 2020, con số đạt được cũng chỉ mới khoảng 14%. Vì sao GDĐH ngoài công lập phát triển chậm như vậy? Ngoài các nguyên nhân khác, sự thiếu đồng bộ về thể chế cũng là một lý do quan trọng. Chẳng hạn, một vấn đề tồn tại từ lâu, và vẫn được thể hiện trong Luật GDĐH năm 2018, là quy định về “tài sản chung không chia” của các trường đại học ngoài công lập. Chính quy định này ngăn trở phần lớn các trường đại học dân lập chuyển đổi thành trường đại học tư thục tư thục theo Quyết định 122/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vào tháng 5 nam 2006. Sự phân tâm của các trường đại học ngoài công lập càng tăng khi được nghe một vị lãnh đạo có trách nhiệm giải thích mục đích của việc bảo toàn tài sản chung không chia là làm tăng dần tỷ lệ phần tài sản chung đó so với tài sản tư để giảm dần tính chất tư nhân của trường đại học ngoài công lập. Như vậy, rõ ràng cả khoảng cách về nhận thức và sự thiếu đồng bộ trong thể chế về tự chủ đại học đối với trường ngoài công lập đã cản trở sự phát triển của loại hình đại học này ♦ Trên đây chỉ bàn về một vài cản trở trong việc áp dụng chính sách tự chủ đại học vào thực tiễn. Quá trình thực hiện tự chủ đại học sẽ tiếp tục làm nảy sinh nhiều khó khăn khác. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này ở chỗ đây là chính sách tạo nên sự di chuyển về quyền lực, các bộ phận đã và đang giữ quyền lực không muốn mất nó. Quá trình này không xảy ra đơn giản, vì thực chất là một quá trình đấu tranh để khẳng định quyền lực. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh đó sẽ làm cho hệ thống GDĐH nước ta ngày càng trưởng thành và mạnh mẽ hơn. 3
  4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. The History of Higher Education, 1997. ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom Publishing. 2. Lâm Quang Thiệp, 2018. “Humboldt, Hoa Kỳ và Giáo dục đại học Việt Nam”, trong “Nghiệp vụ sư phạm đại học”, NXB Giáo dục. Có thể xem ở: https://drive.google.com/file/d/1nDEKZKJ4qivdn4h3U1veiHa5d_MCAvjB/view 3. Trần Đình Thiên, 2020. “Thủ tướng nên ban hành một Nghị định cho riêng Trường Đại học Tôn Đức Thắng.” https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/thu-tuong- nen-ban-hanh-mot-nghi-dinh-cho-rieng-truong-dai-hoc-ton-duc-thang- post205615.gd 4. Hiệp hội các trường đại học và Cao đẳng Việt Nam, 2020 “Đề nghị giám sát văn bản dưới luật do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành”. https://giaoduc.net.vn/tin-hiep-hoi/de-nghi-giam-sat-van-ban-duoi-luat-do-tong- lien-doan-lao-dong-viet-nam-ban-hanh-post204786.gd 5. Luật đàu tư công, 2019. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/dau-tu/Luat-Dau-tu- cong-2019-362113.aspx 6. John Carver, Miriam Carver, 2006. Reinventing Your Board. Jossey-Bass Publishers. 4
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2