Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới
lượt xem 11
download
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới
- TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI Nguyễn Công Đức Trường Đại học Công đoàn Tóm tắt: Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong quản trị giáo dục đại học, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đó là xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường. Quyền tự chủ đại học ở các quốc gia khác nhau phụ thuộc vào mô hình nhà nước, trình độ phát triển, văn hóa, xã hội, pháp luật… Kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển cũng như có nét tương đồng về thể chế nhà nước, về văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng để đề ra các giải pháp phù hợp cho đổi mới tăng cường quyền tự chủ cho các trường đại học ở Việt Nam. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo-một trong ba đột phá chiến lược cần thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. Từ khóa: Tự chủ đại học; kinh nghiệm thế giới; thực tiễn Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay là một vấn đề được cả xã hội và các ban ngành quan tâm, phải giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học thì mới có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo và mấu chốt vấn đề là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Việc nghiên cứu quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập trong bối cảnh hiện nay là hoàn toàn cần thiết và kịp thời, sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp tăng cường quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học công lập, góp phần đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học 2. Khái quát một số vấn đề về tự chủ giáo dục đại học Tự chủ đại học (University autonomy) là quyền của cơ sở giáo dục đại học quyết định sứ mạng và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiện thực hiện sứ mạng và chương trình hoạt động đó, đồng thời tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của mình. Đây là hình thức quản trị thích hợp với những tổ chức không thuộc hệ thống hành chính (hệ thống có cấp trên cấp dưới; cấp dưới do cấp trên bổ nhiệm và phải làm theo quyết định của cấp trên.). Trên thế giới, khái niệm “tự chủ đại học” (University autonomy) nói đến các mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học (N.V. Varghese, Michaela Martin, Thomas Estermann). Xu hướng thay đổi cơ bản là phát huy truyền thống tự do học thuật và giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan công quyền đối với trường đại học. Từ góc độ này, tự chủ đại học là quyền tự do của thể chế đại học trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ 503
- của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnh hưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Tự chủ đại học là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này được thể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước. Thuật ngữ “tự chủ đại học”, mặc dù xuất hiện nhiều trong truyền thông đại chúng, nhưng chưa được sử dụng một cách chính thức trong đường lối, chính sách giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1979-2005. Nghị quyết số 14/1979/NQ-TW về cải cách giáo dục chưa nói đến “đổi mới giáo dục”, “tự chủ”, “tự chịu trách nhiệm” trong giáo dục. Nhưng Nghị quyết này sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 33 lần, trong đó nêu rõ ba mục tiêu của cải cách giáo dục là: (i) chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành, (ii) thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, (iii) đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới. Nghị quyết số 04/1993/NQ-TW về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo sử dụng từ ngữ “cải cách giáo dục” 3 lần, sử dụng từ ngữ “cải cách” 12 lần, nhưng chưa sử dụng từ ngữ “tự chịu trách nhiệm, “trách nhiệm giải trình” và “tự do” trong giáo dục. Đặc biệt, Nghị quyết này đã 2 lần sử dụng từ ngữ “tự chủ”. Luật Giáo dục (2005) có hiệu lực từ ngày 01-01-2006 chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ “đổi mới” khi quy định một trong các nhiệm vụ của nhà giáo là “đổi mới phương pháp giảng dạy” (Điều 72, Khoản 4). Luật này chỉ 1 lần sử dụng từ ngữ “cải cách” nhưng không phải “cải cách giáo dục”nói chung mà cải cách nội dung chương trình của một cấp học (Điều 100, Khoản 1). Như vậy, đến năm 2005 từ ngữ “tự chủ đại học” (University autonomy) vẫn chưa được sử dụng trong Luật Giáo dục (2005), nhưng các trường đại học, trường trung cấp, trường cao đẳng được quy định là có “quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm”. Nhưng quyền tự chủ này luôn bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật và điều lệ nhà trường mà trường đại học muốn thực hiện thì phải “xin” để được “cho”. Trên thực tế, đến năm 2012 Luật Giáo dục đại học mới được ban hành trong đó có Điều 32 quy định “Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học” và đến năm 2014 Điều lệ trường đại học mới được ban hành. Tự chủ đại học bao gồm bốn khía cạnh sau: A. Tự chủ về tổ chức (organisational autonomy), tức là tự quyết định cơ cấu tổ chức và quá trình ra quyết định của mình, cụ thể là về: - Người đứng đầu: tiêu chuẩn, thủ tục lựa chọn, nhiệm kỳ và việc miễn nhiệm người đứng đầu; - Hội đồng quản trị: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cơ cấu, tiêu chuẩn, thủ tục lựa chọn thành viên trong trường, ngoài trường; nhiệm kỳ và việc miễn nhiệm thành viên; - Các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ và hành chính; - Tính chất vì lợi nhuận/không vì lợi nhuận của nhà trường. B. Tự chủ về tài chính (financial autonomy), tức là độc lập điều hành và phân bổ ngân quỹ của mình, cụ thể là quyết định: - Thời hạn của một vòng tài trợ công; loại tài trợ công; - Việc vay vốn và duy trì thặng dư; 504
- - Việc điều hành cơ sở vật chất; - Học phí của sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh trong nước và nước ngoài. C. Tự chủ về nhân sự (staffing autonomy), tức là tự quyết định việc tuyển dụng và điều hành nguồn nhân lực sao cho phù hợp với lợi ích của mình, cụ thể là: - Các vị trí việc làm, mức lương; -Thủ tục tuyển dụng, đề bạt, miễn nhiệm. D. Tự chủ về học thuật (academic autonomy), tức là tự điều hành công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của mình, cụ thể là quyết định: - Số lượng người học và việc tuyển sinh vào các hệ đào tạo; - Chương trình đào tạo, bao gồm ngôn ngữ sử dụng trong đào tạo; - Cơ chế đảm bảo chất lượng. 3. Một số mô hình tự chủ giáo dục đại học trên thế giới Mô hình tự chủ về tài chính và nhân lực của đại học ở Nhật Bản Cải cách giáo dục đại học công lập được tiến hành ở nước này từ những năm 1990 do yêu cầu của cải cách nền kinh tế. Ban đầu, quá trình này tập trung vào việc xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng giáo dục. Năm 2004, việc ban hành một chính sách liên kết (Corporatization Policy) và Luật liên kết các trường đại học công lập (National University Corporation Act) đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của quá trình tự chủ ở đại học. Những thay đổi về địa vị pháp lý cho các trường đại học tạo điều kiện cho các tự chủ về tài chính và nguồn nhân lực ở nước này. Các trường đại học công lập ở Nhật Bản được sáp nhập vào Hiệp hội các trường đại học (National University Corporations-NUCs). Nếu như trước đây, các trường đại học thuộc quản lý của Bộ Giáo dục thì kể từ sau ban hành luật nêu trên, mỗi trường đại học công lập trở thành một pháp nhân độc lập với sự quản lý từ trung ương. Mục tiêu của luật này là trao thêm quyền cho người đứng đầu các trường đại học công lập, thúc đẩy độc lập về tài chính và tự chủ trong quản lý hành chính. Thực tiễn thi hành luật này còn cho thấy các kết quả ấn tượng về sự độc lập về tài chính, hành chính, học thuật và đi cùng với đó là sự tăng cường tính minh bạch và kiểm định công. Thêm vào đó, kể từ sau khi ban hành luật nêu trên, giảng viên các trường đại học không còn là công chức nhà nước. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm, thuyên chuyển giảng viên trong trường đều do trường đại học thực hiện. Một số kết quả đạt được, đặc biệt là về tự chủ tài chính và trách nhiệm giải trình từ sau khi ban hành Luật liên kết các trường đại học công lập 2004 đó là: Thứ nhất, chính sách và pháp luật đã trao thêm nhiều sự linh hoạt trong quản lý cho Liên hiệp các trường đại học công lập bằng việc tăng cường trách nhiệm giải trình thông qua các kế hoạch giữa nhiệm kỳ do Bộ Giáo dục thông qua. Cụ thể, trước đây, các trường này không phải lên kế hoạch, chiến lược cho riêng mình mà chỉ cần tuân theo quy định của pháp luật, nay yêu cầu Liên hiệp các trường đại học công lập phải lập mục tiêu tăng cường chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, cải thiện hiệu quả tài chính; Thứ hai, các trường được toàn quyền phân phối và sử dụng các thu nhập từ hoạt động. Nói một cách khác, họ phải tự cân bằng giữa mức chi và mức thu, điều này khác hẳn với trước đây khi mà họ chỉ cần đảm bảo không bội chi ngân sách. Cũng nhờ có 505
- cơ chế này mà các trường đại học có thể thu hút nhiều nguồn tài trợ hơn so với trước đây; Thứ ba, việc chia cơ chế giải trình thành 4 loại, qua 2 tiêu chí: Nguồn kiểm soát (kiểm soát nội bộ, kiểm soát từ bên ngoài, mối quan hệ giữa thành viên góp vốn) và mức độ kiểm soát (mối liên hệ trong giải trình). Theo đó, cơ chế giải trình ở Nhật bản được phát triển theo hướng: Thúc đẩy sự kiểm soát từ bên ngoài và tăng thêm nhiều sự linh hoạt. Do đó, một Ủy ban kiểm định dành cho Liên hiệp các trường đại học công lập được thành lập ở nước này để tiến hành việc kiểm định, đánh giá đối với mỗi trường đại học. Từ năm 2004, việc đánh giá chất lượng là bắt buộc đối với các trường đại học ở Nhật Bản. Kết quả nhìn chung cho thấy cơ chế tự chủ như trên giúp cho các trường đại học công lập ở Nhật Bản đáp ứng được yêu cầu của việc nghiên cứu cạnh tranh. Các thành viên của trường đại học ngày nay có thể tương tác trực tiếp với các công ty để tiến hành các hoạt động hợp tác nghiên cứu. Các thủ tục hành chính, ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả hơn. Mô hình tự chủ về tài chính và nhân lực của đại học ở Luxembourg Luxembourg chỉ có duy nhất một trường đại học, lấy tên “Đại học Luxembourg” và hoạt động của trường này được thực hiện trong khuôn khổ ổn định từ năm 2010. Đây cũng là lý do tại sao nước này dễ đạt được hiệu quả cao trong tự chủ. Cụ thể: Về tài chính, điểm lợi thế của Luxembourg đó là nước này chỉ có duy nhất một trường đại học, do đó, quá trình cải cách để đạt được tự chủ cho trường đại học là khá dễ dàng. Vấn đề phân bổ tài chính, chi tiêu như thế nào chỉ là vấn đề giữa Chính phủ và Trường đại học Luxembourg. Theo quy định thì Chính phủ nước này quản lý vấn đề tài chính của trường đại học theo kế hoạch 4 năm một lần. Gần 80% kinh phí hoạt động của Trường đại học Luxembourg là từ kinh phí của Chính phủ, tuy nhiên, trường vẫn mong đợi có khoảng gần 25% còn lại là từ nguồn kinh phí bên ngoài (đến giữa năm 2020) mà không bị cắt giảm kinh phí từ nhà nước. Khi thống nhất mức kinh phí với Chính phủ, Trường đại học Luxembourg được tự quyết việc sử dụng nguồn kinh phí nội tại, được phép tự do quyết định mức học phí cho tất cả các cấp học, cho tất cả các sinh viên (không có sự phân biệt giữa sinh viên thuộc các nước Châu Âu và sinh viên đến từ các nước không thuộc Châu Âu). Nguồn thu được và nguồn dư thừa sẽ được trường tự sử dụng trong khoảng thời gian là 4 năm. Sau khoản thời gian này, Chính phủ sẽ quyết định thu hoặc không lấy thu dư đó (nếu còn). Ngược lại, trường có thể mượn tiền của Chính phủ nếu được Bộ có thẩm quyền phê duyệt. Việc sử dụng và định đoạt tài sản (là bất động sản)-các tòa nhà được các trường tự quyết (có thể bán) ngoại trừ những tòa nhà thuộc sở hữu của Chính phủ hoặc được mượn từ tổ chức khác. Về nguồn nhân lực, trường đại học được toàn quyền tuyển dụng giảng viên và nhân viên hành chính. Việc giảng viên không còn là công chức nhà nước cho phép các trường tự quy định lương cho giảng viên, tự quyết định việc sa thải hoặc thăng chức cho giảng viên mà không phải tuân theo bất kỳ một quy định cụ thể nào. Phần lớn các giảng viên của trường đại học làm việc theo hợp đồng cá nhân. Việc tuyển dụng và trả lương do trường quyết định có tham chiếu với bảng lương dành cho công chức nhà nước, nhưng việc trả thêm lương cho giảng viên trong khả năng là do trường quyết định. 506
- Như vậy, về cơ bản, quá trình này ở Luxembourg khá giống với Nhật Bản, khi mà trường đại học không còn là một bộ phận chịu sự quản lý của Chính phủ, các giảng viên không còn là công chức nhà nước thì việc người đứng đầu cơ sở đào tạo được toàn quyền quyết định đối với nguồn tài chính và toàn quyền trong việc quản lý người lao động là hết sức dễ dàng. Nhà nước khi đó chỉ còn đóng vai trò định hướng và là một bên đối tác, bình đẳng trong thỏa thuận. Bản kế hoạch 4 năm cho vấn đề tài chính là một trong những bài học kinh nghiệm có giá trị cho nước ta trong bối cảnh hiện nay. Mô hình tự chủ về tài chính và nhân lực của đại học ở Hoa Kỳ Là quốc gia dành mức tự chủ cho đại học cao nhất trên toàn thế giới và với đặc tính của nền giáo dục là: Phi tập trung (các trường đại học không chịu sự quản lý, điều hành, chỉ đạo từ bất kỳ cơ quan trung ương nào), Thực tiễn (đào tạo gắn liền với nhu cầu của kinh tế, khoa học kỹ thuật), Đại chúng (cho tất cả mọi người) và Thị trường (nguồn lợi thu được từ việc bán các kết quả nghiên cứu), Hoa Kỳ giải quyết vấn đề tài chính và nhân sự tại cơ sở giáo dục đại học như sau: Về tài chính, giáo dục đại học ở Hoa Kỳ là nền giáo dục định hướng thị trường. Chính vì vậy từ giữa thế kỷ thứ 19, các bang đã thành lập một số lượng cao đẳng và đại học riêng cho mình. Tuy nhiên, những cơ sở đào tạo công lập này vẫn nhận một phần nhỏ tài chính từ chính phủ. Nguồn tài chính do bang cấp cho giáo dục đại học chiếm khoảng 20-30% trong suốt thế kỷ 20. Đến cuối thế kỷ thứ 20 thì các cơ sở giáo dục đại học công lập nhận được 36% vốn từ quỹ của bang, cùng với đó là khoảng 11% và 4% từ liên bang và chính quyền địa phương. Bước sang thế kỷ 21, các cơ sở công lập này chỉ nhận phần ít khoảng 10% từ bang. Phần còn lại đến từ các nguồn khác như: thu nhập từ nghiên cứu, đầu tư, dịch vụ, được tài trợ và học phí. Tất cả các nguồn thu nhập khác này đều hoàn toàn không chịu sự quản lý của bang, và việc sử dụng nó giống như một doanh nghiệp sử dụng vào thị trường giáo dục. Các cơ sở giáo dục công lập chỉ phụ thuộc vào kiểm soát của bang đối với phần nhỏ nguồn tài chính nhận từ ngân sách nhà nước này (điều này sẽ không xảy ra với đại học tư thục) khi những trường này mong muốn có thể dành một phần học phí trao cho các sinh viên để tăng tính cạnh tranh. Như vậy, tính tự chủ đối với tài chính của các cơ sở giáo dục đại học ở Hoa Kỳ là rất cao. Việc hoàn toàn được chủ động sử dụng nguồn ngân sách cũng như thu lợi từ việc bán các kết quả nghiên cứu, liên kết với các doanh nghiệp, ngành nghề có nhu cầu để tạo ra nguồn thu nhập được thực hiện rất tốt ở Hoa Kỳ. Kinh phí hoạt động của các trường đại học và cao đẳng ở Hoa Kỳ vì thế mà ngày một tăng. Thậm chí, các trường còn có thể tùy thuộc vào kinh phí của mình mà đưa ra mức hỗ trợ cho sinh viên (ở điểm này, các trường tư thục có mức hỗ trợ cao hơn). Điều đó cho thấy rằng, việc nhận nguồn kinh phí cố định từ Chính phủ không còn hấp dẫn với các trường đại học ở Hoa Kỳ. Với cơ chế mở, đầu tư vào nghiên cứu khoa học và kiếm lợi từ các sản phẩm cũng như thu phí từ sinh viên và gia đình sinh viên là điểm mấu chốt của tài chính cho các trường đại học. Muốn làm được điều này, các trường phải được chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng và phân phối nguồn tài chính, không phải chịu bất kỳ chỉ đạo, kiểm soát nào từ phía trung ương. Về nhân sự, không có một quy tắc nào điều chỉnh việc giảng viên ở các trường đại học có thể làm việc toàn thời gian, bán thời gian, có thể được thăng hạng sau một thời gian nhất định hoặc không. Nhiều vị trí việc làm trong trường đại học có thể lựa chọn bao gồm: Giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ. Do vậy, có những giảng viên làm công tác giảng dạy, có những giảng viên làm công tác nghiên cứu và có những người chỉ làm hành chính phục vụ. Việc tuyển dụng người cho các vị trí phù hợp, thăng hạng 507
- hay sa thải đối với các vị trí này do các trường đại học toàn quyền quyết định. So với hai quốc gia kể trên, Hoa kỳ có bước đi mạnh mẽ hơn khi ngay từ đầu đã coi giáo dục như một nền công nghiệp, tức là giáo dục hoàn toàn độc lập với Nhà nước. Kết quả đạt được từ việc trao quyền tự chủ một cách tối đa như Hoa Kỳ đó là biến các trường đại học ở Hoa Kỳ trở thành điểm đến mơ ước của nhiều sinh viên trên toàn thế giới. Mô hình giáo dục đại học của Singapore Singapore có hệ thống giáo dục chất lượng cao, có uy tín trong khu vực và đang vươn lên trở thành trung tâm giáo dục của thế giới. Đối với giáo dục đại học, Singapore đã thực thi tập đoàn hóa các trường đại học công vào năm 2006. Đặc điểm cơ bản của tập đoàn hóa đại học ở Singapore là: (1) Đa dạng hóa nguồn tài chính, trong đó có việc phát triển mạnh quỹ hiến tặng; (2) Không coi thầy giáo là công chức; (3) Trả lương cạnh tranh theo mức độ hoàn thiện của công việc; (4) Tăng quyền tự chủ cho các trường. Hiện nay, giáo dục của Singapore phát triển theo cơ chế thị trường, trường học có nhiều quyền tự chủ, giữa các trường học có sự cạnh tranh cao. Nhà nước xác định mục tiêu, chiến lược và quản lý chặt chẽ chất lượng giáo dục. Bộ Giáo dục quản lý các trường công, tư vấn và giám sát các trường tư. Singapore mở rộng quyền tự chủ cho tất cả các trường trong vấn đề chương trình, kinh phí và quản lý nhân sự. Chính phủ Singapore đầu tư 20% tổng ngân sách quốc gia cho giáo dục; có chính sách tài trợ cho học sinh nghèo và gia đình đông con bằng việc miễn giảm học phí, miễn phí thi tốt nghiệp phổ thông, cấp học bổng cho học sinh, sinh viên xuất sắc… Để nâng cao chất lượng giáo dục, Singapore tăng cường quốc tế hoá giáo dục, thực hiện nền giáo dục dựa trên năng lực, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức và thông tin trong thế kỷ 21. Chính phủ cho phép các trường nước ngoài danh tiếng đầu tư 100% vốn để mở trường và khuyến khích các trường trong nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đặc biệt là các trường liên kết Mỹ-Singapore. Có thể nói, giáo dục đại học ở các nước tiên tiến đều phát triển đa dạng, nhiều loại hình, chính quy và không chính quy, công và tư, giáo dục suốt đời… Các trường được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Nhìn chung, cả giáo dục đại học công và tư đều có những mặt mạnh và những hạn chế cần khắc phục. Việc ra đời các trường tư và trường công thu học phí đã hình thành nên thị trường cung cấp các dịch vụ giáo dục ở các cấp học, đặc biệt là thị trường giáo dục đại học. Đa số các nước đều tiến hành cải cách giáo dục đại học theo mô hình của Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản, Úc, Singapore… Việc nghiên cứu mô hình giáo dục đại học của các nước phát triển, giúp Việt Nam đúc kết được những kinh nghiệm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 4. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam 4.1. Thực trạng tự chủ giáo dục đại học ở Việt Nam Giáo dục Đại học của Việt Nam trong nhiều năm qua đã có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay cả nước có 235 trường đại học, học viện (bao gồm 170 508
- trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sỹ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện có 72.792 người, trong đó giảng viên có trình độ tiến sỹ là 16.514 người và thạc sỹ là 43.065 người và hiện đang đào tạo cho khoảng 1,76 triệu sinh viên đại học, cao đẳng trên cả nước1. Tự chủ về đào tạo Công tác tuyển sinh là một khâu quan trọng của quá trình đào tạo cũng như hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Hằng năm, việc xác định số lượng tuyển sinh phải trên cơ sở nhu cầu học tập, nhu cầu nhân lực của xã hội, phụ thuộc vào năng lực về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, tài chính, khả năng quản lý giảng dạy của từng trường để Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét và ký duyệt. Trong những năm qua, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển sinh cũng đã có những thành tựu bước đầu quan trọng, cụ thể như: Về xác định chỉ tiêu tuyển sinh: chỉ tiêu tuyển sinh là một nội dung quan trọng nhất của tuyển sinh đại học và sau đại học ở các trường, quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngành đào tạo nói riêng và các trường nói chung. Chỉ tiêu tuyển sinh trước đây từ chổ được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cụ thể cho các trường, đồng nghĩa với việc cấp ngân sách nhà nước cho trường thông qua chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm thì đến nay các trường đại học đã được phép tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh của mình thông qua năng lực đào tạo, năng lực đội ngũ và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của ngành nghề đào tạo. Trên thực tế việc xác định chỉ tiêu đào tạo của các trường đại học công lập hiện nay được thực hiện theo quy định của thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT ngày 02/12/2011 quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, Thông tư số 20/2012/TT-BGDĐT ngày 12/6/2012 sửa đổi điều 6 của Thông tư số 57 và Thông tư số 32/2015/TT-BGDĐT ngày 16/12/2015 quy định xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, chỉ tiêu tuyển sinh của các trường được xác định chủ yếu dựa trên số lượng đội ngủ giảng viên cơ hữu của trường và diện tích sàn xây dựng phục vụ nhu cầu học tập, thực hành và giải trí của sinh viên. Các chỉ tiêu này có sự khác nhau ở các nhóm ngành cũng như ở các nhóm trường, ví dụ các trường đào tạo nhóm ngành nghệ thuật, nhóm ngành khoa học y học thì tỷ lệ này thường cao hơn các nhóm ngành khoa học xã hội hoặc kinh tế. Thủ tục giao chỉ tiêu cho các trường cũng khác trước đây, nếu trước đây Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định giao chỉ tiêu cho từng trường thì hiện nay các trường tự xác định chỉ tiêu và đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo theo năm tài chính, sau đó Bộ sẽ thông báo chỉ tiêu của các trường rộng rãi trên các phương tiện thông tin của Bộ để phụ huynh và sinh viên cả nước có thể theo dõi và giám sát chặt chẽ việc thực hiện chỉ tiêu của các trường. Có thể nói việc giao quyền tự chủ cho các trường trong công tác tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh của mình thể hiện rõ một bước tiến lớn trong việc giao quyền tự chủ, giúp cho các trường chủ động trong việc xác định chỉ tiêu phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của ngành nghề mình đào tạo, phù hợp với năng lực của cơ sở đào tạo Tự chủ về tài chính Cơ chế tự chủ về tài chính đã có tác động tích cực đến nhiều khía cạnh của các trường đại học công lập, đặc biệt là nguồn thu, việc sử dụng nguồn lực tài chính, thu 509
- nhập. Bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các trường năm 2016 là 10.553 tỷ đồng, các trường đại học công lập đã huy động các nguồn thu sự nghiệp năm 2016 là 14.878 tỷ đồng2. Chính sách tự chủ tài chính đã mang lại một sự đổi mới về chất, tác động tích cực hơn đến công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà trường. Chính sách tự chủ đã đặt ra yêu cầu buộc các trường (đặc biệt là tập thể lãnh đạo nhà trường) phải quan tâm hơn đến công tác quản lý và sử dụng nguồn kinh phí, nâng cao tinh thần tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng nguồn lực tài chính. Trên cơ sở đó, các trường được chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, tạo điều kiện tăng nguồn thu sự nghiệp, tiết kiệm chi, bổ sung nguồn kinh phí tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy của nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sự nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy, 87,8% ý kiến khẳng định việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính của trường. Chính sách tự chủ tài chính đã thực sự hướng đến tính hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính, thể hiện qua sự tích lũy, tăng trưởng của việc trích lập các quỹ (đặc biệt là Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của trường) và thu nhập tăng thêm của người lao động tăng dần qua các năm. 67,9% ý kiến cho rằng, việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính cho phát triển cơ sở vật chất của trường. Các trường chủ động hơn trong việc định hướng phát triển công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm mở rộng, khai thác các nguồn thu sự nghiệp. Trong đó có việc chủ động quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, từ đó thương mại hóa kết quả nghiên cứu, liên kết với các doanh nghiệp để tạo ra giá trị thực tiễn từ các công trình nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, việc tự chủ về tài chính cũng giúp các trường mở rộng quy mô đào tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường các hoạt động đào tạo liên kết để nâng cao chất lượng đào tạo, nhằm thu hút được sinh viên trong bối cảnh có rất nhiều trường đại học cùng được mở mã ngành đào tạo nhiều loại hình nhóm ngành nghề như hiện nay. Tự chủ về tổ chức, nhân sự Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp với lực lượng lao động trực tiếp (giảng viên) tăng lên trong khi đội ngũ lao động gián tiếp (chuyên viên và nhân viên) giảm xuống trong đó chú trọng hơn đến việc sử dụng công nghệ thông tin hoặc thuê ngoài nhằm tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy. Tính đến tháng 7/2017, cơ cấu nhân lực tại các trường như sau: số lượng giảng viên chiếm tỷ lệ là 62,52%-lớn nhất trong cơ cấu nhân lực của nhà trường, gấp đôi số lượng nhân viên. Đội ngũ lãnh đạo và quản lý chiếm gần 10% tổng số nhân lực tại các trường tự chủ. Theo cáo của các trường, số lượng cán bộ/giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể, số lượng cử nhân giảm xuống so với giai đoạn trước tự chủ. Về phát triển đội ngũ giảng viên, năm học 2016-2017, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 72.792 người , tăng 4,6% so với năm học 2015-2016, trong đó giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 (tăng 21,4%) và thạc sĩ là 43.065 (tăng 6,6%). Kết quả tích cực này đến từ việc các trường chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ giảng viên, tuyển dụng đội ngũ giảng 510
- viên có học vị từ tiến sĩ trở lên, kéo dài thời gian công tác đối với giảng viên có chức danh, học vị cao. Hình 1. Sự thay đổi về chất lượng nhân sự của các trường tự chủ (2015-2017) (Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017) 4.2. Một số giải pháp cơ bản Thứ nhất, Quốc hội sửa đổi Luật Giáo dục đại học và hoàn thiện thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sau khi được sửa đổi. Trong quá trình sửa đổi Luật Giáo dục đại học, một số vấn đề về tự chủ của các trường đại học công lập đặc biệt cần làm rõ như: quan niệm về tự chủ đại học, quyền tự chủ đại học, nội dung và điều kiện tự chủ đại học; trách nhiệm giải trình của các cơ sở Giáo dục đại học tự chủ; hoàn thiện, bổ sung và xác định rõ cơ chế quản trị đại học nói chung và vị trí, vai trò của Hội đồng trường nói riêng; làm rõ và phân định vai trò chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng trường, Ban giám hiệu và Đảng ủy. Đề xuất xem xét sửa đổi các luật có liên khác như Luật Đầu tư công, Luật Viên chức v.v. để các trường đại học được thực hiện tự chủ thực sự. Thứ hai, cần thay đổi tư duy quản lý Nhà nước theo hướng Nhà nước chỉ quy định về khung trình độ quốc gia, chuẩn kỹ năng nghề nghiệp quốc gia để từ đó các cơ sở giáo dục đại học sẽ xây dựng mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra cho người học đáp ứng các chuẩn nói trên, từ đó các cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn tự chủ trong việc tổ chức đào tạo. Thứ ba, cần đổi mới phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo hướng chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang phân cấp và mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học. Nhà nước nên thay đổi từ vai tr “người lái đ ” sang vai tr định hướng cho sự phát triển, chuyển từ kiểm soát sang giám sát thông qua chính sách kiểm định chất lượng và phân bổ ngân sách. Có như vậy thì nhà nước vẫn đảm bảo được tính hiệu quả và hiệu lực trong việc thực thi vai trò quản lý của mình. Thứ tư, Giao quyền toàn bộ về công tác tuyển sinh cho nhà trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần giao cho các trường quyền quyết định chỉ tiêu tuyển dựa trên tín hiệu thị trường lao động và hệ thống đảm bảo chất lượng với các tiêu chí chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, quyết định hình thức và phương thức tuyển sinh phù hợp với năng lực mỗi trường. 511
- Thứ năm, Rà soát, đánh giá sự phù hợp của Luật đầu tư công với cơ chế tự chủ Giáo dục đại học. Việc đầu tư cho các trường nên áp dụng cơ chế trọn gói và theo dự án. Các dự án quy mô lớn, cần sự hỗ trợ của nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần hướng dẫn cơ sở Giáo dục đại học tự chủ đề xuất dự án đầu tư để thẩm định, tổng hợp vào kế hoạch đầu tư công trung hạn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định và hàng năm bố trí kế hoạch vốn đầu tư cho cơ sở Giáo dục đại học tự chủ để triển khai thực hiện. Thứ sáu, Hoàn thiện các hướng dẫn theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở Giáo dục đại học mới ban hành; rà soát, sửa đổi, bổ sung trình cấp có thẩm quyền ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ giáo dục đào tạo và thực hiện cơ chế tự chủ. Bên cạnh đó, tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền liên quan đến tự chủ đại học nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ cho các trường đại học thực hiện cơ chế tự chủ. Trước mắt tập trung vào việc rà soát, sửa đổi, ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ trong khi chờ đợi sự điều chỉnh về luật và các nghị định. 5. Kết luận Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập là một trong những vấn đề có tính cấp bách nhất hiện nay của giáo dục đại học Việt Nam, giải quyết được vấn đề này sẽ giúp đổi mới quản trị đại học, đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước đối với giáo dục đại học hiện nay. Đúng như Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập…đã đề ra. Trong quá trình mở rộng tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học việc nghiên cứu, học tập các mô hình giáo dục đại học quốc tế là hết sức cần thiết, đặc biệt từ những nền giáo dục đại học tiên tiến có xuất phát điểm gần với Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đồng Thế Hiển (2017), Đổi mới cơ chế tự chủ giáo dục đại học công lập giai đoạn 2015-2017: kết quả và kiến nghị chính sách, Tạp chí Tài chính, tháng 12/2017. 2. Phan Thị Bích Nguyệt (2016), Tự chủ đại học và các vấn đề nhức nhối cần lời giải, Hội thảo “Tự chủ Đại học-Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam tổ chức ngày 30/9/2016. 3. Nguyễn Kiều Oanh (2017), Đường lối chiến lược, chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, Chuyên đề Bồi dưỡng Ngạch giảng viên chính, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017. 4. Maassen, P., Gornitzka, & Fumasoli, T. (2017). University reform and institutional autonomy: A framework for analysing the living autonomy. Higher Education Quarterly, 71(3), 239. 5. Provot, E.B. & Easterman, T. (2017). University Autonomy in Europe III The Scorecard 2017. Available at: https://eua.eu/resources/publications/830:the-european-university- 512
- association-and-science-europe-join-efforts-to-improve-scholarly-research- assessment-methodologies.html. 6. Nguyễn Minh Thuyết (2014): Tự chủ đại học-Thực trạng và giải pháp, Đối thoại Giáo dục Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề Cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam, ngày 31/07 và 01/08/2014 tại TP Hồ Chí Minh. 513
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những rào cản trong quá trình thực hiện tự chủ đại học ở nước ta hiện nay
8 p | 86 | 10
-
Một số vấn đề đặt ra về tự chủ đại học ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
7 p | 38 | 7
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam - xu thế tất yếu
9 p | 29 | 5
-
Quy định pháp luật về tự chủ đại học ở Việt Nam – những vấn đề đặt ra
12 p | 25 | 5
-
Xây dựng đội ngũ giảng viên - Yếu tố quan trọng của tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
8 p | 13 | 4
-
Thực trạng tự chủ đại học tại Việt Nam hiện nay và một số giải pháp
8 p | 14 | 3
-
Quản lí nhà nước đối với tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay thực trạng và đề xuất
6 p | 6 | 3
-
Nghiên cứu về tự chủ đại học ở Việt Nam: Tổng quan từ các công bố quốc tế và trong nước
8 p | 7 | 3
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
11 p | 23 | 3
-
Cơ chế quản trị đại học tự chủ và tiến trình hoàn thiện pháp luật tự chủ đại học ở Việt Nam
19 p | 21 | 3
-
Bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục với việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam
19 p | 21 | 3
-
Tạo động lực cho đội ngũ giảng viên trong bối cảnh tự chủ đại học ở Việt Nam
6 p | 4 | 2
-
Ba điểm cần lưu ý khi giám sát thực thi tự chủ đại học ở Việt Nam
4 p | 16 | 2
-
Hoàn thiện cơ sở pháp lý và tổ chức thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam
13 p | 4 | 2
-
Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
6 p | 9 | 1
-
Phát huy vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
8 p | 15 | 1
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề đặt ra
8 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn