Tự chủ đại học ở các trường đại học địa phương: Những khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ
lượt xem 6
download
Trong bài viết này nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ giáo dục đại học ở các trường đại học địa phương nói chungvà trường Đại học Quảng Bình nói riêngtrong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tự chủ đại học ở các trường đại học địa phương: Những khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ
- TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỊA PHƯƠNG: NHỮNG KHÓ KHĂN - THÁCH THỨC VÀ LỘ TRÌNH TIẾN TỚI TỰ CHỦ Nguyễn Đức Vượng Lê Trọng Đại Trường Đại học Quảng Bình TÓM TẮT: Trên cơ sở xem xét việc tự chủ trong giáo dục đại học một số nước trên thế giới và thực trạng triển khai tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam thời gian qua; nhóm tác giả phân tích những khó khăn - thách thức đặt ra đối với các trường đại học địa phương Việt Nam trên lộ trình triển khai việc tự chủ đại học. Trong bài viết này nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ giáo dục đại học ở các trường đại học địa phương nói chungvà trường Đại học Quảng Bình nói riêngtrong thời gian tới. Từ Khóa: Tự chủ, khó khăn, thách thức, giải pháp, lộ trình. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự chủ đại học là điều kiện giúp các cơ sở giáo dục đại học (GDDH) vận hành tốt hơn khi các trường được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để các trường đại học đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục. Vì thế, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là “chuyển dịch dần từ mô hình Nhà nước kiểm soát sang các mô hình có mức độ tự chủ cao hơn, từ Nhà nước kiểm soát (state control) sang Nhà nước giám sát (state supervison)”[1]. Do đó tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học là xu Việt Nam hiện nay. Điều 32, Luật Giáo dục Đại học sửa đổi (2018) khẳng định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học”[2]. Tuy vậy, đã 8 năm trôi qua kể từ khi Luật Giáo dục Đại học ban hành đến nay thì kết quả tự chủ đại học của Việt Nam đạt được vẫn còn rất khiêm tốn và không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc nhất là ở các trường đại học địa phương (ĐHĐP). Trên cơ sở tìm hiểu việc tự chủ ở một số trường đại học trên thế giới và thực trạng triển khai tự chủ trong giáo dục đại học ở Việt Nam thời gian qua chúng tôi phân tích những kết quả đã đạt được và những khó khăn thách thức đặt ra đối với các trường đại học ở nước ta nhất là các trường đại học địa phương trên lộ trình triển khai việc tự chủ đại học đề xuất một số giải pháp để tiếp tục triển khai việc tự chủ ở các trường ĐHĐP nói chung và trường Đại học Quảng Bình nói riêng trong thời gian tới. 2. NỘI DUNG 2.1. Việc tự chủ trong giáo dục ĐH một số nước trên thế giới Thái Lan bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ đại học từ năm 1992 và tất cả các trường đại học ở Thái Lan đều được quyền tự chủ rất lớn. Mặc dù được xem là đại học 401
- tự chủ nhưng các trường đại học ở Thái Lan vẫn được nhận một khoản trợ cấp nhất định của Nhà nước, song các trường được hoạt động bên ngoài bộ máy hành chính của Chính phủ và được Bộ Giáo dục& Đào tạo giám sát. Trường được quyền tự do xác định mức lương của cán bộ giảng viên, nhân viên và tự quuyết về nhân sự. Mục tiêu của chính sách này là giúp các trường đại học tăng hiệu quả trong việc sử dụng tài chính và quản lý trường (Wasan Kanchanamukda, 2013). Khi thực hiện tự chủ đại học, Chính phủ Thái Lan gặp 2 mâu thuẫn đó là tăng chất lượng giáo dục và giảm học phí trong các trường đại học. Nhật Bản thông qua Đạo luật Hiệp hội Đại học Quốc gia năm 2003 trao quyền tự chủ về mặt pháp lý cho tất cả các trường đại học với quyền lực nhiều hơn cho Giám đốc/Hiệu trưởng và Ban quản trị trường. Theo thông tin từ nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Đình Đức (2018) thì sau khi thực hiện tự chủ, cơ cấu thu nhập của trường đại học có sự thay đổi tích cực. Ngân sách hỗ trợ hoạt động thường chiếm 33% (trước tự chủ 50%); Tuy nhiên, tổng nguồn thu của các trường vẫn tăng lên do nguồn thu từ nghiên cứu khoa học tăng đáng kể [3]. Năm 1985, Trung Quốc bắt đầu triển khai quyền tự chủ tài chính của các trường đại học. Tuy nhà nước vẫn cấp ngân sách cho các trường đại học nhưng ngân sách hỗ trợ chi thường xuyên giảm đi và có sự khác biệt giữa các trường. Chính phủ Trung Quốc đầu tư có lựa chọn, ưu tiên thúc đẩy trường đạt đẳng cấp quốc tế. Theo đó các trường đại học ở Trung Quốc được tự quyết định học phí. Mức học phí do nhà trường xác định theo nguyên tắc chia sẻ chi phí giữa Nhà nước, nhà trường, người học và không đồng nhất giữa các vùng, các trường và các ngành học. Bên cạnh việc các nước ở các khu vực khác nhau có mức độ tự chủ đại học khác nhau, ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) có thể cũng rất khác nhau tùy theo tính chất, chất lượng của các cơ sở GDĐH đó. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới (WB) năm 2008, trên thế giới có 4 mô hình quản trị đại học với các mức độ tự chủ khác nhau gồm: (1). Mô hình nhà nước kiểm soát hoàn toàn (state control) tiêu biểu là ở các nước Mỹ Latinh, Malaysia trước đây và một số nước khác); (2). Mô hình bán tự chủ (semi-autonomous) tiêu biểu là ở Pháp và New Zealand; (3). Mô hình bán độc lập (semi-independent) tiêu biểu là ở Singapore; (4). Mô hình độc lập (independent) ở Mỹ, Anh, Úc,… Tóm lại, ở nhiều nước trên thế giới, hiện nay vẫn tồn tại song song các trường đại học được trao quyền tự chủ tuyệt đối và các trường vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Ở nhiều nước, các cơ sở GDĐH có thể có tên gọi khác nhau dựa vào quy mô, loại hình đào tạo và mức độ tự chủ cũng rất khác nhau. 2.2. Thực trạng việc triển khai tự chủ trong giáo dục ở Việt Nam thời gian qua Quá trình tự chủ đại học ở nước ta có thể xem như được bắt đầu từ năm 1993- 1995, Chính phủ ban hành các Nghị định thành lập 2 đại học quốc gia và các đại học vùng gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội (1993), Đại học Đà Nẵng (1994), Đại học Huế (1994) và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (1995). Các nghị định này qui định các đại học quốc gia và đại học vùng được phép hoạt động theo quy chế riêng do 402
- Thủ tướng Chính phủ ban hành; Đây là có thể xem là khởi đầu cho quá trình tự chủ đại học ở Việt Nam. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số: 153/2003/QĐ-TTg, ban hành Điều lệ trường đại học, tại Điều 10 nêu “trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự”. Ngày 2 tháng 11 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số: 14/2005/NQ-CP về đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 cũng khẳng định tầm quan trọng của việc hoàn thiện chính sách phát triển GDĐH theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với GDĐH, theo đó đổi mới cơ chế quản lý cần chuyển các cơ sở GDĐH công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính; xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở GDĐH công lập. Tiếp đó liên Bộ GD & ĐT và Bộ Nội vụ đã có Thông tư liên tịch số: 07/2009/ TTLT-BGDĐT-BNV tháng 4 năm 2009, hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quyền tự chủ của đơn vị trong việc xác định nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; trong tổ chức bộ máy và biên chế của đơn vị trong việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức. Ngày 18/6/2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Luật Giáo dục Đại học, đã dành Điều 32 để quy định về tự chủ trong giáo dục đại học. Năm 2018, Quốc hội tiếp tục ban hành “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học” trong đó đã bổ sung cụ thể hóa việc tự chủ trong GDĐH. Quyền tự chủ được luật này giải thích là “quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học”[2] Ngày 20 tháng 10 năm 2017, Bộ Giáo dục& Đào tạo tổ chức hội nghị tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ giai đoạn 2014 - 2017. Đã đánh giá: Mô hình thí điểm tự chủ là tích cực. Các cơ sở giáo dục đại học đã có những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận. Các trường tự chủ đã được giao nhiều quyền hơn nữa trong các lĩnh vực, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính nên đã chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường [4]. Thời gian mở ngành nhanh chóng hơn giúp các trường chủ động trong đào tạo, tận dụng cơ hội mở ngành đào tạo để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của xã hội. Đào tạo chính quy đại trà có phần suy giảm, trong khi quy mô các chương trình tiên tiến, chất lượng cao tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2015. Số lượng các công trình được công bố của 12 trường tự chủ cũng tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013 - 2016, trong đó số lượng bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên môn nước ngoài tăng từ 574 bài năm 2013 lên 1437 bài năm 2016. Về tổ chức bộ máy, các trường chủ động hơn trong thành lập mới, sáp nhập, chia tách, giải thể, nâng cấp các đơn vị trong trường. Sự sắp xếp lại tổ chức đem lại những hiệu quả tích cực. Cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý hơn... Về tài chính, cơ cấu các khoản thu của các trường đại 403
- học công lập tự chủ chưa có sự thay đổi rõ rệt trước và sau tự chủ. Thu từ học phí tăng 4,29% so với thời điểm trước tự chủ và vẫn là nguồn thu chính của các trường đại học, chiếm trên 70% tổng thu của các trường. Cơ chế thí điểm tự chủ tạo điều kiện cho các trường chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch tài chính và dự toán ngân sách ngắn hạn, trung hạn, dài hạn… Các trường có thể chủ động nhiều hơn trong đầu tư mua sắm; chi học bổng cho sinh viên. Cùng với việc tăng học phí, các trường đã thực hiện tăng cường cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng đối với người học…[5]. Bên cạnh những kết quả đạt được, sau gần 3 năm thực hiện tự chủ, nhiều khó khăn, vướng mắc cũng đã bộc lộ cần được tháo gỡ: “Hoạt động tự chủ đại học của các trường đại học công lập hiện đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục ĐH, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Viên chức và các luật về thuế, tài chính… và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các trường đều nhận thấy rằng, dù đã có một số văn bản cởi trói cho các trường được “thí điểm tự chủ”, nhưng do tất cả các văn bản đó đều không thể vượt qua khỏi Luật… nên thực tế cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình vận hành của các trường được giao tự chủ, một số văn bản quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn khi triển khai…[5] Từ khi triển khai thí điểm tự chủ đại học (2014) ban đầu với 3 trường đến nay cả nước đã có hơn 22 trường được thực hiện tự chủ. Tuy đều tự chủ nhưng có 22 trường trước khi tự chủ đều được cấp kinh phí hoạt động và đầu tư cơ sở vật chất từ ngân sách nhà nước. 2.3. Những khó khăn - thách thức và giải pháp giải quyết chúng trên lộ trình tự chủ đại học ở các trường ĐHĐP nói chung và Đại học Quảng Bình nói riêng 2.3.1. Khó khăn - thách thức của các trường ĐHĐP nói chung và đại học Quảng Bình nói riêng Qua tìm hiểu, kết quả triển khai thí điểm tự chủ đại học ở nước ta chúng tôi thấy các trường đại học đang thí điểm tự chủ đều cho rằng “tự chủ về tài chính là vấn đề quan trọng nhất”. Nguồn thu chủ yếu của các trường đại học tự chủ là từ học phí của sinh viên nên có những khó khăn và thách thức nhất định. + Khó khăn - thách thức về tuyển sinh Vì các trường ĐHĐP đều được thành lập trên cơ sở các trường Cao đẳng sư phạm vốn giữ vai trò đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở (THCS) với các trình độ từ trung cấp đến cao đẳng cho địa phương (tỉnh, thành phố nơi trường đóng). Với lịch sử và truyền thống đó, thế mạnh của các trường ĐHĐP vẫn đang là đào tạo giáo viên (từ mầm non đến THCS) nhưng về cơ sở vật chất, đội ngũ, uy tín không thể sánh được với các trường Đại học sư phạm trọng điểm. Do đó tuyển sinh các ngành sư phạm ở ĐHĐP hiện nay đã và đang giảm sút, thậm chí nhiều chuyên ngành không tuyển sinh được. Khó khăn trong tuyển sinh đào tạo giáo viên xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên nhân chính sau: Nhu cầu xã hội và thị hiếu của học sinh tốt nghiệp phổ thông hiện nay phần đông đều không muốn đăng kí vào học các ngành sư phạm. Thị trường việc làm và thu nhập của giáo viên rất hạn hẹp 404
- khiến phần đông học sinh tốt nghiệp phổ thông quay lưng với các ngành đào tạo giáo viên. Do từ năm học 2020 - 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định các trường Đại học không được tuyển sinh hệ cao đẳng sư phạm nữa, mặt khác chỉ tiêu tuyển sinh đại học các ngành sư phạm Bộ giao các ĐHĐP cũng giảm (ở Đại học Quảng Bình chỉ tiêu các ngành sư phạm dao động trong phạm vi từ 10 - 40 sinh viên), do đó thí sinh cũng ngại đăng ký vì thấy chỉ tiêu ít. Mặt khác để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nên những năm học gần đây Bộ Giáo dục & Đào tạo qui định, ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào các ngành sư phạm với điểm tuyển sinh dựa trên kết quả kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông phải đạt từ 18 điểm trở lên hoặc xét học bạ với kết quả xếp loại giỏi năm học lớp 12 thì số lượng đạt điều kiện để vào học các ngành sư phạm giảm sút so với khoảng 5 năm trước đây. Hơn nữa, số học sinh tốt nghiệp phổ thông thường có xu hướng chọn các trường Đại học lớn vừa có nhiều chỉ tiêu vừa có uy tín về chất lượng đào tạo lại đóng ở các thành phố lớn để có cơ hội hòa nhập vào môi trường theo hướng năng động và cởi mở hơn. Hiện nay, học sinh thường ưu tiên chọn các trường đại học lớn làm nguyện vọng 1 do đó nếu bị loại các em mới dùng đến nguyện vọng 2, 3 là các trường đại học địa phương. Như vậy các trường đại học địa phương chỉ tuyển sinh vét số thí sinh dôi dư của các trường đại học lớn và cùng lắm thì chỉ tuyển được những học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn không đủ sức chu cấp để các em nhập học tại các thành phố lớn xa nhà. Mặt khác các trường ĐHĐP chỉ được tuyển sinh ngành sư phạm đối với những thí sinh có hộ khẩu ở địa phương cho nên nguồn tuyển sinh lại càng hạn hẹp. Do số lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành sư phạm thời gian qua ra trường số đông không thể tuyển vào ngành giáo dục (vì biên chế gần như đã bảo hòa) nên họ phải làm việc trái nghề, số khác phải đi đào tạo lại nghề khác, một số sinh viên tốt nghiệp chấp nhận đi xuất khẩu lao động. Một bộ phận những sinh viên sư phạm tốt nghiệp được tuyển vào biên chế hoặc hợp đồng giảng dạy nhưng với mức lương khởi điểm quá thấp không đảm bảo chi phí đi lại, sinh hoạt nên phải bỏ nghề chuyển sang làm việc trái nghề lại (thậm chí lao động phổ thông) nhưng lại có thu nhập cao hơn đi dạy. Đó là những khó khăn - thách thức tác động đến việc tuyển sinh các ngành sư phạm ở các ĐHĐP trong đó có đại học Quảng Bình. Đối với việc tuyển sinh các ngành ngoài sư phạm của các trường ĐHĐP cũng gặp không ít khó khăn thách thức. Vì các ĐHĐP đều mới thành lập trên cơ sở các trường Cao đẳng sư phạm do đó đội ngũ giảng viên cơ hữu và cơ sở vật chất chủ yếu phù hợp với đào tạo các ngành sư phạm. Do đó, khi đào tạo các ngành ngoài sư phạm cơ sở vật chất thiếu và không phù hợp. Về đội ngũ giảng viên các ngành ngoài sư phạm thường thiếu các chuyên gia đầu ngành. Giảng viên các ngành ngoài sư phạm phần lớn mới tuyển dụng còn rất trẻ về tuổi đời và tuổi nghề, kinh nghiệm đào tạo còn hạn chế. Các trường ĐHĐP phần lớn chưa khẳng định được thương hiệu với các ngành mới do đó việc tuyển sinh các ngành ngoài sư phạm càng khó khăn và khó có thể cạnh tranh với các trường đại học do trung ương quản lý. Là một trường ĐHĐP nên Đại học Quảng Bình trước hết làm nhiệm vụ đào tạo đội ngũ người lao động chất lượng cao cho tỉnh Quảng Bình. Trong khi Quảng Bình là tỉnh có thế mạnh về nông- lâm nghiệp và du lịch nhưng việc tuyển sinh các ngành nông nhiệp, lâm nghiệp và du lịch với đối tượng học sinh tốt nghiệp phổ thông ở Quảng Bình và khu vực thì phần đông các em mới tốt nghiệp phổ thông lại không có nhu cầu học các ngành này. Thách thức trong 405
- cạnh tranh để tuyển sinh của ĐHĐP với các trường đại học lớn các điều kiện như chất lượng, đội ngũ, truyền thống, nguồn lực tài chính lại càng lớn hơn. Mặt khác do nhu cầu học đại học của học sinh tốt nghiệp phổ thông những năm gần đây giảm sút vì số đông sinh viên tốt nghiệp đại học trong nước không xin được việc làm nên một số phụ huynh đã hướng dẫn con em mình vừa mới tốt nghiệp trung học phổ thông không đăng ký thi vào đại học trong nước mà đăng ký vào học tại các trường công nhân kỹ thuật, đi xuất khẩu lao động theo hình thức vừa làm vừa học. Một bộ phận cư dân có thu nhập cao tìm các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài cho con em họ đi du học. Đây cũng là những nguyên nhân làm giảm sút nguồn tuyển sinh của các trường đại học trong nước đặc biệt là các trường ĐHĐP. + Khó khăn-thách thức trong việc mở mã ngành đào tạo mới Để mở một mã ngành đào tạo mới thì cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng được rất nhiều điều kiện để xây dựng hồ sơ và phải trải qua nhiều công đoạn phê duyệt: Về đội ngũ, phải đạt tối thiểu số lượng giảng viên cơ hữu đạt trình độ tiến sỹ và thạc sỹ theo quy định; về cơ sở vật chất bao gồm thiết bị, thư viện, giảng đường, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, kí túc xá,… Để xây dựng hồ sơ mở mã ngành mới thì cơ sở đào tạo phải khảo sát nhu cầu xã hội và cơ hội việc làm, phải xây dựng hoàn thiện chương trình đào tạo, đề cương chi tiết các học phần,… công tác khảo sát, qui trình thẩm định, phê duyệt đều cần đến một nguồn tài chính không nhỏ đối với các trường ĐHĐP. Trong các điều kiện mở mã ngành mới, các trường ĐHĐP còn gặp những khó khăn khác mà trước hết là khó khăn về đội ngũ giảng viên cơ hữu. Nếu khảo sát nhu cầu đào tạo và cơ hội việc làm đủ khả năng để mở mã ngành mới thì việc đảm bảo đội ngũ đối với các trường ĐHĐP đang là một thách thức. Bởi vì số lượng tiến sỹ của các trường địa phương chưa nhiều và việc thu hút các tiến sỹ từ các nơi khác về trường lại càng khó khăn khi điều kiện ưu đãi của các trường ĐHĐP không thể so sánh với các trường đại học lớn. Từ khi xây dựng hồ sơ để hoàn thiện và trình các cấp thẩm quyền xét duyệt để cấp phép tuyển sinh thường phải mất vài năm và khi đó tình hình đội ngũ, nhu cầu xã hội đã có những thay đổi nhất định. + Khó khăn - thách thức trong công tác quản trị nhân sự Với bất kỳ trường đại học nào thì trình độ của đội ngũ giảng viên luôn giữ vai trò rất quan trọng; nó quyết định chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học làm nên thương hiệu của nhà trường. Vì các trường đại học địa phương trong giai đoạn đầu, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sỹ vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Khi Luật Giáo dục Đại học ra đời và có hiệu lực, các trường ĐHĐP đều đẩy mạnh việc thu hút tuyển dụng giảng viên có trình độ cao về công tác, mặt khác các trường đều ban hành những quy định và tạo điều kiện cho giảng viên nâng cao trình độ bằng cách đi học sau đại học để lấy bằng thạc sỹ, tiến sỹ. Các ĐHĐP cũng đề nghị với lãnh đạo tỉnh, thành phố nơi trường đóng ban hành chính sách thu hút nhân tài để khuyến khích các cán bộ khoa học có trình độ cao về trường địa phương công tác hoặc hỗ trợ các giảng viên của trường đi đào tạo nâng cao trình độ. Tuy vậy thông thường chính sách thu hút nhân tài của địa phương và chính sách hỗ trợ của các trường ĐHĐP cũng không đủ sức hấp dẫn để các nhà khoa học trình độ cao rời các trường đại học lớn, các viện nghiên cứu của trung ương về địa phương công tác. Vì thế cách thu hút này gần như không mang lại kết quả đáng kể. Do đó các trường ĐHĐP chủ yếu dựa vào con đường khuyến khích các giảng viên của trường mình đi nâng cao trình độ. Con đường này đã giúp các trường cải thiện đáng kể trình độ của giảng viên. Tuy nhiên các trường đại học địa phương mới 406
- gần như phổ cập được trình độ thạc sỹ còn số lượng tiến sỹ chỉ mới đạt khoảng 10 - 20%, số lượng phó giáo sư, giáo sư lại càng ít. Mặt khác trong số các nghiên cứu sinh, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ mặc dù được trường và tỉnh hỗ trợ kinh phí trong thời gian học tập, nghiên cứu nhưng khi tốt nghiệp thì khoảng 30% không về lại cơ sở cử đi đào tạo mà có xu hướng xin chuyển công tác đến các trường đại học lớn, hoặc các cơ quan thuộc các thành phố lớn; mặc dù họ buộc phải bồi hoàn kinh phí được hỗ trợ trong quá trình đi đào tạo nâng cao trình độ. Những tiến sỹ mới bảo vệ xong đã xin chuyển công tác bởi vì họ được cơ sở mới tiếp nhận với chính sách đãi ngộ cao hơn rất nhiều về lương và khoản hỗ trợ thu hút để họ có thừa kinh phí bồi hoàn khoản hỗ trợ của địa phương và trường cũ cấp cho giảng viên mà họ thu hút. Một số tiến sỹ trẻ mới đào tạo từ nước ngoài về trường theo chính sách thu hút nhân tài qua một thời gian công tác họ thấy thu nhập thấp, tuyển sinh khó khăn, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nghiên cứu nhỏ bé phần lớn cũng tìm cách chuyển đến các trường đại học lớn. Như vậy ở các trường ĐHĐP tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ trở lên vốn đã thấp lại còn bị chảy máu chất xám do đó vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn luôn là bài toán hóc búa đối với các nhà quản lý. Đây cũng là khó khăn -thách thức mà hầu hết các trường đại học địa phương đang phải đối mặt. + Khó khăn - thách thức trong lĩnh vực tài chính Vì các trường ĐHĐP đều do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý về nhân sự, đầu tư cơ sở vật chất, cấp ngân sách trả lương cho đội ngũ, cấp học phí đào tạo các ngành sư phạm. Tuy vậy ngân sách của đa số các địa phương đều rất eo hẹp vì phải xin hỗ trợ của trung ương (tính đến năm 2016 cả nước chỉ có 13/63 tỉnh thành tự cân đối được ngân sách). Ở Đại học Quảng Bình, UBND tỉnh cấp ngân sách cho đào tạo các ngành sư phạm nhưng chỉ đáp ứng mức 60% kinh phí theo qui định (đây cũng là tỷ lệ ngân sách trung ương cấp cho Tỉnh), do đó nhà trường phải tự bù đắp 40% chi phí đào tạo trong khi sinh viên sư phạm được miễn học phí, vì thế nhà trường không thể thu học phí để bù đắp thiếu hụt kinh phí đào tạo. Đối với các ngành ngoài sư phạm Nhà trường được phép thu học phí nhưng UBND tỉnh khống chế trần mức thu học phí. Với nhóm ngành: Khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông, lâm, thủy sản: 260.700 dồng/tín chi/ 1 sinh viên (từ năm học 2020 - 2021); Với nhóm ngành: Khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ; thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, du lịch: 311.100 đồng/tín chỉ/ 1 sinh viên. Với mức học phí này việc đảm bảo các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học trong hoàn cảnh hiện nay là rất khó khăn. Đó là chưa tính đến số lượng sinh viên nhập học thường rất ít. Với số lượng sinh viên ít nên kinh phí gần như chỉ đủ dành cho dạy và học, phần dành cho nghiên cứu khoa học và đầu tư cơ sở vật chất gần như không đáng là bao. Mặt khác những năm gần đây do số lượng tuyển sinh giảm sút dẫn tới nguồn thu từ học phí của trường giảm nên để duy trì hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư cơ vật chất và trả lương cho cán bộ giảng viên, nhân viên đã và đang trở thành bài toán khó đối với lãnh đạo nhà trường. + Khó khăn trên phương diện cơ chế, chính sách Mặc dù Luật Giáo dục Đại học sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020, nhưng các văn bản hướng đẫn thi hành vẫn chưa được ban hành đầy đủ thậm chí một số văn bản luật thiếu đồng bộ nên việc triển khai của các trường đại học đều gặp phải những khó khăn nhất định. Theo tiến sỹ Lê Đình Thăng: “Các trường đại học công lập tuy đã được giao tự chủ song trên thực tế hoạt động vẫn đang tuân thủ và là đối tượng điều chỉnh của nhiều Luật như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Xây dựng, Luật Viên chức và các luật về Thuế, tài 407
- chính, các Nghị định của Chính phủ… Vì vậy, các trường đại học công lập cho rằng cơ sở pháp lý về tự chủ đại học là chưa vững chắc, thiếu đồng bộ, hệ thống pháp luật vẫn có những quy định chưa phù hợp với quá trình vận hành nên quá trình tự chủ nhiều lúc vẫn mang tính hình thức. Các văn bản quy phạm liên quan hầu như không có các điều kiện cụ thể hóa được các nội dung tự chủ đại học, đặc biệt là chưa quy định được điều kiện để giao quyền tự chủ (việc giao quyền tự chủ cho các trường chỉ dựa vào đề án của trường, không có quy định chung về tiêu chí tự chủ)”[5]. Chúng tôi thấy rằng qui định về kiểm định chất lượng các trường đại học là cần thiết, hơn nữa chu kỳ cứ 5 năm kiểm định một lần cũng là một gánh nặng đối với các trường ĐHĐP. Bởi vì chi phí cho một đợt kiểm định chất lượng bằng đánh giá ngoài sẽ tiêu tốn của trường trên 2 tỷ đồng trong hoàn cảnh tuyển sinh khó khăn. 2.3.2. Giải pháp khắc phục khó khăn - thách thức và lộ trình tiến tới tự chủ của các trường đại học địa phương + Nhóm giải pháp giải quyết khóa khăn - thách thức về tuyển sinh Giải quyết khó khăn thách thức này các trường đại học phải cùng lúc tiến hành một nhóm giải pháp cụ thể sau đây: - Trường thành lập 1 bộ phận chuyên trách, có nhiệm vụ truyền thông tuyển sinh quanh năm. Bộ phận này được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Giám hiệu. Bộ phận truyền thông tuyển sinh có nhiệm vụ xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch truyền thông tuyển sinh tổng thể theo từng năm và kế hoạch truyền thông cụ thể từng tháng. Ngoài thành phần cứng thì bộ phận truyền thông tuyển sinh phải có sự tham gia của cán bộ làm nhiệm truyền thông tuyển sinh của phòng Đào tạo, phòng Công tác sinh viên, phòng Khoa học đối ngoại và cán bộ được phân công làm nhiệm vụ truyền thông tuyển sinh của các khoa (bộ môn) có ngành đào tạo có chỉ tiêu tuyển sinh. - Tổ chức cho toàn thể cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên của nhà trường tham gia truyền thông tuyển sinh. Trường có các biện pháp để mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên coi truyền thông tuyển sinh là nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân, để họ tích cực, tự giác tham gia công tác truyền thông bằng mọi cách mà họ có thể. + Giải pháp giải quyết khóa khăn trong việc mở mã ngành đào tạo mới Trường Đại học được chủ động xây dựng hồ sơ mở mã ngành đào tạo mới và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc mở mã ngành mới này khi trường đại học đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đề ra. Bộ Giáo dục & Đào tạo sẽ tiến hành công tác kiểm tra khi các trường bắt đầu triển khai kế hoạch đào tạọ ngành học mới vừa tuyển sinh khóa đầu tiên. Đây là cách rút ngắn thời gian làm thủ tục mở mã ngành và đơn giản hóa quy trình xét duyệt, cấp phép. + Nhóm giải pháp giải quyết khóa khăn trong công tác quản trị nhân sự Để có độ ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao đảm bảo các điều kiện về tuyển sinh, mở mã ngành đào tạo mới, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, các trường ĐHĐP phải xây dựng được kế khoạch có tính chiến lược và kế hoạch cụ thể của từng giai đoạn. Các trường ĐHĐP đều phải chịu sự quản lý về nhân sự của Đảng và chính quyền địa phương do đó cấp ủy Đảng và lãnh đạo chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành phố) hỗ trợ trường bằng chính sách thu hút nhân tài đủ hấp dẫn các giảng viên 408
- trẻ là thạc sỹ, tiến sỹ tốt nghiệp xuất sắc ở trong nước và nước ngoài xung phong về trường công tác. Những ngành nghề đào tạo thuộc diện cần thiết đối với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì chính quyền địa phương cần có cơ chế chính sách riêng để thu hút các cán bộ giảng viên có trình độ tiến sỹ về trường ĐHĐP làm cán bộ giảng dạy. + Nhóm giải pháp giải quyết khó khăn trong công tác tài chính Hiện nay các trường đại học công lập được trao quyền tự chủ về tài chính ở một mức độ nhất định (trường ĐHĐP cũng được phép lập kế hoạch tài chính và tự quyết định việc thu chi, được ban hành qui chế chi tiêu nội bộ, quy định mức học phí đào tạo tùy theo loại hình) tuy vậy UBND Tỉnh (Thành phố) vẫn khống chế trần thu học phí của trường ĐHĐP rất thấp. Chúng tôi cho rằng để nhà trường tự chủ về tài chính thì Tỉnh phải xóa bỏ quy định trên và cho phép trường đại học tự xác định mức thu học phí đảm bảo các hoạt động học thuật, bổ sung sửa chữa thiết bị dạy học và có phần hỗ trợ thu nhập tăng thêm cho cán bộ giảng viên. Mặc dù trao quyền tự chủ gần như hoàn toàn cho các trường đại học nhưng các tỉnh (thành phố) có trường ĐHĐP và Bộ Giáo dục & Đào tạo vẫn cần hỗ trợ kinh phí cho nhà trường khi xét thấy nguồn thu của nhà trường không đáp ứng đủ nhu cầu chi cho các hoạt động (nhất là kinh phí bổ sung hoặc cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất và kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học của nhà trường). + Nhóm giải pháp giải quyết khó khăn về cơ chế, chính sách Trong thời gian tới chúng tôi cho rằng cần thống nhất một đầu mới quản lý lĩnh vực chuyên môn của trường đại học đó là Bộ Giáo dục & Đào tạo nhưng chủ yếu Bộ giữ vai trò cơ quan giám sát. Những lĩnh vực còn lại thì trao quyền tự chủ hoàn toàn cho trường đại học. Riêng các trường ĐHĐP, thì lĩnh vực nhân sự do địa phương trực tiếp giám sát. Mặt khác, nhà nước cần xóa bỏ những nội dung chồng chéo trong các văn bản luật và dưới luật. Trên lĩnh vực khoa học & công nghệ chính quyền địa phương nên có cơ chế dành ưu tiên cho trường ĐHĐP trong việc phê duyệt, phân bổ hoặc đặt hàng các đề tài khoa học, dự án nghiên cứu chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. + Lộ trình tự chủ dành cho các trường ĐHĐP Căn cứ thực tế của các trường ĐHDP, Bộ Giáo dục & Đào tạo nên có lộ trình tự chủ dành riêng cho các trường ĐHĐP. Chúng tôi xin mạo muội phác thảo một lộ trình tự chủ cho các trường ĐHĐP như sau: Về lộ trình tổng thể: các trường ĐHĐP triển khai tự chủ từng bước và tiến tới tự chủ toàn diện trong 10 năm (2021 - 2030), chia làm 2 giai đoạn. Trong 5 năm đầu (2021 - 2025) các trường triển khai việc tự chủ về học thuật, nhân sự, tuyển sinh, quản lý sinh viên và trong 5 năm cuối (2026 - 2030) tự chủ về tài chính. Về lộ trình cụ thể: Trong giai đoạn 1 (2021 - 2025) thực hiện tự chủ về học thuật, nhân sự, tuyển sinh, quản lý sinh viên với các bước 409
- Bước 1: xây dựng các chương trình đào tạo đảm bảo chất lượng được đánh giá kiểm định chất lượng một cách khách quan. Bước 2: Hình thành các quy chế, cơ chế phù hợp với việc tự chủ của trường theo từng đại học địa phương, (về mở ngành đào tạo, xác định chỉ tiêu tuyển sinh, về quản lý người học…) Bước 3: Nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý, đội ngũ chuyên môn hoàn chỉnh bộ máy quản lý của nhà trường. Trong giai đoạn 2 (2026 - 2030) thực hiện tự chủ về tài chính: Bước 1: Nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách để trao quyền tự chủ về tài chính cho ĐHĐP, các trường ĐHĐP hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ khoa học. Nhà trường được phép tự xác định mức học phí của tất cả các ngành đàò tạo của trường dựa trên kinh phí đào tạo cụ thể của từng ngành học ở mức đảm bảo chất lượng (bỏ trần học phí mà địa phương quy định bắt buộc nhà trường phải áp dụng). Bước 2: Quy định cụ thể và công khai những khoản thu sự nghiệp ngoài học phí theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và tích lũy hợp lý. Trường tự quyết định thu nhập tăng thêm của người lao động theo quy chế chi tiêu nội bộ, ngoài tiền lương ngạch, bậc theo quy định của Nhà nước. Bước 3: Trường ĐHĐP dựa trên thế mạnh nguồn lực về đội ngũ, cơ sở vật chất để lựa chọn và mở một số ngành đào tạo chất lượng cao từ đó đưa ra mức học phí tương xứng để đảm bảo chất lượng đào tạo. 3. KẾT LUẬN Tự chủ đại học ở các trường ĐHĐP Việt Nam hiện vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Nhóm tác giã đã mạnh dạn nêu lên được thực trạng khó khăn, thách thức và đề xuất nhóm giải pháp trên lộ trình tiến tới tự chủ Đại học địa phương. Với khuôn khổ một bài viết tham gia hội thảo nên có nhiều vấn đề chưa được nhóm tác giả nghiên cứu thật thấu đáo. Với thời gian có hạn chắc rằng bài viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Tuy nhiên tự chủ đại dọc ở trường ĐHĐP là chủ đề mà nhóm tác giả mong muốn được trao đổi và nhận được sự góp ý của các nhà khoa học ở Hội thảo lần này./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hoàng Thị Xuân Hoa (2020), Tự chủ đại học: Xu thế của phát triển, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, [2]. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luât Giáo dục Đại học, Luật số: 34/2018/QH14, Hà nội, ngày 19 tháng 11 năm 2018. [3]. Nguyễn Thu Hương và cộng sự (2019), “Tự chủ tài chính đại học ở các nước trong khu vực và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí tài chính, bản điện từ ngày 17/8/2019, [4]. Thục Anh (2017), “Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập”, báo thi đua khen thưởng, bản điện từ ngày 20/10/2017. 410
- [5]. Trung tâm Truyền thông Giáo dục - Bộ GD& ĐT, “Hội nghị Tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập” Bản tin điện tử Bộ Giáo dục & đào tạo, ngày 20/10/2017. [6]. Thùy Linh (2020), “Những con số biết nói về kết quả thực hiện tự chủ của Đại học Tôn Đức Thắng”, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ngày 29/8/2020, [7]. Hồng Lộc (2019), “Nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập”, Báo Kiểm toán điện tử, ngày 19/3/2019. 411
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bàn thêm về tự chủ đại học
3 p | 63 | 8
-
Ảnh hưởng của tự chủ đại học đến đào tạo và nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu trường hợp tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam
11 p | 93 | 7
-
Một số vấn đề đặt ra về tự chủ đại học ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
7 p | 38 | 7
-
Một số giải pháp thúc đẩy tự chủ đại học tại các Trường Đại học Kinh tế và Quản lý
12 p | 12 | 6
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam - xu thế tất yếu
9 p | 29 | 5
-
Xây dựng đội ngũ giảng viên - Yếu tố quan trọng của tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
8 p | 13 | 4
-
Tiêu chí đánh giá quyền tự chủ đại học: Một nghiên cứu đề xuất dựa trên bảng điểm của hiệp hội các trường đại học châu Âu và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Giáo dục đại học năm 2018
4 p | 11 | 4
-
Thực trạng tự chủ đại học tại Việt Nam hiện nay và một số giải pháp
8 p | 14 | 3
-
Bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục với việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam
19 p | 21 | 3
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
11 p | 23 | 3
-
Nghiên cứu về tự chủ đại học ở Việt Nam: Tổng quan từ các công bố quốc tế và trong nước
8 p | 7 | 3
-
Hoàn thiện cơ sở pháp lý và tổ chức thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam
13 p | 4 | 2
-
Tạo động lực cho đội ngũ giảng viên trong bối cảnh tự chủ đại học ở Việt Nam
6 p | 4 | 2
-
Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
6 p | 9 | 1
-
Phát huy vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
8 p | 15 | 1
-
Tự chủ đại học ở Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề đặt ra
8 p | 10 | 1
-
Tự chủ đại học trên thế giới và bài học cho Việt Nam
3 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn