intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng “Dân vận” của Hồ Chí Minh - “cẩm nang” của công tác dân vận thời kỳ mới

Chia sẻ: Trần Thị Em | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

243
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh (lần đầu tiên đăng trên tờ Sự thật, ngày 15 -10-1949), càng đọc kỹ tác phẩm này càng thấm thía tầm tư tưởng của Người về công tác quan trọng này trước yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng “Dân vận” của Hồ Chí Minh - “cẩm nang” của công tác dân vận thời kỳ mới

  1. Tư tưởng “Dân vận” của Hồ Chí Minh - “cẩm nang” của công tác dân vận thời kỳ mới Tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh (lần đầu tiên đăng trên tờ Sự thật, ngày 15 -10-1949), càng đọc kỹ tác phẩm này càng thấm thía tầm tư tưởng của Người về công tác quan trọng này trước yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay của sự nghiệp đổi mới đất nước. Giữa lúc công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta ở vào thời điểm vô cùng cam go, quyết liệt, tác phẩm “Dân vận” ra đời. Đó thực sự là một “cẩm nang”, kịp thời chỉ dẫn một cách đầy đủ và sâu sắc cả về mục đích, đối tượng; cả về nhiệm vụ, phương pháp, tính hiệu quả... của công tác dân vận đối với cán bộ, đảng viên; tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể lúc bấy giờ. Trước hết, “dân vận”, hiểu theo nghĩa giản dị nhất - chính là công tác tuyên truyền và vận động nhân dân.
  2. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động, công tác giải phóng mặt bằng tại TP Cao Bằng được triển khai khá hiệu quả Về hình thức: Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề (chỉ vỏn vẹn 2 từ), đến dung lượng (chỉ có 573 từ); được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng; văn phong súc tích, có tính khái quát cao; cùng một kết cấu mạch lạc, chặt chẽ, sáng rõ - là phong cách hành văn vốn có của Hồ Chí Minh nên rất dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo. Về nội dung: Giản dị, ngắn gọn mà không hề sơ lược. Tác phẩm “Dân vận”
  3. đã gói ghém một cách đầy đủ và sâu sắc những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác này. Về tầm quan trọng của công tác dân vận: Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Từ đó, chúng ta hiểu: Dân vận là cái gốc, là điểm xuất phát của mọi phong trào cách mạng của quần chúng và là sự khởi đầu của mọi thành công. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, trước hết phải biết tuyên truyền và vận động nhân dân - chính là làm tốt công tác dân vận. Về mục đích của công tác dân vận: Cái đích chung và cao nhất của sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương trước sau vẫn là “từ dân, vì dân, cho dân”. Để đạt được điều đó, phải xây dựng cho được một nhà nước dân chủ - nhà nước mà trong đó, người dân được thực sự làm chủ cuộc đời mình: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “... ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; đồng nghĩa với mọi người dân đều được sống trong một xã hội mà đời sống vật chất lẫn văn hóa - tinh thần không ngừng được cải thiện và nâng cao. Theo đó, tuyên truyền, vận động toàn dân để xây dựng một nền dân chủ thực sự là cái đích cao nhất mà công tác dân vận hướng tới. Về bản chất của công tác dân vận: Theo Hồ Chí Minh, thực chất hay bản chất của công tác dân vận, chính là nhằm “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho...”. Nghĩa là phải tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng. Về lực lượng làm công tác dân vận: Chỉ rõ ai là người làm công tác dân vận, Hồ Chí Minh viết: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v..) đều phải phụ trách dân vận”. Như vậy, lực lượng làm công tác dân vận - theo Hồ Chí Minh - không chỉ là những người chuyên trách công tác này, mà rất đông đảo,
  4. với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Đó chính là sức mạnh tập thể trong các phong trào cách mạng nói chung, trên các mặt trận và lĩnh vực cụ thể nói riêng, trong đó có lĩnh vực dân vận. Về cách thức, phương pháp làm công tác dân vận: Trong nội dung này, Hồ Chí Minh tập trung chỉ rõ những phương thức, cách thức, cũng đồng thời là các yêu cầu cụ thể của công tác dân vận. Đó là: “Phải óc nghĩ, mắt trông, tai
  5. nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. - Óc nghĩ: Điều này được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy Người đặc biệt đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự động não của người làm công tác dân vận. Hoạt động dân vận trước hết chính là tham gia tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng. Để việc tổ chức đạt hiệu quả cao, rõ ràng bên cạnh am hiểu thực tế phải có sự hiểu biết về lý luận. Với người cán bộ dân vận, đó là lý luận của chủ nghĩa Mác -Lê-nin, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm vững lý luận và dựa trên thực tiễn để suy nghĩ ra những phương pháp, cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng; tức là óc phải luôn luôn suy nghĩ để không chỉ biết đúng, sai, mà còn biết cách làm và làm như thế nào cho đúng và đạt hiệu quả. - Mắt trông: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Nhưng không phải “nhìn” chỉ để mà nhìn. Mà phải có sự nhạy cảm, tinh tế trong việc quan sát, từ đó kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng, sai, nhận rõ bản chất và hiện tượng của từng sự việc, từng vấn đề để làm đúng và tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước những đề xuất, kiến nghị; từ đó có các giải pháp đúng đắn để đưa phong trào của quần chúng đi đúng hướng. Điều này cũng gián tiếp cho thấy, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận, phải thường xuyên sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể “thấy” mọi sự việc, vấn đề. Theo đó, muốn vận động quần chúng một cách thiết thực, muốn làm tốt vai trò tham mưu phải “mục sở thị” được các sự việc và vấn đề liên quan đến công tác dân vận. - Tai nghe: Đây là một phương pháp khoa học của công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, cùng với “óc nghĩ”, “mắt trông”, người làm công tác dân vận còn phải đồng thời nắm bắt kịp thời các thông tin từ quần chúng. Đòi hỏi phải biết nghe dân nói, từ đó mà hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân; loại trừ những thông tin thiếu chân thực, chính xác. Nghe dân nói, cũng là để biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức thế nào, đã làm như thế nào và làm được
  6. đến đâu... làm cơ sở để báo cáo với cấp trên; còn bản thân mình cũng thấy được những gì cần phải bổ sung, điều chỉnh khi thực thi công tác dân vận. Tuy nhiên, để nghe đúng và chính xác, phải có thái độ khách quan và tinh thần cầu thị khi tiếp xúc với nhân dân thì nhân dân mới tin tưởng và sẵn sàng nói ra những suy nghĩ, nguyện vọng của mình cũng như phản ánh đúng thực trạng của cơ sở. - Chân đi: Chỉ có đi mới thấy, mới nghe, mới biết, và mới truyền đạt được những điều cần tuyên truyền, vận động với dân. Đi để gần dân, sát dân, chính là giúp người làm dân vận không xa rời và lạc hậu với thực tiễn sinh động của cơ sở. “Chân đi” cũng là thể hiện sự xông xáo, nhiệt tình của người cán bộ, đảng viên dân vận đối với các địa bàn làm “dân vận”. Và càng đi, người làm công tác này càng có dịp nhìn xa trông rộng, nghe nhiều, cập nhật được những việc, những vấn đề mới mẻ của cuộc sống; thôi thúc họ nghĩ nhiều, từ đó mà làm nhiều, đi kịp và đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công tác dân vận. - Miệng nói: Không chỉ nghe dân nói, mà cán bộ dân vận phải biết nói cho dân nghe. Đó là nói để dân biết, dân hiểu rõ các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước; nói để dân hiểu được quyền lợi và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội... của mình. Để dân có thể tiếp thu và hiểu được mà thực hiện, phải tuyên truyền bằng miệng và phải có cách nói để có sức truyền cảm và thuyết phục, từ đó mà dân hiểu, dân tin. - Tay làm: Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để dân thấy, dân tin, dân học làm theo. Đó chính là gắn “ngôn” với “hành” (lời nói đi đôi với hành động). Đây là một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan trọng đối với cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt bài viết, bài nói phê phán những cán bộ, đảng viên “nói không đi đôi với làm”, “nói hay mà làm dở” hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ: “Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì nói vô ích”. Người cũng từng nhấn mạnh rằng, nói về đạo đức đi đôi với thực hành bằng đạo đức, coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu
  7. quả của công việc làm thước đo đạo đức: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình...”. Người cũng từng cho rằng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội và lòng tin của dân đối với Đảng không phải lý tưởng cao xa mà trước hết, cụ thể và trực tiếp nhất là ở tấm gương của những người cộng sản đang cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với dân, đặc biệt là những người có chức có quyền. “Dân vận không chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước hết là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”. Cuối cùng, để phát huy hiệu quả của công tác dân vận, Hồ Chí Minh chỉ ra những kinh nghiệm: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra sức thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm tra lại công việc rút ra kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”. Điều này thật thấm thía! Vì cũng theo Hồ Chí Minh: “Mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm, thì làm mới chóng”. Đó chính là khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà ngày nay chúng ta thường đề cập. Như vậy, từ “đi” đến “nhìn”, từ “nghe” đến “nghĩ” và từ “nói” đến “làm” là những công việc liên hoàn của người cán bộ, đảng viên và các tổ chức làm công tác dân vận. Và đó cũng là phẩm chất và hành động tự nhiên của người làm công tác này. Đây cũng chính là tư tưởng nhất quán từ trong sâu thẳm của sự suy nghĩ đến hành động thường nhật suốt cả cuộc đời của Hồ Chủ tịch; đã làm nên một nhân cách lớn và vô cùng vĩ đại - nhân cách Hồ Chí Minh.
  8. Công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới Công tác dân vận (CTDV) là một trong những công tác cơ bản của Đảng; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. CTDV trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một nội dung cơ bản của công tác đảng, công tác chính trị được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chỉ huy các đơn vị hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đó vừa là trách nhiệm chính trị, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân. Tiến hành CTDV là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng là lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh.
  9. CTDV của quân đội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước. Tiến hành vận động mọi người dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, địa bàn cư trú. CTDV của quân đội có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta. Tầm quan trọng đó, trước hết được được thể hiện bởi sức mạnh của quần chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[1]. Đối với quân đội, Người nhấn mạnh: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”[2]. Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11-6-1948, Người chỉ rõ: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ, tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”… “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: hạnh phúc cho dân”[3]. Quán triệt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt nam, Đảng ta khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ” (Nghị quyết Trung ương 7, khóa XI). Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân, có vai trò quan trọng trong hình thành đường lối đổi mới của Đảng, dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ta quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công. Thực hiện tốt CTDV, củng cố mối quan hệ máu thịt quân - dân, phát huy bản chất “ Bộ Đội Cụ Hồ”, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện tốt chức năng là đội quân công tác trong tình hình mới; Thực hiện Nghị quyết 152-NQ/ĐUQSTW, ngày 1-8-2003 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Tiếp tục đổi mới và tăng
  10. cường CTDV của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới” CTDV của quân đội đã đi vào chiều sâu, hoạt động đúng định hướng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ, đi sâu vào mọi tầng lớp nhân dân, vận dụng cụ thể sát với từng đối tượng, địa bàn và điều kiện của từng đơn vị. Các đơn vị trong lực lượng vũ trang đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể địa phương tiến hành công tác tuyên truyền vận động nhân dân với nhiều nội dung, hình thức phong phú, hiệu quả. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, trước hết tập trung xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh về chính trị và quốc phòng - an ninh, góp phần hiệu quả trong tham gia phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giúp đỡ nhân dân lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống, làm tốt vai trò nòng cốt trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn, nhất là trên địa bàn có vị trí chiến lược, nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... Cụ thể, bộ đội Biên phòng, các Binh đoàn, Tập đoàn Viễn thông Quân đội và các Đoàn kinh tế quốc phòng đã tham gia hàng trăm chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Quân đội tham gia xây dựng nông thôn mới”. Nổi bật là: Chương trình xóa 1.000 nhà tạm cho bà con dân tộc ở Quảng Ninh, Ninh Bình của Quân khu 3; Quân khu 5, Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đoàn 2 nhận đỡ đầu các vùng sâu, vùng xa; Quân khu 7, xây dựng làng mới kiểu mẫu cho đồng bào dân tộc vùng căn cứ Tà Thiết và địa bàn đặc biệt khó khăn…Chương trình kết hợp quân dân y đã tham gia củng cố gần 1.500 trạm y tế ở vùng sâu,vùng xa, xây dựng mô hình trung tâm y tế kết hợp quân dân y hoạt động thiết thực hiệu quả. Chương trình 1 tỷ đồng xây dựng mái ấm công đoàn của Công đoàn Quốc phòng; Chương trình 10.000 địa chỉ tình nghĩa và đỡ đầu 1.000 tổ chức Đội Thiếu niên tiền phong của thanh niên Quân đội… Thực sự có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thu hút
  11. được sự quan tâm phối hợp chỉ đạo của cấp ủy và sự tham gia hưởng ứng mạnh mẽ, sâu rộng của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Tuy nhiên, CTDV của quân đội trong thời gian qua còn có không ít những hạn chế: Một số cấp ủy, chỉ huy, cơ quan đơn vị trong toàn quân chưa quán triệt sâu sắc, đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị và của Quân ủy trung ương về CTDV. Sự phối hợp giữa CTDV với các mặt công tác khác, giữa các lực lượng, ban ngành trong và ngoài quân đội ở một số nơi chưa được thường xuyên, chặt chẽ và đồng bộ. Khả năng tuyên truyền vận động, giáo dục, thuyết phụ, tuyên truyền, giải thích để huy động lực lượng toàn dân có nơi, có lúc chưa tốt nên việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong CTDV còn hạn chế nhất là đối với đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Kiến thức, năng lực, tác phong công tác của lực lượng làm CTDV có lúc, có nơi chưa sáng tạo, đôi khi còn rập khuân, máy móc, đặc biệt là trình độ hiểu biết về phong tục tập quán, tiếng dân tộc của bộ đội còn hạn chế nên khả năng thuyết phục để dân hiểu, dân tin, dân làm theo có lúc chưa đạt được kết quả mong muốn. Chưa tạo được sự chuyển biến cơ bản vững chắc trong chấp hành kỷ luật quân dân, cá biệt còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với quân đội. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ngờ, các thế lực thù không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”. Các thế lực phản động quốc tế lợi dụng sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tộc người để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Do vậy, CTDV cũng cần phải không ngừng đổi mới để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 3-6-2013, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 25 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
  12. CTDV, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, quân đội với nhân dân. Để CTDV phát huy cao nhất hiệu quả, củng cố bền chặt mối quan hệ quân - dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đập tan mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc chống phá của kẻ thù thì các cấp ủy, chỉ huy các cơ quan đơn vị trong toàn quân cần quán triệt sâu sắc, đầy đủ vị trí, vai trò của công dân vận cũng như các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị và của Quân ủy Trung ương về CTDV trong tình hình mới, tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sỹ, trước hết là cán bộ chủ trì các đơn vị trong toàn quân về tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường và đổi mới CTDV phù hợp đặc điểm tình hình của đất nước và sự phát triển của quân đội. Chú trọng vào đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động nhân dân nhất là đồng bào dân tộc, đồng bào có đạo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế các vùng miền, làm cho nhân dân nhận thức đúng và chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân - dân. Phương pháp dân vận là phải “khéo”, phải thể hiện được tính khoa học, tính đảng, vừa phải thể hiện nghệ thuật tác động vào con người. Do vậy, phải có cách tiếp cận và làm việc phù hợp, phải biết tin và dựa vào dân, biết khuyến khích, động viên phát huy ưu điểm của quần chúng nhân dân. Tác phong CTDV đòi hỏi phải gần dân, sát dân, thực hiện phong cách dân vận của Bác Hồ, đó là “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay lam”[4]. Thực hiện khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng và Nhà nước thường xuyên đề cập. Có như vậy, CTDV mới thuyết phục được lòng dân, làm cho nhân dân hiểu, dân tin và chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Làm cho quần chúng nhân
  13. dân có sức đề kháng miễn dịch với sự dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, kích động, tuyên truyền, mị dân gây mất đoàn kết quân - dân. Gắn CTDVvới thực hiện 3 chức năng của Quân đội: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, gắn thực hiện tốt dân chủ trong các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân. Tiếp tục đầu tư hợp lý về lực lượng và điều kiện cơ sở vật chất cho CTDV. Tập trung nâng cao trình độ và khả năng tiến hành CTDV của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì… Từ thực tế, cần quán triệt sâu sắc hơn vị trí, vai trò CTDV trong tình hình mới, phát huy những kết quả đã đạt được làm động lực thúc đẩy sự phát triển quân đội ta ngày càng hùng mạnh, thực sự là lực lượng chính trị trung thành, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng Cộng sản Việt Nam, là quân đội nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2