Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Phần Chính trị xã hội): Phần 2
lượt xem 8
download
Phần 2 của giáo trình "Tư tưởng Hồ Chí Minh (Phần Chính trị xã hội)" tiếp tục trình bày những nội dung về: tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Phần Chính trị xã hội): Phần 2
- 113 Chương 7 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một trong những cống hiến to lớn, đặc sắc của Người đối với cách mạng Việt Nam. Hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề lý luận, thực tiễn cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược bảo đảm cho sự thành công của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới. 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc 1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng Đây là cơ sở lý luận chủ yếu quyết định hình thành tư tưởng khoa học và cách mạng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Khái quát lịch sử nhân loại, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ rõ quan niệm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ, trong đó khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử và nhiệm vụ cách mạng càng phát triển thì vai trò đó ngày càng tăng lên. Phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ rõ cách mạng là ngày hội của quần chúng bị áp bức bóc lột và khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản. Song, vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi họ được tổ chức, tập hợp lại thành một khối thống nhất mà nền tảng là liên minh công - nông - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã bổ sung vào khẩu hiệu của C.Mác “Vô sản thế giới liên hợp lại” thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần sâu sắc những quan điểm trên của các nhà kinh điển Mác - Lênin lấy đó làm cơ sở lý luận để đánh giá đúng những yếu tố
- 114 tích cực và hạn chế trong tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng ở trong nước và thế giới, qua đó, hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. 1.2. Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam là cơ sở quan trọng để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống đó qua nghiên cứu kho tàng văn hóa dân gian, qua tìm hiểu tư tưởng đoàn kết tập hợp lực lượng của các vị anh hùng dân tộc, của các nhà cách mạng yêu nước đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Người khẳng định truyền thống yêu nước, đoàn kết là “thuần phong mỹ tục” của dân tộc, cần phải kế thừa và phát huy mãi mãi. 1.3. Tư tưởng về đoàn kết trong nền văn hóa của các dân tộc phương Đông, phương Tây Không chỉ tiếp thu, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đoàn kết và truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh còn tiếp thu tư tưởng về đoàn kết trong nền văn hóa của các dân tộc phương Đông, phương Tây, nhất là những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng Phật giáo, tư tưởng về đoàn kết mọi dòng họ trong cả nước và đoàn kết quốc tế “liên Nga, hiệp Cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Dật Tiên đã được Hồ Chí Minh vận dụng một cách phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Tư tưởng về vai trò sức mạnh của nhân dân và của đoàn kết nhân dân trong nền văn hoá Pháp, Anh, đặc biệt là tư tưởng của Môngteckiơ, Vônte đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển rất sâu sắc. 1.4. Kinh nghiệm thực tiễn các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới Kinh nghiệm về đoàn kết lực lượng cách mạng được rút ra từ các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng ở Việt Nam và trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã được Hồ Chí Minh tổng kết, trở thành cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
- 115 Nghiên cứu thực tế phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Ấn Độ và ở Pháp, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp lực lượng tiến bộ để tiến hành cách mạng. Đến với Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã nhận thấy bài học thành công của cuộc cách mạng này từ việc huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để giành, giữ chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới. Nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, Người rút ra bài học lịch sử sâu sắc là: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nước ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” 1. Từ thực tiễn này, Người đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết dân tộc và chính Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc. 2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nội dung vô cùng phong phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực, bao gồm những nội dung cơ bản sau: 2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược lâu dài, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết dân tộc không phải là nhiệm vụ mang tính nhất thời hay là một giải pháp tình thế. Trong “bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc”, ngày 10.1.1955, Hồ Chí Minh đã khẳng định “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”2. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Hồ Chí Minh nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Người sớm nhận thấy là “Quân thù không sợ cái gì, chỉ sợ nhân dân Việt Nam đoàn kết” 3. Đối 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.217. 2 Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.438. 3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.462.
- 116 với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là sức mạnh chiến thắng kẻ thù xâm lược giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc mà còn là sức mạnh trong xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm khái quát có tính chân lý thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa đoàn kết với sự thành công của cách mạng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công”1. 2.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam Hồ Chí Minh không chỉ xác định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Theo đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi lẽ, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. 2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân Việt Nam Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là đoàn kết các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam mà được hiểu theo nghĩa rộng, ở cấp độ phổ quát là đoàn kết toàn dân. Dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Người dùng khái niệm Dân để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “Con Rồng, cháu Tiên”, “con cháu Hồng Bàng”, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện. Hồ 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.438.
- 117 Chí Minh đã mở rộng “biên độ” khái niệm toàn dân đến tất cả những ai vẫn còn “tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống lại chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”1. Ngay từ tháng 3-1944, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay ở trong nước không cần nêu khẩu hiệu “Đoàn kết các đảng phái” vì điều này đã trở thành hiện thực, mà cần phải mở rộng khối đoàn kết đến toàn dân...để đạt tới mục đích... đặng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc”2. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ để đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc, phát triển “thuần phong mỹ tục” đó; phải có lòng khoan dung độ lượng và niềm tin vào con người. Năm 1946, trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”3. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xóa bỏ mọi thành kiến, phải thật thà đoàn kết, đoàn kết thực sự, giúp nhau cùng tiến bộ để thực hiện mục đích chung là “cứu nước, cứu dân tộc”, xây dựng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân. Như thế, Hồ Chí Minh đã tìm thấy “mẫu số chung” của toàn dân tộc, thay vì khoét sâu cách biệt, đặt tiến trình đi lên của lịch sử trên sự quy tụ lợi ích chung thay vì loại trừ những lợi ích khác nhau. Điều mà Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở là để đoàn kết toàn dân, đòi hỏi phải làm tốt công tác dân vận. Có như vậy mới vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân. Đồng thời, Người chỉ rõ trong đoàn kết toàn dân phải thể hiện đúng lập trường giai cấp công nhân, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng 1 Sđd, tập 7, tr.438. 2 Sđd, tập 3, tr.465. 3 Sđd, tập 4, tr.246, 247.
- 118 do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chỉ có như vậy mới củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân bền vững mà không có thế lực nào có thể làm suy yếu được. 2.4. Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc Theo Hồ Chí Minh, để đạt được mục đích của đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Về bản chất, Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, là nơi quy tụ mọi tổ chức, mọi cá nhân yêu nước không chỉ ở trong nước mà cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, phấn đấu góp sức vì mục tiêu chung là độc lập thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất được thể hiện rõ ở việc Người đề nghị thành lập “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh, vào tháng 5-1941 tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám và đã được Hội nghị thông qua. Sau Mặt trận Việt Minh, sự ra đời của các Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay chính là sự tiếp tục thể hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết, đại đoàn kết trong vấn đề tổ chức. Hồ Chí Minh không những chỉ rõ việc xây dựng và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn đưa ra những nguyên tắc cơ bản để xây dựng mở rộng Mặt trận, đó là: + Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, lực lượng, thành phần tham gia Mặt trận rất phong phú, đa dạng, rộng rãi nhưng phải xác định rõ lực lượng nòng cốt, nền tảng. Lực lượng đó là liên minh công - nông - lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trên cơ sở khối liên minh này mà mở rộng Mặt trận, làm cho
- 119 Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc. Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản là một thành viên và là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình mà phải được nhân dân thừa nhận qua năng lực thực tế và uy tín của Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh trong lãnh đạo Mặt trận. Đặc biệt, Đảng phải thật sự tiêu biểu, mẫu mực cho sự đoàn kết, làm cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận. + Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, mọi việc của Mặt trận đều do bàn bạc thống nhất quyết định một cách thật sự dân chủ. Khi có những lợi ích riêng không phù hợp, Mặt trận theo phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung là đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và lấy lợi ích căn bản của các tầng lớp nhân dân để hạn chế cái khác biệt thông qua bàn bạc để đi đến nhất trí. + Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết trong Mặt trận không phải chỉ trong thời gian nhất định mà phải lâu dài và chặt chẽ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở mặt trận phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối vững chắc, thống nhất trong sự đa dạng, phong phú rộng rãi của các lực lượng, thành phần. Hồ Chí Minh đòi hỏi một sự đoàn kết thực sự, có hiệu quả, không phải đoàn kết ngoài miệng, mà đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần. Người giải thích: đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí, vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, không có đấu tranh trong nội bộ Mặt trận.
- 120 2.5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với các lực lượng trong phong trào cách mạng thế giới. Theo Người “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”1. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đấu tranh không mệt mỏi để củng cố, tăng cường đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đối với Hồ Chí Minh, các dân tộc trên thế giới có màu da vàng đen trắng đỏ đều là anh em. Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh rất phấn khởi đọc câu thơ: “Quan san muôn dặm một nhà, Bốn phương vô sản đều là anh em” 2. Hơn nữa, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đoàn kết trong nội bộ dân tộc Việt Nam mà phải đi đến đoàn kết quốc tế, coi đại đoàn kết dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Nếu như đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng. 3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân hiện nay 3.1. Giáo dục nâng cao nhận thức về tính cấp thiết xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, hiện nay, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới”3. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ 1 Sđd, tập 2, tr.301. 2 Sđd, tập 10, tr.195. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCHTW, khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003, tr.10.
- 121 phận dân chưa vững chắc, việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Trong khi đó, những tác động tiêu cực từ mặt trái của phát triển kinh tế - xã hội và sự chống phá của kẻ thù đang có ảnh hưởng không nhỏ tới xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Vấn đề đặt ra là cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan niệm: Muốn thu hẹp hoạt động của Mặt trận, bài bác, chê bai một số việc làm của Mặt trận, thực chất là muốn hạ thấp vai trò của Mặt trận, xem nhẹ tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Hồ Chí Minh. Đồng thời chủ động ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phân hóa, gây nên tình trạnh đối đầu giữa các bộ phận dân cư để phá ta từ bên trong, khi cần thì dùng lực lượng từ bên ngoài để can thiệp hỗ trợ. Hoặc lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lợi dụng các khó khăn, yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền, bịa đặt, vu khống tung tin thất thiệt... nhằm làm cho người dân nghi ngờ, nghi kỵ và xung đột lẫn nhau. Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta cần phải tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 3.2. Quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm, chủ trương, biện pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới Tiếp tục đường lối, quan điểm đã xác định trong các đại hội của Đảng, Nghị quyết TW 7 (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, Đại hội X của Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Đồng thời chỉ rõ, đại đoàn 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.116
- 122 kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Cùng với giải quyết đúng đắn, hài hoà quan hệ lợi ích giữa các tầng lớp dân cư thì phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân nghĩa dân tộc và thực hiện dân chủ cũng là những yếu tố quan trọng để tìm ra “mẫu số chung”- điểm tương đồng trong xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc. Để tạo ra sự tương đồng, cần xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; phải tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích dân tộc, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới đòi hỏi phải tiến hành toàn diện, đồng bộ các chủ trương, biện pháp, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn dân ở mọi cấp từ Trung ương đến cơ sở. Hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt một số chủ trương, biện pháp cơ bản sau đây. + Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội. + Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hoá - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng, đất nước. + Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo. + Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thực hiện dân chủ gắn liền với tăng cường, đẩy mạnh chống các tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và xã hội để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
- 123 3.3. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong quân đội và phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng, phát triển khối đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng sự đoàn kết trong quân đội, đoàn kết quân dân. Trong nhân cách cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân, Hồ Chí Minh luôn luôn dạy phải có đức tính đoàn kết. Người cho rằng “không đâu thực hiện sự đoàn kết ấy sâu rộng và thấm thía hơn giữa quân đội và nhân dân ta”1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết của quân đội không chỉ trong chiến đấu mà “trong việc xây dựng quân đội, phát triển kinh tế, cũng phải tăng cường đoàn kết, đoàn kết trong cán bộ với nhau, đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết giữa cán bộ và bộ đội Bắc Nam, đoàn kết giữa bộ đội chiến đấu và bộ đội sản xuất”2. Trong bài nói chuyện với quân đội về tình hình và nhiệm vụ trước mắt tại Hội nghị cao cấp toàn quân, ngày 20-3-1958, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ để đoàn kết quân dân “quân đội phải giúp đỡ nhân dân. Nhất là các đơn vị bộ đội sản xuất càng phải chú ý giúp đỡ nhân dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và chính phủ. Phải đoàn kết quân, chính, đảng. Quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương”3. Phẩm chất đoàn kết trước hết thể hiện trong mối quan hệ nội bộ quân đội. Đó là tinh thần yêu thương nhau như ruột thịt, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Trong quan hệ nội bộ quân đội, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, Người dạy cán bộ phải thương yêu săn sóc chiến sĩ, phải hiểu rõ bộ đội thuộc quyền và làm gương đoàn kết thật sự đối với họ, nhất là người cán bộ chính trị phải là “người anh, người chị, người bạn của đội viên”. Thực tế cho chúng ta thấy, đơn vị nào nhận thức sâu sắc, làm đúng lời dạy về đoàn kết của Hồ Chí Minh thì ở đó nội bộ đoàn kết, công việc trôi chảy, giành nhiều thắng lợi, ở đâu không tuân theo lời dạy đó thì nội bộ lủng củng, trên dưới cách xa và không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hiện nay, tình hình nhiệm vụ của cách mạng và của quân đội đòi hỏi cán bộ và chiến sĩ trong toàn quân phải tiếp tục giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ, đoàn kết quân dân để góp phần to lớn vào củng cố và phát 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.426. 2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.141,142. 3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, tr.142.
- 124 triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Bên cạnh những cái tích cực hiện đang có nhiều nhân tố có khách quan và chủ quan tác động, ảnh hưởng tiêu cực, gây khó khăn cho việc xây dựng sự đoàn kết đó. Về khách quan, đó là những tác động, ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường trong nước, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù nhằm phá hoại khối đại đoàn kết trong nội bộ quân đội, đoàn kết quân dân. Về chủ quan, chúng ta có những hạn chế trong xây dựng và tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Ở một số nơi vẫn còn tình trạng mất đoàn kết giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa cán bộ với cán bộ, mối đoàn kết quân dân bị suy giảm. Trong thời gian tới, để giữ vững và tăng cường đoàn kết của quân đội, đoàn kết quân dân, đòi hỏi cán bộ và chiến sĩ quân đội phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong quân đội và đoàn kết quân dân. Phát huy tốt những bài học kinh nghiệm về củng cố, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong quân đội và đoàn kết quân dân, phát hiện nguyên nhân và khắc phục có hiệu quả những biểu hiện mất đoàn kết ở các đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ quân đội phải làm tốt hơn nữa công tác dân vận trong tình hình mới, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về kinh tế - xã hội, trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn, vùng có nhiều đồng bào theo đạo. Phải phát huy vai trò của quân đội, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng và phát triển sự đoàn kết trong quân đội và đoàn kết quân dân. Trong đó, phải nâng cao vai trò hạt nhân đoàn kết của các tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ các cấp, trước hết là vai trò xây dựng khối đoàn kết của người chính uỷ, chính trị viên và của đội ngũ cán bộ các cấp ở đơn vị. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? 2. Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? 3. Vai trò của Quân đội ta trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay?
- 125 Chương 8 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, nhờ khéo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi suốt mấy thập kỷ qua. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, giai cấp vô sản ở mỗi nước phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở từng quốc gia dân tộc và trên phạm vi toàn thế giới. Sức mạnh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không chỉ giới hạn trong phạm vi từng dân tộc, mà phải mở rộng ra vô sản toàn thế giới. C.Mác - Ph.Ăngghen kêu gọi Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại. Nói cách khác, cách mạng vô sản muốn giành thắng lợi phải tạo ra được sức mạnh tổng hợp, kết hợp giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, dân tộc với thời đại, trong nước và ngoài nước. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát triển đến giai đoạn tột cùng thành chủ nghĩa đế quốc. Sự khai thác, bóc lột thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một phương thức đảm bảo cho sự tồn tại phát triển của chúng. Lúc đó, bên cạnh mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản còn xuất hiện mâu thuẫn giữa
- 126 chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa. Trong điều kiện lịch sử mới này, V.I.Lênin đã phát triển các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Theo V.I.Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa, cách mạng giải phóng thuộc địa muốn thắng lợi thì phải liên hiệp lại. Nếu trước đây C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại thì bây giờ V.I.Lênin bổ sung Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Như vậy, từ bản chất quốc tế của giai cấp vô sản, từ xu thế chung của thời đại và thực tiễn kẻ thù của giai cấp vô sản là một lực lượng quốc tế, cách mạng vô sản muốn thắng lợi đòi hỏi phải có sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhận rõ yêu cầu khách quan này là cơ sở quan trọng cho các Đảng Cộng sản ở các nước định ra chiến lược và sách lược phù hợp với điều kiện của mình. Trung thành với tư tưởng đó của các nhà lý luận mácxít, Hồ Chí Minh khẳng định: Trong thời đại ngày nay sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa muốn giành thắng lợi phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc mình với sức mạnh do xu thế chung của thời đại tạo ra. Để thực hiện điều đó, Người kêu gọi: Lao động tất cả các nước đoàn kết lại. Nghiên cứu luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh nhận xét: “Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”1. Nhận thức trên là cơ sở quan trọng để hình thành quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.2. Thực tiễn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên thế giới và Việt Nam a. Thực tiễn thế giới Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kỹ thuật từ những năm 60 của thế kỷ XX, cùng với những ứng dụng thành tựu khoa học đó vào mọi mặt đời sống xã hội, làm cho nền sản suất thế giới phát triển mạnh, đem lại cho con người và thời đại sức mạnh chưa từng có. Hồ Chí Minh khẳng định: "Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.136.
- 127 chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình"1. Đây là một đặc điểm của thời đại mà các nước muốn phát triển, không thể tự bó hẹp trong phạm vi dân tộc mình, mà phải mở rộng ra bên ngoài, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học, tận dụng được sức mạnh của thời đại để nhân lên sức mạnh dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi đã mở ra một thời đại mới - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn này đã giúp cho Hồ Chí Minh thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa ở các nước muốn thắng lợi triệt để phải đi theo "con đường cách mạng vô sản". Xu thế chung của thời đại đòi hỏi các dân tộc phải nhận thức được yêu cầu tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự hình thành, phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa từ sau Chiến tranh thế giới II là một nhân tố quan trọng tạo ra sức mạnh của thời đại. Các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện tinh thần quốc tế vô sản của mình đã giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản đã góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, đóng góp tích cực vào việc bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Nhận thấy vai trò của nhân tố thời đại này, Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh của các phong trào cách mạng trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh nhận thấy chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng quốc tế, chúng liên minh lại để chống vô sản ở mọi nơi chưa đủ mà còn dùng vô sản da trắng đi đàn áp, bóc lột vô sản da đen. Người kết luận: Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù của nhân dân lao động ở chính quốc và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, giai cấp vô sản phải tập hợp lực lượng chiến đấu trong tất cả nhân dân lao động ở các nước thuộc địa; lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc, nếu tách riêng mỗi lực lượng, mỗi bộ phận thì không thể nào thắng được kẻ thù. 1 Sđd, tập 9, tr.355.
- 128 Những đặc điểm tình hình thế giới nổi bật nêu trên đã được Hồ Chí Minh khái quát trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội II của Đảng (2-1951): “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại... loài người đã tiến một bước dài trong việc điều khiển sức thiên nhiên... chủ nghĩa tư bản từ chỗ tự do cạnh tranh, đã đổi ra độc quyền lũng đoạn, đã tiến lên chủ nghĩa đế quốc... Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Liên Xô nước xã hội chủ nghĩa thành lập rộng một phần sáu thế giới và gần một nửa loài người đã tiến vào con đường dân chủ mới, những dân tộc bị áp bức lần lượt nổi dậy chống chủ nghĩa đế quốc đòi độc lập tự do”1. Đó là một sự tổng kết ngắn gọn và sâu sắc, bao quát được những vấn đề cơ bản của thực tiễn thế giới nửa đầu thế kỷ XX. Nhận thức đúng về tình hình thế giới, về thời đại là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh đề ra chiến lược, sách lược cách mạng và cho kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Cách phân tích và nhìn nhận về thời đại đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với chúng ta hôm nay, khi thời đại mới đang tiếp diễn phức tạp. b. Thực tiễn Việt Nam Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đến Việt Nam, đế quốc Pháp có trong tay một đội quân nhà nghề, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, tiềm lực kinh tế mạnh, nhưng cũng phải mất gần một phần ba thế kỷ mới đặt được ách thống trị lên toàn đất nước ta. Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm thà chết không chịu làm nô lệ. Kết quả cuối cùng, tất cả các phong trào kháng pháp của nhân dân Việt Nam đều bị thất bại, “những đám đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”. Từ thực tiễn trên cho thấy Việt Nam một dân tộc nhỏ, có nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển muốn chống lại đế quốc thực dân có tiềm lực kinh tế, quân sự ban đầu mạnh hơn mình, không thể không phát huy sức mạnh bên trong và bên ngoài để giành thắng lợi. Mặt khác, do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc lúc này phải có một giai cấp tiên tiến, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, lãnh đạo định ra đường lối gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Thực tiễn đó là nguyên nhân thôi thúc Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, và Người đã tìm thấy con đường cứu nước 1 Sđd, tập 6, tr.153
- 129 đúng, đáp ứng được yêu cầu khách quan mà xã hội Việt Nam đòi hỏi là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng đất nước. Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ thực tiễn tình hình thế giới và Việt Nam đã được nghiên cứu và khảo nghiệm, Hồ Chí Minh có nhận thức mới về sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam để thực hiện con đường giải phóng dân tộc mà các nhà yêu nước đương thời chưa làm được. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Quan điểm trên của Nguyễn Ái Quốc được hình thành từng bước, thông qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành lý luận: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. 2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 2.1. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong điều kiện thời đại có những biến đổi to lớn, đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, gắn liền với hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa đế quốc tạo dựng nên. Nhắc nhở những người cộng sản cần bám sát yếu tố thời đại để định ra đường lối cách mạng cho phù hợp, Lênin khẳng định: “chúng ta đang sống ở khoảng giao thời giữa hai thời đại và chỉ có thể hiểu được những biến cố lịch sử có ý nghĩa lớn lao đang diễn ra trước mắt chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích những điều kiện khách quan của bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia”1. Quán triệt tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: "Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản" 2. Thực tiễn thời đại đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, dân tộc sẽ được thay bằng sự mở rộng quan hệ giữa các nước, vận mệnh của 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ Mátxcơ va, 1980, tr.174. 2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.567.
- 130 mỗi dân tộc gắn liền với vận mệnh chung của cả loài người. Do đó, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Trước khi Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, ở Việt Nam đã có nhiều nhà yêu nước nhiệt thành dám đứng lên tập hợp nhân dân phất cao ngọn cờ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Nhưng các phong trào đó đều mang nặng tính tự phát, cô lập, không gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, không nắm bắt được xu thế chung của thời đại, kết cục đều đi đến thất bại. Nguyễn Ái Quốc không đi theo, không lặp lại những thất bại của các bậc tiền bối mặc dù Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của họ. Người ra đi tìm đường cứu nước, “xem họ làm thế nào”, đi tìm sự mách bảo của thời đại để cứu nước cứu dân. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải hoà nhập chung vào phong trào cách mạng vô sản thế giới, là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Trên mặt trận lý luận tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết chống lại chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển quan điểm về mối quan hệ khăng khít cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản thế giới của Lênin. Người nói: Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch”. Vai trò của cách mạng thuộc địa rất to lớn, không có họ thì cách mạng vô sản không thể giành thắng lợi. “Lênin là người đầu tiên"1 đã nhận thức đúng vấn đề đó. Theo Nguyễn Ái Quốc, thuộc địa là nơi mà "tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó" 2. Người khái quát: Lịch sử tất cả cuộc xâm chiếm thuộc địa nào thì từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu của người bản xứ. Sự bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã đưa các nước thuộc địa đến chỗ đoàn kết để cùng nhau chống lại chủ nghĩa tư bản, lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản. Sự phân 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.219. 2 Sđd, tập 1, tr.243.
- 131 tích trên của Nguyễn Ái Quốc là một thực tế về vai trò của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng vô sản thế giới và sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ cách mạng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Quan điểm này còn góp phần đập tan luận điệu của chủ nghĩa cơ hội cho rằng: chủ nghĩa đế quốc đi xâm lược các nước thuộc địa, đóng vai là nhà “khai hoá, truyền bá văn minh” đối với các dân tộc còn lạc hậu, trình độ phát triển thấp; các dân tộc thuộc địa chưa có đủ khả năng để giải phóng mình, vì họ còn thấp kém về mọi mặt; giai cấp vô sản thế giới chưa thể giúp giai cấp vô sản thuộc địa giải phóng được, để làm được điều đó cần phải có thời gian tích luỹ lực lượng. Hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc tìm mọi cách gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới"1. Cách mạng ở phương Đông chậm phát triển và suy yếu vì có một nguyên nhân là “sự biệt lập”. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng riềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau. Biết được nguyên nhân suy yếu của cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy phải tuyên truyền giáo dục để làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau đi đến hiểu nhau hơn và đoàn kết lại để cùng nhau chống kẻ thù chung. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất của chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết phải hợp lực các dân tộc bị áp bức chống lại kẻ thù của mình. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa... Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"2. Như vậy, chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức, mà còn là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc. Do đó, cách mạng Việt Nam phải liên hệ với cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới, quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiều hướng đi lên 1 Sđd, tập 2, tr.301 2 Sđd, tập 2, tr.120
- 132 tất yếu của dân tộc Việt Nam, chủ động đưa nước ta hoà nhập xu thế chung của thời đại để đạt đến mục đích. Đây là công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức khác. Tư tưởng đó làm cơ sở cho Đảng ta xác định đường lối lãnh đạo gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. 2.2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính... là một bộ phận của tinh thần quốc tế”1. Do đó, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chỉ được phát huy khi kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Là người yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Người cũng đồng thời là chiến sĩ cộng sản quốc tế đã suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để củng cố tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh: Đảng ta lấy toàn bộ hoạt động thực tiễn của mình để chứng minh chủ nghĩa yêu nước chân chính không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”2. Người không giấu nổi niềm phấn khởi khi thấy Trường đại học phương Đông đã thể hiện rõ tư tưởng của Lênin trong đoàn kết các dân tộc thuộc địa: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”3. Rằng đây bốn biển một nhà, vàng đen trắng đỏ đều là anh em. 1 Sđd, tập 6, tr.172 2 Sđd, tập 1, tr.452 3 Sđd, tập 2, tr.124
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - PGS.TS Mạch Quang Thắng
136 p | 3762 | 1131
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (tái bản có sửa chữa, bổ sung): Phần 1
129 p | 1986 | 436
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (tái bản có sửa chữa, bổ sung): Phần 2
161 p | 1208 | 319
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
50 p | 1017 | 246
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Viết Thông
163 p | 246 | 63
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 1
257 p | 363 | 60
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2019)
144 p | 375 | 44
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - Mạch Quang Thắng (Dành cho bậc ĐH - Không chuyên ngành Lý luận chính trị)
152 p | 592 | 44
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung): Phần 1
118 p | 329 | 43
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị): Phần 1
121 p | 368 | 40
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2 - PGS.TS. Nguyễn Viết Thông
127 p | 192 | 40
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Tái bản lần thứ nhất)
136 p | 196 | 39
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị): Phần 2
151 p | 60 | 25
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Phần Chính trị xã hội): Phần 1
112 p | 34 | 10
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Xuất bản lần thứ 11): Phần 1
162 p | 52 | 9
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2 (năm 2010)
129 p | 35 | 8
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 1 (năm 2010)
164 p | 22 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn