YOMEDIA
ADSENSE
Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad
95
lượt xem 5
download
lượt xem 5
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết phân tích tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad với ba nội dung cơ bản: 1. Tại sao phải giải thoát; 2. Thế nào là giải thoát; 3. Con đường giải thoát.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00039<br />
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 5, pp. 92-98<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG KINH UPANISHAD<br />
<br />
Nguyễn Thị Toan<br />
Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt. Upanishad là bộ kinh đánh dấu bước ngoặt trong tư duy người Ấn Độ, chuyển từ<br />
thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học, khai phá con đường trí tuệ để lí giải<br />
về bản thể vũ trụ và bản chất đời sống tinh thần của con người. Một trong những nội dung<br />
trọng tâm của Upanishad là tư tưởng giải thoát. Bài viết phân tích tư tưởng giải thoát trong<br />
kinh Upanishad với ba nội dung cơ bản: 1. Tại sao phải giải thoát; 2. Thế nào là giải thoát;<br />
3. Con đường giải thoát.<br />
Từ khóa: Upanishad, Atman, Brahman, giải thoát.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Ở Ấn Độ cổ đại, sự xuất hiện kinh Upanishad trong văn học Veda là một cuộc cách mạng<br />
giải phóng tư duy người Ấn khỏi những nghi lễ ma thuật, bằng trí tuệ để lí giải những vấn đề<br />
về bản chất của vũ trụ và khám phá bản chất đời sống tinh thần, từ sự phản tư tinh thần tìm con<br />
đường giải thoát cho con người khỏi những nỗi khổ cuộc đời. Đã có một số công trình nghiên cứu<br />
về tư tưởng giải thoát của triết học Ấn Độ, trong đó ít nhiều có đề cập tới vấn đề giải thoát trong<br />
Upanishad như: Biện chứng của giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ của Nghiêm Xuân Hồng [8], Tư<br />
tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của Doãn Chính [3]. Tác giả Phạm Tấn Xuân Cao cũng có<br />
bài viết Những nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Upanishad phân tích khá toàn diện về nội<br />
dung triết học của Upanishad [1]. Bên cạnh đó, có một số luận văn, bài báo, đề tài khoa học nghiên<br />
cứu về Ấn Độ ở các phương diện văn học nghệ thuật, tâm lí học, chính trị học.v.v. Tất cả các công<br />
trình này đều đề cập tới Upanishad. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bàn một cách hệ thống về<br />
tư tưởng giải thoát trong bộ kinh này.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
Upanishad ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ VI trước CN – giai đoạn chuyển<br />
biến từ thời đại công xã nguyên thủy sang thời đại chiếm hữu nô lệ; con người chuyển từ vương<br />
quốc của thần thoại – tôn giáo sang vương quốc của tư duy triết học, từ việc khám phá thế giới tự<br />
nhiên bên ngoài sang khám phá và chinh phục thế giới nội tâm.<br />
Danh từ “Upanishad” ban đầu có nghĩa là “thị tọa”, “cận tọa”, “những lời lẽ cao đẹp của<br />
giới quyền quý”. Về sau, “Upanishad” mang nhiều nghĩa khác nhau như: “bí mật hội tọa, cùng<br />
họp giảng thuyết lẽ cao siêu”, “bí mật ý nghĩa”, “bí thuyết, thuyết minh những lẽ bí mật”. Tới lần<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/2/2015 Ngày nhận đăng: 20/5/2015<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Toan, e-mail: toandhsp1@gmail.com.<br />
<br />
<br />
92<br />
Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad<br />
<br />
<br />
chuyển nghĩa cuối cùng, “Upanishad” mang ý nghĩa là sự biên chép, ghi chú và giải thích các điều<br />
huyền bí về tôn giáo. Thông thường, “Upanishad” được giải thích là ngồi (sad) gần (upa) một cách<br />
cung kính (ni) để nghe thầy giảng đạo.<br />
Upanishad là bộ kinh tập hợp tư tưởng của nhiều triết gia, đạo sĩ, được diễn tả theo các cách<br />
khác nhau, tùy theo trình độ thể hiện của các triết gia, đạo sĩ và hoàn cảnh, thời gian trình bày<br />
khác nhau. Mặc dù vậy, toàn bộ tư tưởng của Upanishad vẫn thống nhất, đó là những phương diện<br />
khác nhau của cùng một lí tưởng giải thoát. Với nội dung tư tưởng triết học phong phú và sâu sắc,<br />
Upanishad đã trở thành nguồn gốc triết lí cho hầu hết các hệ thống triết học, tôn giáo Ấn Độ, là cơ<br />
sở triết lí cho đạo Bàlamôn cũng như đạo Hindu ở Ấn Độ cổ đại. Cao hơn, Upanishad được xem<br />
như là tinh hoa của minh triết phương Đông.<br />
2.1. Vì sao phải giải thoát<br />
Để giải thích điều này, cần bắt đầu từ vấn đề bản thể luận trong Upanishad. Upanishad truy<br />
tìm bản nguyên của vũ trụ từ Tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Brahman là Thực tại tuyệt đối,<br />
đầu tiên, tinh khiết, toàn thiện, duy nhất, tối cao, là căn nguyên của tất cả, ví như “nguồn sáng<br />
của mọi ánh sáng”. Nó là cái từ đó mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sống được và trở về đó<br />
sau khi chết. Brahman mang trong mình động cơ tiềm tàng, đó là tư tưởng, là ý chí, là động lực<br />
điều khiển, thúc đẩy vạn vật phải đi theo chiều hướng của dục vọng. Brahman là thực hữu, ý thức<br />
và an lạc; đó là những đặc tính khác nhau của cùng một thực tại thuần nhất. Thực hữu vì không<br />
phải là trống rỗng, hư không; ý thức bởi vì là nguồn gốc của mọi sự nhận biết; an lạc bởi vì đau<br />
khổ không có lí do để tồn tại ở đó. Brahman sinh ra Atman. Atman – linh hồn cá nhân là sự biểu<br />
hiện cụ thể của Brahman trong đời sống. Atman là hơi thở, sinh khí, tồn tại trong thân xác hữu<br />
hình. Trong vạn vật có bản thể của từng cá thể (tự ngã), và trong mỗi bản thể có linh hồn, mà linh<br />
hồn chính là sự giao cảm huyền bí giữa thần và vật. Tạo hóa từ chỗ vô hình trở thành hữu hình do<br />
sinh khí của Atman tạo nên. Atman là nguồn sống của vũ trụ, là thực tại thuần nhất mà phức tạp,<br />
vừa tiêu cực vừa tích cực, vừa là chủ thể vừa là khách thể. Thực tại ấy vô hạn nhưng là nền tảng<br />
của tất cả mọi hữu hạn. Cũng như Brahman là bản chất thanh tịnh bất biến của vũ trụ tuần hoàn,<br />
Atman là thực tại nền tảng ở mỗi cá nhân. Mọi sự vật, hiện tượng có hình tướng, danh sắc thiên<br />
hình vạn trạng, luôn luôn biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, kể cả con người đều toát<br />
ra từ Tinh thần vũ trụ tối cao, là sự biểu hiện khác nhau của Tinh thần vũ trụ tối cao và hòa nhập<br />
với nó sau khi tiêu tan: "Cũng như con nhện giăng tơ và rút tơ về, cũng như cỏ sinh ra trên mặt đất,<br />
cũng như lông mọc trên thân người sống, thì nơi đây, trong vũ trụ, phàm cái hiện tồn là cái sinh ra<br />
từ cái bất di bất dịch" [3;96]. Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng còn Atman là cái ngã cá nhân.<br />
Bản chất của cả hai chỉ là một. Brahman là một thực thể siêu việt khách quan nhưng cũng là cái<br />
bản chất nội tại tiềm ẩn trong tâm linh mỗi cá nhân, làm cho mỗi cá nhân có Atman sống động.<br />
Atman tồn tại trong cơ thể. Cơ thể chỉ là cái vỏ bọc của linh hồn, là nơi hiện thân của linh hồn bất<br />
tử. Hay nói cách khác, linh hồn cá nhân chỉ là một bộ phận của cái toàn bộ, là tinh thần vũ trụ tối<br />
cao, như tia nắng của ánh nắng mặt trời. Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng, còn Atman là cái ngã<br />
cá nhân. Brahman chỉ có một, Atman là số nhiều. Tuy nhiên, Brahman và Atman chỉ khác nhau<br />
về hình thức thể hiện. Tinh thần thế giới Brahman (đại ngã) như đại dương, còn linh hồn cá biệt<br />
Atman (tiểu ngã) như những đợt sóng của đại dương. Tất cả những đợt sóng ấy tuy khác nhau về<br />
hình thức biểu hiện, nhưng về thực chất chúng đều là một thể duy nhất, tối cao, đó là nước của đại<br />
dương mênh mông. Nước của đại dương chính là cái bản chất phẳng lặng, thường tịch, tuyệt đối<br />
tối cao, bất diệt, bất sinh của bản thể vũ trụ, còn sóng chỉ là một thực tại có tính chất tương đối,<br />
thường xuyên thay đổi. Kinh Mundaka ví, giống như từ một ngọn lửa rực rỡ phát sinh ra hàng triệu<br />
<br />
93<br />
Nguyễn Thị Toan<br />
<br />
<br />
tia lửa khác nhau nhưng vẫn cùng bản chất lửa, thì từ cái hằng hữu bất di bất dịch phát sinh hằng<br />
hà sa số các sự vật hiện tượng, để rồi cuối cùng các sự vật hiện tượng ấy lại trở về với cái bất di<br />
bất dịch. Brahman là cái bất diệt tối cao, Atman là bản thể của con người. Atman nhỏ hơn cái nhỏ<br />
nhất, lớn hơn cái lớn nhất, là cái tiềm ẩn trong lòng tất cả chúng sinh. Nó tự sinh ra, tồn tại mãi<br />
mãi, không bị chết khi thân xác chết. Brahman là thực tại siêu việt khách quan, nhưng cũng là cái<br />
bản chất nội tại chủ quan, tiềm ẩn trong tận đáy sâu tâm hồn của mỗi một cá nhân. Toàn thể vũ trụ<br />
là Brahman nhưng cái ngã tiềm ẩn trong lòng mỗi cá nhân cũng là Brahman. Thực tại đồng nhất<br />
Atman – Brahman được ví: “Cái ngã ở trong lòng ta, nhỏ hơn hạt gạo, nhỏ hơn hạt mì, nhỏ hơn hạt<br />
cải, nhỏ hơn hạt kê, nhỏ hơn nhân hạt kê. Cũng cái ngã ở trong lòng ta, lớn hơn trái đất, lớn hơn<br />
bầu khí quyển, lớn hơn tất cả mọi thế gian” [3;98]. Trong quyển Chandogya Upnishad, một ông<br />
bố dạy cho con trai là Shvetaketu, về bản chất của Atman bằng một ví dụ sinh động. Ông bảo con<br />
cắt một trái vả ra làm đôi. Bên trong, đứa con thấy những hạt nhỏ xíu. Ông lại bảo con tiếp tục cắt<br />
đôi hạt vả ra và hỏi con thấy gì trong đó. Khi được hỏi thấy gì không, cậu con trai trả lời là không<br />
thấy gì. Ông bố giải thích rằng, từ cái tưởng không có gì đó, một cây vả đã lớn lên. Đó là Atman.<br />
Bằng cách dùng một hình ảnh ví von khác về những con ong và mật ong, ông bố giải thích rằng<br />
Atman là tự ngã của toàn thế giới. Bầy ong làm ra mật bằng cách bay đi hút mật của nhiều loại<br />
hoa rồi đúc kết lại thành một thể đồng chất khiến cho mật hoa từ mỗi cây khác nhau không thể xác<br />
định nguồn gốc riêng biệt của mình nữa. Cũng như vậy, khi mọi loài hội nhập vào một thể thống<br />
nhất của vũ trụ, chúng sẽ tạo nên tự ngã của vũ trụ - Brahman.<br />
Vì Atman đồng nhất với Brahman nên cũng tồn tại vĩnh viễn, bất diệt như Brahman. Thân<br />
xác chỉ là vật chất vô thường và là nơi trú ngụ tạm thời của Atman vô hình. Khi thân xác chết,<br />
Atman lại trở về hợp nhất với Brahman vô cùng vô tận. Tuy nhiên, Atman lại tồn tại trong những<br />
thể xác khác nhau nên con người thường lầm tưởng rằng Atman khác với Brahman. Những tình<br />
cảm, ý chí, dục vọng và những hành động nhằm thỏa mãn dục vọng của những thân xác khác nhau<br />
trong cuộc đời trần tục đã gây nên những hậu quả xấu, che lấp bản tính chân thực của Atman, khiến<br />
Atman phải chịu khổ đau. Tham, sân, si là nắp đậy chiếc bình thể xác. Bị giam hãm trong thể xác<br />
nhiều nhục dục và ham muốn nên khi thể xác chết đi, Atman không trở về được với Brahman. Linh<br />
hồn cá nhân buộc phải tìm ra một thân xác tương lai của nó khi rời bỏ thân xác hiện tại. Mỗi khi<br />
thân xác chết đi, linh hồn rời bỏ thân xác ấy để đi tìm nơi trú ngụ ở một hình thức thân xác mới.<br />
Atman bất tử đầu thai vào hết thân xác này đến thân xác khác trong vòng quay bất tận của luân<br />
hồi (samsara). Theo Upanishad, luân hồi là sự lưu chuyển của linh hồn bất tử từ thể xác này sang<br />
thể xác khác. Nguyên lí chi phối và điều động vòng luân hồi gọi là nghiệp báo. Nghiệp (karma)<br />
là hoạt động của ý nghĩ, lời nói và hành động của con người tạo thành kết quả về sau. Những kết<br />
quả do hành động của con người gây ra gọi là nghiệp báo. Nguyên nhân của luân hồi là do ý chí<br />
và hành động của con người trong tiền kiếp. Mỗi trạng thái sống của linh hồn được quyết định bởi<br />
tri thức (vidya) và hành động (karma) của nó trong tiền kiếp: “Người ta là một tạo vật của ý chí.<br />
Tùy theo y muốn thế nào ở thế giới này, y sẽ trở nên như thế, sau khi y đi” [7;167]. Theo tư tưởng<br />
nghiệp báo luân hồi (karma samsara), Upanishad cho rằng, hành động tốt sẽ khiến con người trở<br />
nên tốt và hành động xấu sẽ khiến con người trở nên xấu. Những người có hành vi tốt đẹp sẽ đầu<br />
thai vào kiếp tốt đẹp, hoặc thành người Bàlamôn, người quý tộc hoặc thương nhân. Những kẻ có<br />
hành vi xấu xa sẽ phải đầu thai vào những kiếp xấu xa như kiếp nô lệ hay kiếp của những con vật.<br />
Kinh Chandogya Upanishad nói về hai lối rẽ của luân hồi: con đường của thần linh (deva yana)<br />
dành cho những bậc giải thoát và đường tổ phụ (pitri yana) dành cho những người làm việc công<br />
đức. Riêng những người làm điều tội lỗi sẽ phải đọa đày liên tiếp trong vòng luân hồi và phải sống<br />
những kiếp khổ sở, thấp hèn để trả gánh nợ tiền kiếp đồng thời lại tạo nghiệp cho kiếp sau. Càng<br />
<br />
<br />
94<br />
Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad<br />
<br />
<br />
đầu thai vào nhiều kiếp sống, gánh nặng tiền kiếp càng lớn, Atman càng phải chịu nhiều khổ đau.<br />
Nghiệp báo là định luật giam hãm con người trong vòng luân hồi bất tận chừng nào con người<br />
chưa giác ngộ. Bởi vậy, khát vọng giải thoát Atman khỏi vòng quay của nghiệp báo luân hồi để trở<br />
về với bản chất chân thực của mình đã trở thành ý nghĩa tối cao của cuộc đời và là tư tưởng trọng<br />
yếu trong Upanishad.<br />
<br />
2.2. Thế nào là giải thoát<br />
Tư tưởng giải thoát biểu hiện dưới nhiều hình thái và trong nhiều nền tôn giáo, triết học,<br />
văn hóa khác nhau. Có nhiều khuynh hướng giải thoát khác nhau: 1. Giải thoát bằng tha lực (Dựa<br />
vào lực lượng siêu nhiên: thần linh, Thượng đế); 2. Giải thoát bằng tự lực (Dựa vào sự nỗ lực của<br />
bản thân mỗi con người); 3. Giải thoát bằng xuất thế, chối bỏ cuộc sống mê vọng; 4. Giải thoát<br />
bằng việc tự mình hòa nhập cùng hiện hữu, vì bản chất của vũ trụ và tự ngã của con người vốn<br />
đồng nhất, vì vô minh mà thành sai biệt, nên chỉ cần xóa bỏ vô minh là con người sẽ trở thành bản<br />
thể toàn diện.<br />
Triết học Ấn Độ là triết học về giải thoát với đầy đủ các khuynh hướng trên. Khát vọng<br />
giải thoát để trở về với chân bản của mình và trở thành bất tử là khát vọng thao thiết chảy muôn<br />
đời trong dòng sông tâm thức của người Ấn. Trong Upanishad, đó là tinh thần khát khao hướng<br />
thượng, hòa nhập vào vũ trụ vô biên, vào Thượng đế Brahman. Cái cảm giác có Thượng đế ở trong<br />
mình nhưng Thượng đế ấy đang phải sống kiếp lưu đày khiến con người càng khát khao giải thoát.<br />
Upanishad quan niệm: “Giải thoát là trạng thái đồng nhất với thiêng liêng, với tự ngã tuyệt đối và<br />
bất diệt” [7;169]; “Chính cõi bất diệt mới là cứu cánh của đời người, mới là giải thoát thực sự. Nơi<br />
đây, linh hồn trở nên hợp nhất với Thượng đế, với Đại Ngã siêu việt và tự tại, hoàn toàn đoạn tuyệt<br />
với khổ não luân hồi” [7;139-140].<br />
Giải thoát (moska) là trạng thái tự do tuyệt đối, Atman nhập về và đồng nhất với bản thể vũ<br />
trụ tối cao bất diệt Brahman, vượt qua mọi quan niệm sống chết, còn mất, tha ngã, thoát khỏi sự<br />
chi phối của nghiệp báo luân hồi. Trạng thái giải thoát còn có thể được mô tả bằng nhiều đặc tính<br />
khác. Trước hết, giải thoát là vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian, vì sống và chết là những hiện<br />
tượng trong thời gian. Giải thoát là trạng thái thứ tư của ý thức, tức là trạng thái chân như (turiya),<br />
vượt lên trên mọi giới hạn của thời gian, không gian và hiện tượng. Giải thoát cũng là vượt ra khỏi<br />
sự chi phối của định luật nghiệp báo luân hồi, vì giải thoát là tuyệt đối tự do, tất cả mọi hành động<br />
của bậc giải thoát đều là những hành động vô tư, không tạo nghiệp. Linh hồn đã giải thoát được ví<br />
như giọt nước trên lá sen, muốn lăn đi đâu cũng được. Nói một cách khác, “giải thoát là tuyệt đối<br />
hạnh phúc vì không biết lo sợ buồn phiền, tuyệt đối sáng suốt vì là nền tảng của mọi sự hiểu biết”<br />
[7;17].<br />
Upanishad đề cập tới bốn trạng thái giải thoát để hoàn toàn đồng nhất với Brahman vô ngã<br />
thanh tịnh, dung thông với Thượng đế hữu ngã, hòa hợp với tinh thần vũ trụ, và tham sự vào hoạt<br />
động điều hành vạn vật ở thế gian: 1. Samipya tức là thân cận với thiêng liêng; 2. Sarupya hay<br />
Sadharmya là cùng tính chất với thiêng liêng và phản ánh vinh quang của thiêng liêng; 3. Salokya<br />
là chung sống với thiêng liêng trong cùng một cõi; 4. Sayujya, hay Satmata là hoàn toàn đồng hóa<br />
với thiêng liêng. Tất cả những hình thái ấy không phải là những thứ bậc hay giải thoát mà là những<br />
biểu hiện biến thiên của tự ngã hay linh hồn giải thoát, khi yên lặng, khi hoạt động. Khi ấy tự ngã<br />
siêu việt và toàn năng không tự phân biệt mình ở chủ thể hay khách thể. “Cũng như một nắm muối<br />
bỏ vào nước và hòa tan trong nước không còn hình thể gì nhưng nước chỗ nào cũng mặn, Đại Tự<br />
tại vô biên, không hình thể, nhưng hiện diện khắp nơi” [7;171].<br />
Bốn trạng thái giải thoát bằng thực nghiệm tâm linh được diễn tả trong kinh Mundaka<br />
<br />
95<br />
Nguyễn Thị Toan<br />
<br />
<br />
Upanishad như sau: 1. Thức (jagrat hay visha): Tự ngã thể hiện qua những đối tượng bên ngoài<br />
của cảm giác; 2. Mộng (suapna): Tự ngã thể hiện trong một thế giới tế vi, sâu kín và có sự thực<br />
nghiệm tinh tế; 3. Ngủ say không mộng (sushupti hay prajna): Tự ngã trở nên thuần khiết, thanh<br />
tịnh, không còn sự phân biệt giữa khách thể và chủ thể; 4. Ý thức tâm linh (turiya): ý thức tự giác<br />
thuần túy, hoàn toàn vượt ra khỏi sự ràng buộc, chi phối của thế giới ảo ảnh, vô thường và ý niệm<br />
lưỡng nguyên, thực sự đồng nhất chủ thể Atman với khách thể Brahman.<br />
Về trình độ, có giải thoát tức thời (sadyo mukti) và giải thoát dần dần (karma mukti). Về<br />
hình thức, có giải thoát khi còn sống (Jivan mukti) và giải thoát sau khi chết (videba mukti). Nhưng<br />
dù ở trình độ hay hình thức nào, mục đích cao nhất vẫn là phải đạt tới được trạng thái thực tại tuyệt<br />
đối đồng nhất Atman - Brahman. Thực tại tuyệt đối là trạng thái ý thức không đối tượng, thuần<br />
túy vượt ra ngoài mọi tầm nhận thức của con người. Cảnh giới của thực tại tuyệt đối đã đồng nhất<br />
tự ngã với tất cả chúng sinh. Tự ngã không còn bị màn sương vô minh che lấp mà đồng nhất với<br />
cái ngã trong lòng muôn vật. Nó vẫn tham dự vào các hoạt động ở thế gian mặc dầu không bị ràng<br />
buộc bởi các hoạt động ấy. Đó là hình ảnh những vị thánh nhân tuy cũng sống một cuộc đời bình<br />
thường như tất cả mọi người, cũng trải qua những giai đoạn gian truân và hạnh phúc và cuối cùng<br />
cũng chết nhưng không biết tới đau đớn, sợ hãi, không băn khoăn về sự sống hay cái chết, không<br />
mưu tính một điều gì cho riêng mình, không tạo nên nghiệp báo nữa.<br />
2.3. Con đường giải thoát<br />
Upanishad chỉ ra ba con đường để đạt đến giải thoát: 1. Con đường tri thức đòi hỏi tu hành<br />
khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện, sẵn lòng thoát li thế giới trần tục; 2. Con đường hành động theo<br />
nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã; 3. Con đường cuối cùng, rộng<br />
rãi nhất, dành cho mọi người đó là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng tối cao để<br />
Atman có thể hoà nhập với Braman trong tình yêu cao cả thiêng liêng.<br />
Về cơ bản, Upanishad nhấn mạnh vào hai con đường: con đường tri thức và con đường hành<br />
động: “Những người đi tìm chân lí có thể được giác ngộ bằng hai con đường khác nhau: con đường<br />
tri thức của những người suy tưởng và con đường hành động vô tư của những người hoạt động”<br />
[7,139]. Đó là con đường tu luyện đạo đức bằng hành động và tu luyện tri thức bằng trực giác tâm<br />
linh.<br />
Về con đường hành động (tu luyện đạo đức), Upanishad tuyên bố: “Người nhận biết được<br />
Brahman (tức là giải thoát, đạt đến bất diệt) là người chăm lo hoạt động” [7;137]. Tu luyện đạo<br />
đức là hành động theo đúng bổn phận tự nhiên, không tính toán vụ lợi, diệt mọi dục vọng, vượt qua<br />
mọi sự ràng buộc, vây tỏa của thế giới vật dục biến ảo vô thưòng. Đó là hoạt động vô tư chứ không<br />
phải là những hoạt động tầm thường, toan tính lợi ích vật chất hay tinh thần. Mấu chốt của hành<br />
động vô cầu là làm các công việc thế gian một cách hồn nhiên, không tự tư tự lợi, không quyến<br />
luyến đam mê. Điều này tương tự tư tưởng “Phật pháp bất li thế gian pháp” của Phật giáo Thiền<br />
tông hay tư tưởng của Đạo gia “vô vi nhi bất vô vi”.<br />
Về con đường tri thức, để giải thoát, con người phải toàn tâm tu luyện tri thức (jnana yoga),<br />
nhằm diệt mọi dục vọng, lo âu, phiền não, rũ bỏ hết mọi sự ràng buộc, lôi kéo bởi thế giới vật<br />
dục biến ảo, vô thường của thế giới trần tục, dày công thiền định (dhyana) suy tư chiêm nghiệm<br />
nội tâm, thực nghiệm tâm linh. Tri thức ở đây là tri thức về Brahman (Brahma vidya), về thực tại<br />
tuyệt đối. Shvetashvatara Upanishad nói: “Những ai biết được Ngài (Brahman) sẽ trở thành bất tử”<br />
[7;140]. Biết được Brahman cũng có nghĩa là biết được chân bản của Atman. Bằng nhận thức trực<br />
giác, con người nhận ra chân bản của mình, đạt được chân lí tối thượng, hòa nhập vào với bản thể<br />
tuyệt đối. Việc nhận thức được sự đồng nhất giữa linh hồn bất tử Atman và Tinh thần vũ trụ tối<br />
<br />
96<br />
Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad<br />
<br />
<br />
cao Brahman không phải là điều mà cảm giác hay trí tuệ thông thường có thể đạt được mà phải<br />
nhờ vào sự linh báo và sự trầm tư mặc tưởng lâu dài. Kinh Upanishad đã nói: “Atman chẳng thể<br />
nhận thức được bằng giác quan. Tự ngã mở các giác quan ra ngoài, bởi thế người ta chỉ trông ra<br />
thế giới bên ngoài mà không nhìn về bản ngã” [1;119]. Theo Upanishad, cảm giác và kinh nghiệm<br />
chỉ khiến con người rơi vào sự mê hoặc của thế giới vật dục, thế giới hữu hình, hữu hạn, thường<br />
biến, ảo ảnh phù du. Trí tuệ, tư duy logic tuy sâu sắc nhưng phiến diện và hạn hẹp, làm chết cứng<br />
vũ trụ sinh động mênh mông. Đó là những nhận thức có hạn, còn sự phân biệt giữa khách thể và<br />
chủ thể, giữa vật và ta, không thể đo được cái vô hạn, tuyệt đối tối cao. Tu luyện trí tuệ là quá trình<br />
dày công thiền định, dốc lòng suy tư chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh. Đó là một năng<br />
lực nhận thức đặc biệt nhờ sự linh báo và sự trầm tư mặc tưởng lâu dài, không qua nhận thức kinh<br />
nghiệm và trí tuệ thông thường. Con người đạt tới chân lí tối cao là đạt tới đại giác, nhận ra chân<br />
bản của mình và thực tướng của vạn vật, dứt bỏ được mọi sự ràng buộc, lôi kéo làm mê mờ tâm<br />
tính bởi thế giới vật dục biến ảo vô thường, diệt bỏ mọi dục vọng, mọi quan niệm của thế tục về<br />
sống chết và những lo âu, khổ não của cuộc đời, đạt tới sự đồng nhất của linh hồn cá nhân với Tinh<br />
thần sáng tạo vũ trụ tối cao, tuyệt đối, vĩnh cửu với cái tâm thanh tịnh, tịch diệt, an lạc và tự tại. Đó<br />
cũng là khi linh hồn cá nhân hòa nhập vào bản thể vũ trụ tuyệt đối, vĩnh viễn an lạc, thanh tịnh.<br />
Để đạt tới sự hợp nhất với Brahman, không phải chỉ là sự khước từ trần thế mà còn phải tập<br />
trung tư tưởng về thế giới phi vật chất. Upanishad đã hướng dẫn tỉ mỉ cách thức đạt tới sự quán<br />
tưởng và hòa vào vô tận, trong đó việc liên tục đọc thần chú âm tiết “AUM” giữ vai trò quan trọng.<br />
Âm tiết “AUM” (đọc là OM) tiêu biểu cho tam vị nhất thể Brahman: A cho ngôi sáng tạo Brahma,<br />
U cho ngôi bảo vệ Visnu, M cho ngôi hủy diệt Siva. Ba âm tiết này được ngân lên một cách chậm<br />
rãi, khoan thai, đi ra từ lồng ngực, đến cổ họng và cuối cùng tới đỉnh đầu. Mục đích của phương<br />
pháp yoga này là thực hành kinh nghiệm tâm linh về sự kết hợp giữa tiểu ngã và đại ngã. Sự chấn<br />
động của các năng lực cung cấp sự sống cho toàn thể vũ trụ được phát ra từ Brahman nhưng cũng<br />
là sự hội tụ toàn bộ năng lượng của Atman cá nhân. Việc ngân lên các âm tiết ấy sẽ chạm tới toàn<br />
vũ trụ, làm tăng thêm sức mạnh hợp nhất giữa Brahman và Atman trong mỗi con người.<br />
Vì giải thoát được coi là lí tưởng, triết lí sống của người Ấn Độ cổ, cho nên Upanishad nói<br />
riêng, các trường phái triết học - tôn giáo trong hệ thống Bàlamôn nói chung đã đưa ra những chỉ<br />
dẫn cho các tín đồ sống theo bốn giai đoạn (ashrama) để có thể đạt tới sự giải thoát: giai đoạn thứ<br />
nhất (Brahmacharya) là giai đoạn tu luyện, học tập thánh kinh Veda ở tuổi thiếu niên, như những<br />
học trò; giai đoạn thứ hai (Garhastha) là giai đoạn trưởng thành, sống như người chủ gia đình, thực<br />
hiện nghĩa vụ gia đình và nghĩa vụ xã hội, lấy vợ, sinh con, làm ăn để trả nghiệp cho đời, hưởng<br />
thụ tài sản và lạc thú trần gian; giai đoạn thứ ba (Vanaprastha) là giai đoạn vào rừng sâu, sống ẩn<br />
dật tu hành như những đạo sĩ, chuẩn bị cho giai đoạn cuối cùng là xuất thế giải thoát; giai đoạn<br />
thứ tư (Sannyasa) là giai đoạn hoàn toàn đoạn tuyệt với mọi hoạt động thế tục để giác ngộ chân lí,<br />
bằng sự thiền định, chiêm nghiệm nội tâm. Bốn giai đoạn trên của một đời người tương ứng với<br />
bốn mục đích của đời sống từ thấp đến cao, từ thỏa mãn nhu cầu vật chất đến thỏa mãn nhu cầu<br />
tinh thần, từ hưởng thụ tài sản đến lạc thú, cuối cùng là đến sự giác ngộ chân lí và giải thoát.<br />
Khát khao đạt tới chân lí tuyệt đối, hòa nhập vào tự ngã để trở thành bất tử là giấc mơ triết<br />
học của người Ấn. Tuy nhiên, vì chân lí tuyệt đối là bất khả tri nên con người phải hướng nội, đi từ<br />
chỗ làm chủ các giác quan đến chỗ gạt bỏ các giác quan, nhắm mắt lại để thấy cái không thể nhìn<br />
thấy bằng mắt, ngồi yên để làm cái mà tay chân không thể làm được, điều khiển những hoạt động<br />
bên trong con người – cái mà ý thức thông thường không điều khiển được. Đây là phương pháp<br />
thực nghiệm tâm linh của một dạng thức triết học vô ngôn. Chuyện kể rằng, có một môn sinh hỏi<br />
đạo sư Bahva về bản chất của Brahman. Đạo sư ngồi im. Môn sinh hỏi tới lần thứ ba, Bahva mới<br />
<br />
97<br />
Nguyễn Thị Toan<br />
<br />
<br />
nói: “Ta đang giảng cho con nghe bản chất của Brahman mà con không biết đấy thôi. Tự ngã vốn<br />
yên lặng” [5]. Nghiêng về phía suy tư chiêm nghiệm nội tâm, triết học Ấn không phải là triết học<br />
lí luận, phân tích, chứng minh như triết học phương Tây. Im lặng là triết học giải thoát cao nhất<br />
của người Ấn.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Tư tưởng giải thoát trong Upanishad là một sự phản tư về cái ngã trong chiều sâu tâm thức,<br />
về khát vọng thăng hoa con người thành Thượng đế. Từ Veda tới Upanishad, tư duy trừu tượng của<br />
người Ấn đã dần phát triển, vượt lên những đa dạng hữu hình của thế giới hiện tượng để đi tìm một<br />
nguyên lí đồng nhất vô hình – động lực chi phối sự vận hành của thế giới. Từ con đường hướng<br />
ngoại để tìm một thế lực tinh thần điều khiển sự vận hành của vạn vật trong kinh Veda, Upanishad<br />
đã hướng nội để tìm ra chân bản của con người – cái đồng nhất với bản thể vũ trụ, cái bất diệt<br />
trường tồn sau những hủy diệt không cùng của đời sống. Giải thoát chính là đưa linh hồn bất tử<br />
Atman vượt qua thế giới ảo ảnh, bứt phá khỏi vòng nghiệp báo luân hồi để nhập vào bản thể tuyệt<br />
đối Brahman, tự mình hóa thành cùng hiện hữu, mở ra chân trời bát ngát của tự do tinh thần.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Phạm Thế Xuân Cao. Những nội dung triết học cơ bản của Upanishad.<br />
http://phamtanxuancao.wordpress.com.<br />
[2] Doãn Chính, 1991. Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại. Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp.<br />
[3] Doãn Chính, 1997. Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br />
[4] Doãn Chính, 2011. Veda Upanishad – những bộ kinh triết lí tôn giáo cổ Ấn Độ. Nxb Chính trị<br />
Quốc gia Hà Nội.<br />
[5] Nguyễn Đức Đàn, 1998. Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa Ấn Độ. Nxb Văn học.<br />
[6] Nguyễn Tấn Đắc, 2000. Văn hóa Ấn Độ. Nxb TP Hồ Chí Minh.<br />
[7] Nghiêm Xuân Hồng, 1966. Biện chứng giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ. Nxb Quan điểm, Sài<br />
Gòn.<br />
[8] Lê Xuân Khoa, 1964. Nhập môn triết học Ấn Độ. Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục Sài Gòn.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Ideology of Liberation in Upanishad sutra<br />
Upanishad is a sutra marking a turning point in the Indian mindset, in which there is a shift<br />
from the worldview of myth and religion to philosophical thinking in order to explore the path of<br />
wisdom to explain the universe essence as well as the nature of human spiritual life. One of the<br />
key contents of the Upanishads is the ideology of liberation. The paper analyzes this ideology in<br />
Upanishad in terms of three basic contents: 1.Why do we need to liberate; 2. What is liberation; 3.<br />
The path of liberation.<br />
Keywords: Upanishad, Brahman, Atman, moska.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
98<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn