intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng tự do trong tác phẩm bàn về tự do của John Stuart Mill

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

96
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tư tưởng tự do trong tác phẩm “Bàn về tự do” của John Stuart Mill đã góp phần không nhỏ vào những chuyển biến xã hội mang tính dân chủ ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở các nước Tây phương. Bài viết tập trung tìm hiểu tư tưởng tự do cá nhân trong tác phẩm “Bàn về tự do” của John Stuart Mill, qua đó rút ra giá trị của nó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng tự do trong tác phẩm bàn về tự do của John Stuart Mill

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 113 – 120<br /> <br /> TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG TÁC PHẨM BÀN VỀ TỰ DO CỦA JOHN STUART MILL<br /> Võ Văn Dũng1<br /> Trường Đại học Khánh Hòa<br /> <br /> 1<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 24/08/2015<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 10/11/2015<br /> Ngày chấp nhận đăng: 06/2017<br /> Title:<br /> The ideology of liberty in “On<br /> Liberty”of John Stuart Mill<br /> Keywords:<br /> Ideology of liberty,<br /> democracy, justice, civil<br /> society<br /> Từ khóa:<br /> Tư tưởng tự do, dân chủ,<br /> công bằng, xã hội công dân<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The ideology of liberty in "On Liberty" of John Stuart Mill contributed to social<br /> changes in many democratic countries around the world, particularly in<br /> Western countries. The piece of work discussed the importance of human<br /> beings’<br /> liberty to<br /> the<br /> development<br /> of<br /> the<br /> whole<br /> society. It represented the freedom of<br /> thought, of<br /> speech, and of<br /> each<br /> individual in terms of relation to the social freedom, but at least, its equality is<br /> to the<br /> law.<br /> His<br /> thoughts included a<br /> profound<br /> ensured according<br /> insight into humanity that many researchers have beeninterested in and<br /> concerned about. Therefore, if certain limitations in this work were ignored, its<br /> major values could be applied into the course of building today’s civic society.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tư tưởng tự do trong tác phẩm “Bàn về tự do” của John Stuart Mill đã góp<br /> phần không nhỏ vào những chuyển biến xã hội mang tính dân chủ ở nhiều quốc<br /> gia trên thế giới, đặc biệt ở các nước Tây phương. Tác phẩm bàn về tầm quan<br /> trọng của sự tự do của con người đối với sự phát triển của toàn xã hội. Đó là sự<br /> tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do cá nhân được đặt trong mối quan hệ với<br /> tự do xã hội nhưng phải đảm bảo tính công bằng trước pháp luật. Tư tưởng của<br /> ông mang tính nhân văn sâu sắc và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nếu<br /> gạt bỏ đi những hạn chế nhất định thì những hạt nhân hợp lý sẽ mang lại ý<br /> nghĩa lớn cho quá trình xây dựng xã hội công dân hiện nay.<br /> <br /> này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tư tưởng tự do cá<br /> nhân trong tác phẩm Bàn về tự do của John Stuart<br /> Mill; qua đó, rút ra giá trị của nó.<br /> <br /> 1. DẪN NHẬP<br /> John Stuart Mill (1806 - 1873) sinh tại<br /> Pentonville, London, vương quốc Anh. John<br /> Stuart Mill là một trong những nhà tư tưởng bàn<br /> về sự tự do nổi tiếng nhất của thời đại Victoria ở<br /> Anh. Ông còn là nhà chính trị nổi tiếng, đã từng<br /> tham gia vào cuộc đấu tranh cải cách xã hội trong<br /> suốt cuộc đời mình. Mặc dù, John Stuart Mill chịu<br /> ảnh hưởng bởi học thuyết vị lợi, một học thuyết<br /> quan niệm “con người hành động nhằm mang lại<br /> hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất”. J. S.<br /> Mill cũng chủ trương để bảo vệ các quyền của cá<br /> nhân, đặc biệt là của người phụ nữ. Trong bài viết<br /> <br /> 2. NỘI DUNG<br /> 2.1 Khái lược nội dung cơ bản của tác phẩm<br /> Bàn về tự do<br /> Bàn về tự do (On Liberty) được xuất bản vào năm<br /> 1859. Đây chính là một trong những tác phẩm nổi<br /> tiếng nhất và cũng gây ra nhiều tranh cãi nhất của<br /> John Stuart Mill. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã<br /> được độc giả đón nhận hết sức nồng nhiệt. Trong<br /> tác phẩm này, John Stuart Mill đã đưa ra quan<br /> điểm của ông về tự do cá nhân trong mối liên hệ<br /> 113<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 113 – 120<br /> <br /> với các ý tưởng về lịch sử và nhà nước. Ông cho<br /> rằng, tự do phụ thuộc vào ý tưởng rằng xã hội, nó<br /> được phát triển từ thấp đến cao và đạt đến đỉnh<br /> điểm trong một hệ thống dân chủ đại diện. Bàn về<br /> tự do được cho là tác phẩm tập trung được những<br /> lập luận xuất sắc nhất của John Stuart Mill. Phần<br /> lớn nội dung của cuốn sách này được viết ra từ<br /> các cuộc đối thoại giữa John Stuart Mill và vợ<br /> ông. Tác phẩm lên án xã hội vì nhu cầu của bản<br /> thân nó đã điều chỉnh tất cả cho phù hợp với nhu<br /> cầu đó. Tác phẩm nhấn mạnh một nguyên tắc, các<br /> cá nhân có tự do tuyệt đối để làm những gì mà<br /> anh ta muốn, nếu hành động của anh ta không làm<br /> ảnh hưởng đến ai khác, trừ cá nhân anh ta. Với tác<br /> phẩm Bàn về tự do, Mill đã cố gắng kết hợp tầm<br /> quan trọng của cá nhân với ý thức nghĩa vụ xã hội<br /> là đáng trân trọng, nó mang lại cái nhìn tiến bộ<br /> cho tư tưởng thời bấy giờ trong những quan điểm<br /> về tự do. Tác phẩm Bàn về tự do không phải là<br /> một tác phẩm đồ sộ. Toàn bộ tác phẩm chỉ có 5<br /> chương nhưng nó lại là một trong những kiệt tác<br /> xuất sắc nhất của nhân loại lúc bấy giờ.<br /> <br /> đánh cắp đối với loài người, với các thế hệ mai<br /> sau hay hiện nay, thiệt hại nhiều cho người bất<br /> đồng ý kiến đó hơn là cho người giữ ý kiến<br /> đó”(John Stuart Mill, 2006, tr. 52). Ông cho rằng,<br /> tự do ngôn luận sẽ kích thích các cá nhân bày tỏ<br /> quan điểm của mình. Tuy nhiên, không phải bao<br /> giờ những ý kiến trái chiều được đưa ra cũng hoàn<br /> toàn đúng, nhưng cá nhân cần “hoàn tất trách<br /> nhiệm được giao phải hành động dựa theo lương<br /> tâm của họ"(John Stuart Mill, 2006, tr. 55). Mill<br /> nhấn mạnh cách duy nhất mà một người có thể tin<br /> rằng họ là đúng chỉ khi họ phải có tự do hoàn toàn<br /> để nhận thấy các mâu thuẫn và qua đó tự bản thân<br /> họ có thể tự bác bỏ niềm tin cũ của chính mình.<br /> Con người có khả năng sửa chữa những sai lầm<br /> của họ, nhưng phải được thông qua kinh nghiệm<br /> và tranh luận. Cách duy nhất để một người có thể<br /> chắc chắn rằng anh ta đúng, đó là khi anh ta<br /> không ngừng tiếp nhận các ý kiến khác nhau, sẵn<br /> sàng chờ tiếp nhận những ý kiến trái chiều phản<br /> bác lại niềm tin của anh ấy.<br /> John Stuart Mill cho rằng, chính phủ có trách<br /> nhiệm để duy trì niềm tin chắc chắn cho toàn xã<br /> hội vì nó rất quan trọng đối với sự thịnh vượng<br /> chung. Và chỉ có những người “có ý đồ không<br /> tốt” thì mới cố gắng để phá hoại những niềm tin<br /> đó. Do vậy khi chính phủ đưa ra một quan điểm<br /> cần phải được thảo luận, một khi chính phủ không<br /> mang ra thảo luận có nghĩa là họ cảm thấy không<br /> chắc chắn về một vấn đề gì đó. Và như vậy là sự<br /> bóp nghẹt các ý kiến bất đồng khi nó đã được<br /> nhân danh cho xã hội, điều này đã dẫn đến những<br /> sai lầm khủng khiếp trong lịch sử nhân loại. John<br /> Stuart Mill cũng thể hiện rằng, sự thật cần phải<br /> được thử thách và khủng bố, bởi vì sự đàn áp luôn<br /> là điều mà những sự thật phải thường xuyên đối<br /> diện, nếu là chân lý thì nó sẽ tồn tại. Tuy nhiên<br /> Mill cũng nhấn mạnh rằng, sẽ là sai lầm khi luôn<br /> cho rằng "chân lý luôn luôn chiến thắng sự đàn<br /> áp"(John Stuart Mill, 2006, tr. 75) vì nhân loại sẽ<br /> có thể mất hàng thế kỷ cho sự thật được xuất hiện<br /> trở lại sau khi nó đã bị đàn áp. Với John Stuart<br /> Mill, xã hội ngày nay đã không còn đẩy những bất<br /> đồng ý kiến đến mức bị tiêu diệt nữa, không còn<br /> <br /> 2.2 Tư tưởng tự do trong tác phẩm Bàn về tự<br /> do của John Stuart Mill<br /> John Stuart Mill cho rằng tự do tư tưởng và tự do<br /> ngôn luận của con người cần phải được bảo vệ.<br /> Chính vì thế, tác phẩm Bàn về tự do tập trung<br /> nhấn mạnh đến tự do là mối quan hệ của cá nhân<br /> đối với xã hội. Sở dĩ tự do này cần phải được bảo<br /> vệ trước sự can thiệp của xã hội vì nó là điều kiện<br /> cơ bản cho sự tiến bộ xã hội. Mill đề ra “nguyên<br /> tắc tự do” để xác định ranh giới của quyền lực<br /> hợp pháp và hợp lý của xã hội. Theo đó, tự do cá<br /> nhân chỉ được phép bị giới hạn với điều kiện giúp<br /> cho xã hội tự bảo vệ và bảo vệ những người khác.<br /> Quan điểm tự do của Mill được dựa trên lý luận<br /> của chủ nghĩa công lợi, chính vì thế trong ý nghĩa<br /> lớn nhất và lợi ích lâu dài của con người là một<br /> căn cứ của tiến bộ xã hội.<br /> Vấ n đề đầu tiên mà John Stuart Mill đưa ra là liệu<br /> người dân hoặc thông qua chính phủ hoặc tự bản<br /> thân họ có nên ép buộc hoặc hạn chế người khác<br /> hay không. Ông chỉ trích rằng, hành động hạn chế<br /> ý kiến của người khác là bất hợp pháp. Đó là “sự<br /> 114<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 113 – 120<br /> <br /> mạnh sống động của học thuyết”(John Stuart Mill,<br /> 2006, tr. 99). John Stuart Mill cho rằng, Kitô giáo<br /> đã phải đối mặt với một tình huống như vậy, niềm<br /> tin của người dân không được phản ánh trong<br /> hành vi của họ. Kết quả là, người ta không thực sự<br /> hiểu giáo lý mà họ yêu mến và sự hiểu lầm đó đã<br /> dẫn họ đến những sai lầm nghiêm trọng. Mill đưa<br /> ra quan điểm “Lẽ nào việc không có nhất trí lại là<br /> điều kiện không thể thiếu được của tri thức chân<br /> chính hay sao? Liệu có nhất thiết là một bộ phận<br /> nào đó của loài người cứ khăng khăng giữ sai lầm,<br /> để cho mọi người thấu hiểu được chân lý hay<br /> không? v.v.” (John Stuart Mill, 2006, tr. 106). Với<br /> Mill, “khi loài người tốt đẹp hơn thì số học thuyết<br /> mà người ta không còn thảo luận hay nghi ngờ nữa<br /> sẽ luôn tăng lên” (John Stuart Mill, 2006, tr. 107).<br /> Do vậy, việc thu hẹp khoảng cách giữa các mâu<br /> thuẫn là điều bắt buộc và không tránh khỏi. Con<br /> người “không nên quá quan trọng hóa, nhưng cũng<br /> không nên quá coi thường lợi ích của việc thừa<br /> nhận nó (chân lý) một cách phổ quát” (John Stuart<br /> Mill, 2006, tr. 107).<br /> <br /> những sự thật bị dập tắt nữa. Tuy nhiên, không<br /> phải vì thế mà sự đàn áp các ý kiến về mặt pháp lý<br /> cũng được giải phóng. Sự tự do ngôn luận không<br /> chỉ xuất phát từ nhà cầm quyền mà nó còn xuất<br /> phát từ sự thiếu khoan dung của xã hội sẽ khiến<br /> cho mọi người luôn che giấu quan điểm thực sự<br /> của họ, dẫn đến sự bóp nghẹt tri thức và tư duy<br /> độc lập. Sự bóp nghẹt tự do tư tưởng sẽ làm tổn<br /> thương đến sự thật, cho dù trên thực tế thì một tư<br /> duy tự do vẫn có thể dẫn đến những kết luận sai<br /> lầm.<br /> John Stuart Mill lập luận rằng, các ý kiến bất đồng<br /> đều có thể là chân lý vì chúng có thể làm xuất<br /> hiện một số điểm quan trọng. Tuy nhiên, Mill<br /> không phải là người theo thuyết tương đối, ông<br /> cho rằng, mỗi một ý tưởng bất kỳ nào đó đều có<br /> thể là đúng, khi mà con người biết rằng sự thật<br /> luôn mang lại những lợi ích cho sự tiến bộ của xã<br /> hội. Các niềm tin phổ biến hiện nay đã trải qua<br /> một quá trình phát triển hết sức lâu dài và sẽ còn<br /> rất lâu để đạt đến trạng thái hoàn hảo của nó,<br /> chính vì thế bất kỳ quan điểm giáo điều nào cũng<br /> đều có thể sai lầm. Ông lập luận rằng, ngay cả khi<br /> các ý kiến được đông đảo công chúng thừa nhận<br /> là đúng sự thật, thì nó vẫn cần phải có sự tranh<br /> luận, nếu không nó sẽ trở thành "giáo điều đã<br /> chết" (John Stuart Mill, 2006, tr. 89). Và “cho dù<br /> ý kiến ấy có đúng đến đâu đi nữa, nếu nó không<br /> được thảo luận thoải mái, thường xuyên và đầy<br /> đủ, nó sẽ bị coi là một giáo điều đã chết chứ<br /> không phải là một chân lý sống động” (John<br /> Stuart Mill, 2006, tr. 89). Nếu sự thật được nắm<br /> giữ như là một thành kiến, thì mọi người sẽ không<br /> hiểu đầy đủ về nó, khi không hiểu thì làm sao họ<br /> có thể bác bỏ nó.<br /> <br /> Để bảo vệ cho quyền tự do tư tưởng, John Stuart<br /> Mill khẳng định, trong trường hợp các học thuyết<br /> xung đột, thay vì bài trừ nhau lại chính là khả<br /> năng các học thuyết “chia sẻ chân lý với nhau”<br /> (John Stuart Mill, 2006, tr. 101). Chân lý mới sẽ<br /> phù hợp hơn với nhu cầu của xã hội và sự bất<br /> đồng chính kiến thường phản ánh những phần của<br /> sự thật không được công nhận trong quan điểm<br /> phổ biến, điều đó mang lại những giá trị đáng kể.<br /> Do vậy, các ý kiến phổ biến phải “chú ý đến<br /> chứng cứ” (John Stuart Mill, 2006, tr. 112) mà họ<br /> đưa ra. Vấn đề này chúng ta có thể thấy trong<br /> chính trị, khi mà các ý kiến khác nhau của cả hai<br /> bên đều tỏ ra hợp lý. Trong những câu hỏi mở bất<br /> kỳ, phía nào có ý kiến kém phổ biến hơn vào thời<br /> điểm đó lại cần nhận được nhiều sự khuyến khích<br /> hơn. Bởi vì phía này đang phản ánh những mối<br /> quan tâm đang bị cộng đồng xem nhẹ. John Stuart<br /> Mill đã lập luận điều đó dựa trên nguyên tắc của<br /> Kitô giáo. Mill trả lời “tôi không ngại ngùng nói<br /> rằng, về nhiều điểm quan trọng trong học thuyết<br /> <br /> John Stuart Mill chỉ ra rằng, khi mà ý kiến thật sự<br /> không được thảo luận thì ý nghĩa của chính ý kiến<br /> đó có thể bị mất đi. Nó cũng giống như trong đạo<br /> đức, tín ngưỡng và tôn giáo, khi “Họ chẳng buồn<br /> lắng nghe các luận cứ chống lại tín ngưỡng của họ<br /> khi họ có thể bác lại, cũng chẳng buồn gây sự với<br /> những kẻ bất đồng (nếu có) bằng các luận cứ bênh<br /> vực tín ngưỡng. Thường có thể ghi mốc thời gian<br /> kể từ lúc đó bắt đầu thời kỳ suy thoái đối với sức<br /> 115<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 113 – 120<br /> <br /> ấy là không đầy đủ và mang tính một chiều” (John<br /> Stuart Mill, 2006, tr. 118).<br /> <br /> nhóm thiểu số về mặt chính trị lẫn xã hội. Ông đã<br /> sử dụng lợi ích chung cho toàn xã hội như là cơ sở<br /> của sự biện minh của ông về tự do. Sau khi giải<br /> quyết vấn đề quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn<br /> luận, John Stuart Mill đã đi đến giải quyết quyền<br /> tự do con người cá nhân.<br /> <br /> John Stuart Mill cho rằng, trong tự do thảo luận<br /> phải có sự công bằng và điều đó chỉ đạt được khi<br /> những người bất đồng chính kiến đạt được những<br /> tiêu chuẩn cao về đạo đức trong thảo luận “Vì lợi<br /> ích của chân lý và sự công bằng thì điều quan<br /> trọng hơn là phải kiềm chế việc sử dụng ngôn ngữ<br /> thóa mạ hơn là các ngôn ngữ khác” (John Stuart<br /> Mill, 2006, tr. 128). Ông cho rằng, đạo đức trong<br /> tranh luận không phải là pháp luật, do đó, dư luận<br /> phải nhìn vào trường hợp cá nhân và giữ hai bên<br /> để họ đảm bảo cùng một tiêu chuẩn. “Cần phải lên<br /> án bất cứ ai, bất kể anh ta đứng về phía nào, bất<br /> kể tranh biện kiểu nào mà hoặc là thiếu trung<br /> thực, hoặc là thâm hiểm, cuồng tín, hoặc là không<br /> khoan dung trong biểu hiện cảm xúc,…; và cần<br /> phải tôn vinh bất cứ ai,…, nếu người đó có thái độ<br /> xem xét điềm tĩnh và trung thực”. John Stuart<br /> Mill gọi đó là “đạo đức thực tế của việc tranh luận<br /> công khai” (John Stuart Mill, 2006, tr. 129).<br /> <br /> Tư tưởng tự do của con người cá nhân trong tác<br /> phẩm Bàn về tự do của John Stuart Mill: với câu<br /> hỏi liệu người dân có nên được phép hành động<br /> theo ý kiến của mình mà không phải đối mặt với<br /> sự trừng phạt của pháp luật hoặc sự kỳ thị xã hội<br /> hay không? Mill cho rằng, “Bất cứ hành vi nào<br /> không có nguyên nhân chính đáng mà gây tổn hại<br /> cho người khác thì có thể, và trong những trường<br /> hợp nghiêm trọng hơn thì tuyệt đối cần phải bị<br /> kiểm soát bởi dư luận không đồng tình, nếu cần<br /> thì phải bị mọi người can thiệp tích cực để kiểm<br /> soát. Như vậy, quyền tự do cá nhân phải bị giới<br /> hạn nhiều; anh ta không được phép làm cho mình<br /> trở thành người gây phiền nhiễu cho người khác”<br /> (John Stuart Mill, 2006, tr. 132). Tuy nhiên, nếu<br /> chúng ta tôn trọng những ý kiến khác nhau thì sự<br /> tôn trọng đó cũng trở nên hữu ích “Bởi vì loài<br /> người là không hoàn hảo cho nên có nhiều ý kiến<br /> khác nhau là điều hữu ích…, phải có nhiều thí<br /> nghiệm khác nhau về cách sống; lĩnh vực tự do<br /> này phải được dành cho các cá tính khác nhau mà<br /> không gây tổn hại người khác” (John Stuart Mill,<br /> 2006, tr. 133). Do vậy, các biểu hiện khác nhau<br /> của cá tính là điều cần thiết cho sự tiến bộ của cá<br /> nhân và xã hội. John Stuart Mill nhận thấy đa số<br /> mọi người cho rằng, tính cách tự nó phải điều<br /> chỉnh để làm sao phù hợp cho tất cả mọi người.<br /> Nhưng Mill lập luận rằng, trong khi mọi người<br /> cần được đào tạo như những đứa trẻ khi tích lũy<br /> kiến thức kinh nghiệm của nhân loại, thì họ cũng<br /> đồng thời cần phải có sự tự do như người trưởng<br /> thành để giải thích những kinh nghiệm cho phù<br /> hợp với nhu cầu của riêng họ. "Một người không<br /> có ham muốn và xung động của riêng mình thì<br /> không có cá tính, không hơn gì chuyện một cái<br /> máy hơi nước có cá tính" (John Stuart Mill, 2006,<br /> tr. 141). John Stuart Mill khẳng định “cần phải<br /> chứng tỏ thêm rằng, những con người được phát<br /> <br /> John Stuart Mill cho rằng, tự do tư tưởng là điều<br /> kiện tiên quyết nhưng không đủ. Và tự do tư<br /> tưởng chỉ thể hiện đầy đủ khi tự do được bộc lộ và<br /> diễn đạt ra bên ngoài, tức phải có tự do ngôn luận.<br /> Ông xem tự do ngôn luận là vũ khí tự vệ hiệu quả<br /> chống lại sự độc đoán của “công luận” do nhà<br /> nước hay một nhóm xã hội đề ra. Sự tự do không<br /> chỉ giới hạn ở tự do tư tưởng mà còn phải có sự tự<br /> do thân thể. Nó được thể hiện trong môi trường xã<br /> hội và tự nhiên, thể hiện trong lối sống của mỗi<br /> người, tự do ấy không chỉ hướng đến cá nhân mà<br /> gắn liền với toàn xã hội. John Stuart Mill chủ<br /> trương tự do lập hội và kết đoàn – không chỉ cho<br /> tầng lớp trung lưu tư sản mà cả cho nhân dân lao<br /> động. John Stuart Mill tỏ ra e ngại trước “sự độc<br /> tài của đa số” ngày càng đe doạ tự do xã hội và<br /> chính trị của cá nhân xuất phát từ các yếu tố và<br /> nhận định như: “trong thời đại chúng ta, từ giai cấp<br /> cao nhất cho đến thấp nhất của xã hội, ai ai cũng<br /> phải sống dưới con mắt của một sự kiểm duyệt thù<br /> địch và đáng sợ”. Mill là một trong số rất ít các nhà<br /> tư tưởng sớm nhìn ra mặt trái và nhược điểm của<br /> thể chế dân chủ thường có xu hướng đè nén các<br /> 116<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 113 – 120<br /> <br /> triển ấy đem lại lợi ích nào đó cho những người<br /> chưa phát triển – chứng tỏ cho những người còn<br /> chưa mong muốn có tự do hay chưa có thể có<br /> được nó thấy rằng, họ có thể được đền đáp vì đã<br /> cho phép người khác được sử dụng tự do không<br /> giấu giếm” (John Stuart Mill, 2006, tr. 149). Tuy<br /> nhiên, John Stuart Mill cũng cho rằng, “những cá<br /> nhân thiên tài là một thiểu số nhỏ bé và chuyện<br /> này có lẽ bao giờ cũng vậy; nhưng để có được họ<br /> thì phải chăm lo đất trồng để các thiên tài từ đất<br /> ấy lớn lên tươi tốt. Thiên tài chỉ có thể tự do hít<br /> thở trong một bầu không khí của tự do. Các cá<br /> nhân thiên tài theo định nghĩa (exvitermini) là<br /> những người có cá tính nhiều hơn người khác – vì<br /> thế mà họ khó có khả năng hòa hợp bản thân mình<br /> một cách êm xuôi với một số ít khuôn mẫu mà xã<br /> hội cung cấp nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các<br /> thành viên hình thành tính cách riêng của mình”<br /> (John Stuart Mill, 2006, tr. 151). Nếu như những<br /> người thiếu cá tính thì có xu hướng không nhìn<br /> thấy giá trị của sự độc đáo, họ thường xa lánh và<br /> hắt hủi các thiên tài thì Mill lại cho rằng, tất cả<br /> mọi người nên trân trọng những gì mà sự độc đáo<br /> mang đến cho thế giới. John Stuart Mill cho rằng,<br /> không có một mẫu hình lý tưởng và hoàn hảo tốt<br /> nhất dành cho cuộc sống. Một người được phát<br /> triển đầy đủ, thì họ có quyền lựa chọn cuộc sống<br /> tốt nhất theo cách của riêng họ, vì chỉ có bản thân<br /> họ mới biết chính xác những điều tốt nhất dành cho<br /> chính mình.<br /> <br /> bộ và sự phát triển đa diện. Tuy nhiên, nó đã bắt<br /> đầu sở hữu tính ưu việt ấy ở mức độ kém hơn khá<br /> nhiều. Nó đang vững chắc tiến bước tới “lý tưởng<br /> Trung Hoa” làm cho mọi người đều giống nhau”<br /> (John Stuart Mill, 2006, tr. 166- 167) và sự cào<br /> bằng ấy là nguyên nhân của sự trì trệ.<br /> Trong quan điểm về tiến bộ xã hội, John Stuart<br /> Mill tin rằng phải thông qua một sự phát triển tự<br /> do và năng động của cá nhân đặt trong sự tương<br /> tác với những người có nhiều cá tính khác nhau sẽ<br /> khiến cho mỗi cá nhân hoàn thiện bản thân mình,<br /> cũng tương tự, thông qua những bất đồng quan<br /> điểm và thảo luận sẽ cho phép chân lý luôn tồn tại<br /> sống động trong lòng xã hội. Trong khi đó, theo<br /> chiều ngược sự tuân thủ sẽ chỉ dẫn đến tình trạng<br /> trì trệ xã hội. Mill đã chỉ ra mối quan hệ giữa sự<br /> tự do của con người và xã hội là một mối liên mật<br /> thiết, đa dạng và liên tục điều chỉnh để có một sự<br /> cân bằng tinh tế.<br /> Tư tưởng về mối quan hệ giữa quyền uy xã hội với<br /> tự do cá nhân: từ việc xác lập quyền tự do cá<br /> nhân, Mill đã đi đến việc việc xác lập mối liên hệ<br /> giữa chúng với xã hội. Nó được bắt đầu từ việc<br /> giải quyết ba câu hỏi: “Vậy thì giới hạn đúng đắn<br /> cho chủ quyền của cá nhân đối với bản thân mình<br /> là gì? Quyền uy của xã hội bắt đầu từ chỗ nào?<br /> Đời sống con người phải dành bao nhiêu cho cá<br /> nhân và bao nhiêu cho xã hội?” (John Stuart Mill,<br /> 2006, tr. 171). Lời giải đáp của John Stuart Mill là<br /> “Mỗi phía đều nhận được phần chia thích đáng,<br /> nếu mỗi phía có được thứ liên can tới nó nhiều<br /> nhất. Thuộc về cá nhân phải là cái phần đời sống<br /> mà cá nhân quan tâm chủ yếu nhất; thuộc về xã<br /> hội là cái phần mà xã hội quan tâm chủ yếu nhất”<br /> (John Stuart Mill, 2006, tr. 171). Mill cho rằng, kể<br /> từ khi người dân nhận được sự bảo vệ của xã hội,<br /> thì họ cũng phải tuân theo các hành vi như: cá<br /> nhân không được làm tổn thương những lợi ích<br /> của những người khác; cá nhân phải chia sẻ gánh<br /> nặng bảo vệ xã hội và các thành viên của mình<br /> khỏi bị tổn thương; các cá nhân có thể bị chỉ trích<br /> bởi dư luận khi họ làm tổn hại người khác. Như<br /> vậy, xã hội có thẩm quyền đối với bất kỳ khía<br /> cạnh nào của hành vi con người khi mà "cư xử<br /> <br /> Sự tự do cá nhân là rất cần thiết cho sự tiến bộ của<br /> cá nhân và xã hội, sự cưỡng bức và chuyên chế sẽ<br /> làm cho mọi người không thể học hỏi được gì từ<br /> những người khác. Mill cho rằng, “tính chuyên<br /> chế của tập quán ở mọi nơi là chướng ngại thường<br /> trực cản trở con người tiến lên phía trước, luôn<br /> không ngừng đối kháng với xu thế hướng tới cái<br /> gì tốt đẹp hơn thói thường, cái xu thế mà tuỳ theo<br /> tình hình vẫn được gọi là tinh thần tự do, tinh thần<br /> tiến bộ hay tinh thần cầu tiến” (John Stuart Mill,<br /> 2006, tr. 162). Tính đa dạng về lối sống của Châu<br /> Âu đã làm cho xã hội có những bước phát triển,<br /> “theo suy xét của tôi thì châu Âu phải chiụ ơn tính<br /> đa dạng ấy của các nẻo đường để có được sự tiến<br /> 117<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0