CHƯƠNG III<br />
<br />
KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT sô Nưíc<br />
ÌrỂ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI<br />
<br />
I. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI ở VIỆT NAM<br />
TRONG LỊCH<br />
<br />
sử<br />
<br />
Vấn đề nhận biết nhân tài không phải gần đây mối<br />
có, mà nó đã tồn tại cách đây khoảng 2.500 năm. Lúc<br />
bấy giò, bằng sự quan sát trong thực tế và kinh nghiệm<br />
của cuộc sốhg, ngưòi xưa đã rút ra những điều cần thiết<br />
để nhận biết nhân tài. Trong Kinh thi của Trung Quốc,<br />
ngưòi xưa đã trình bày dáng vẻ, cử chỉ và ngôn ngữ của<br />
những người có tài năng xuất chúng và giữ những địa vị<br />
cao trong xã hội. Vào thời đó, cách nhận biết nhân tài<br />
còn rất sđ lược, người ta thường thông qua những đặc<br />
trưng về đưòng nét, hình dáng bên ngoài, khí sắc của<br />
những giác quan để phán đoán tính cách, tài năng của<br />
con ngưòi. Các nhà nhân tướng học đã biết dưa vào<br />
những đặc điểm được biểu hiện ra ngoài để phán đoán<br />
về tưdng lai, về sự phú quý, sang hèn, về phúc - lộc thọ, hay đoán trưóc những điều tốt, xấu trong cuộc đời<br />
142<br />
<br />
của mỗi con người. Các nhà nhân tướng học thông qua<br />
tướng số mỗi cá nhân, phán đoán những chi tiết liên<br />
quan đến những ngưòi khác có quan hệ huyết thống<br />
hay hôn nhân vối ngưồi đó; cha mẹ, vỢ hay chồng, anh<br />
em, con cái, thậm chí cả trong dòng họ^ Trải qua một<br />
thời gian dài, khi đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm,<br />
người ta hình thành nên một ngành khoa học gọi là<br />
khoa học Nhân dạng. Trong những tài liệu viết về nhân<br />
dạng, ngưòi xưa đã trình bày cách nhận biết con ngưòi<br />
bằng cách xem Tử vi, Hà đồ, Tử bình, Elinh dịch, Thái<br />
ất thần kinh... Mỗi cách xem xét, phán đoán về con<br />
ngưòi có những điểm khác nhau, nhưng cuối cùng cũng<br />
đi đến đoán định sô' phận, tương lai của một con ngưòi.<br />
Trong số những ngưòi có tài đoán định, thì xuất hiện<br />
ngưòi có khả năng đặc biệt có thể đoán định “thế cuộc,<br />
thiên cớ, quốc vận”.<br />
Khoa học nhân dạng có thể nghiên cứu về mối quan<br />
hệ giữa nội tâm với ngoại hình của con ngưòi, tiên đoán<br />
vận mạng, đôi khi còn khẳng định được cả sự thành bại,<br />
thịnh suy, xét cả quá khứ lẫn tương lai của một con<br />
ngưòi cụ thể nào đó (tuy nhiên mức độ đúng, sai cũng<br />
tùy thuộc vào tài năng của ngưòi đoán định và tùy từng<br />
trường hợp cụ thể). Theo cách đoán định dựa trên kinh<br />
nghiệm, tuy đạt một sô" kết quả nhất định, nhưng nó<br />
cũng chỉ mang nặng tư duy cảm tính, tùy thuộc vào<br />
1. Nhiều khi xem tử vi của vỢ mà phán đoán được về ngưòi<br />
chồng và ngược lại.<br />
<br />
143<br />
<br />
kinh nghiệm của từng cá nhân chứ chưa thực sự mang<br />
đầy đủ tính khoa học. Càng về sau, do con người đúc rút<br />
được nhiều kinh nghiệm và phân tích cụ thể từng trưòng<br />
hợp thông qua nhiều cách phán đoán dựa vào những<br />
luận thuyết khác nhau nên việc phát hiện nhân tài ngày<br />
càng mang tính khoa học hớn, trên cđ sỏ đó xác định<br />
những tiêu chí về nhân tài. Phần lý luận để phán đoán<br />
về số phận của một con ngưòi ngày càng được hoàn thiện<br />
thông qua việc xem xét các tố chất, đặc điểm, tính cách<br />
của con người một cách hỢp lý và được viết lại thành<br />
những trường phái khác nhau để lưu truyền từ đời này<br />
qua đòi khác. Tuy nhiên, cho dù lý giải hoặc đoán định<br />
như thế nào đi chăng nữa cũng phải thừa nhận rằng,<br />
một ngưòi có tài thì phải được phát hiện bỏi nhiều ngưòi<br />
khác, chứ bản thân mỗi người không thể tự nhận về tài<br />
năng của mình được. Bởi vì, tâm lý chung thì ai cũng có<br />
thể nghĩ rằng mình có tài ở mặt này hay mặt khác, có<br />
khi cho mình là nhân tài, nhưng trong thực tế thì cái mà<br />
bản thân mình nghĩ chưa chắc đã đưỢc người khác chấp<br />
nhận, mà tài năng phải đưỢc xã hội công nhận thông qua<br />
sự công hiến cho xã hội của con ngưòi.<br />
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, người ta<br />
không chỉ phát hiện nhân tài thông qua việc phán xét về<br />
nhân dạng, mà còn phát hiện nhân tài thông qua việc<br />
trình bày thư pháp (thư), văn lý (biện) và cách thức nói<br />
năng (ngôn) của con người. Ba yếu tố này đều thuộc<br />
phạm vi ngữ văn, phản ánh phẩm chất của con ngưòi.<br />
ĐỐì vói nhân tài, ngoài việc giỏi về chuyên môn, thì trình<br />
144<br />
<br />
độ ngữ văn cũng phải giỏi. Người giỏi phải có tư duy tốt,<br />
phải thể hiện tư duy đó bằng lòi nói để ngưòi khác hiểu<br />
và từ đó, họ có thể thực hiện ý đồ thuyết trình, nhưng<br />
cao hơn nữa là phải lưu truyền được ý tưỏng của mình<br />
cho hậu thế. Họ phải có khả năng thể hiện ý tưỏng của<br />
mình thông qua văn bản, tức là có khả năng viết. Với sản<br />
phẩm là văn bản thì nhân tài không những phổ biến ý<br />
tưởng của mình cho nhiều ngưòi biết mà còn lưu truyền<br />
tư tưởng, kinh nghiệm của mình cho đòi sau.<br />
Khi xã hội ngày càng phát triển, ngưòi ta không chỉ<br />
phát hiện nhân tài theo kinh nghiệm, đoán định tài<br />
năng của con ngưồi thông qua những biểu hiện bên<br />
ngoài mà còn tổ chức những khoa thi để chọn ngưòi<br />
giỏi. Trong một số triều đại phong kiến, người xưa rất<br />
chú ý chọn những người chính trực có khả năng và bản<br />
lĩnh dám can gián vua; chọn ngưòi hiểu rộng văn<br />
chương, điển phạm, đạt tới mức giáo hoá để biên soạn<br />
và sáng tác thư pháp; chọn người mưu lược quân sự giỏi<br />
để có thể làm tưóng; chọn người hiểu rõ thuật làm<br />
chính sự, có thể trị dân để trở thành những người lãnh<br />
đạo quản lý xã hội. Tất cả những kỳ thi để lựa chọn<br />
những ngưòi tài giỏi đều tổ chức thông qua các kỳ thi từ<br />
huyện, tỉnh và cao nhất là tại triều đình, do nhà vua<br />
đích thân ra đề và chấm thi. Thông qua những cuộc thi<br />
văn chương, kê sách hay võ nghệ, triều đình chọn người<br />
giỏi phò vua giúp nước. Đôl tượng dự thi trong các cuộc<br />
chọn lựa nhân tài rấ t rộng rãi, tấ t cả những ngưòi có<br />
khả năng đều được tham dự cuộc thi, không phân biệt<br />
145<br />
<br />
tuối tác hay địa vị xã hội, không phân biệt sang hèn,<br />
không phân biệt tôn giáo, không phân biệt già trẻ, cứ có<br />
tài là đưỢc thi tài. Không những thế, với những ngưòi có<br />
tài, trưóc khi thi có thể tuyên truyền các tác phẩm về<br />
thành tích của mình để gây sự chú ý và hiểu biết thêm<br />
về mình đối với các quan giám khảo.<br />
Trong quá trình tuyển chọn nhân tài, người xưa có<br />
rất nhiều cách để ngăn chặn thói gian dối trong thi cử,<br />
nhằm tìm được những nhân tài đích thực và thi đỗ để bổ<br />
nhiệm làm quan^ Những ai vi phạm trưòng thi (quy chế<br />
thi) bị phạt rất nặng, bị cấm thi (hoặc cấm coi thi đốỉ vói<br />
ngưòi coi thi), bị cách chức, bị lưu đày, có khi còn bị khép<br />
vào tội chết. Các triều đại phong kiến quy định rất<br />
nghiêm ngặt về những tội của trường thi: người mắc tội<br />
nhận hỐì lộ để làm sai lệch kết quả thì phải chịu tội đi<br />
đày; tội chấm đồ cho con của quan trên không đúng trình<br />
độ, hay tội chữa lại bài thi của thí sinh khi chấm thi,<br />
nặng thì xử tội chết (thắt cổ), nhẹ thì bị bãi chức, lưu<br />
đày, người thi thì bị đánh trượt; tội hai bài thi có nội<br />
dung giốhg nhau thì cả hai đều trượt, ngưòi coi thi bị<br />
phạt; tội làm náo loạn trưòng thi tùy theo nặng, nhẹ<br />
cũng phải chịu phạt; tội đem tài liệu vào phòng thi bị<br />
phạt đánh, bắt trượt và cấm suốt đòi không được thi.<br />
Về nghiên cứu nhân tướng học, ngay từ xa xưa,<br />
nhiều ngưòi đã rất quan tâm và coi đó là một khoa học<br />
1. Xem Nguyễn Ván Thịnh: Khoa cử văn chương khoa cử Việt<br />
N am thời trung đại, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 18-23.<br />
<br />
146<br />
<br />