intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài (1962-2018)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài (1962-2018)" ghi lại những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã đạt được kể từ khi đất nước ta giành được độc lập, đặc biệt là từ năm 1962 - khi xã Ngàm Đăng Vài được thành lập đến năm 2018. Đây là một tài liệu quý, góp phần tích cực cho công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trên địa bàn xã.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài (1962-2018)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ NGÀM ĐĂNG VÀI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ NGÀM ĐĂNG VÀI GIAI ĐOẠN 1962 - 2018 Xuất bản năm 2019 1
  2. Lời giới thiệu Ngàm Đăng Vài là xã thuộc khu vực nội huyện Hoàng Su Phì nằm cách trung tâm huyện lỵ 11 km về phía đông nam. Là địa bàn sinh sống lâu đời của các hộ gia đình dân tộc Tày, Nùng, Mông. Trải qua quá trình lịch sử hàng ngàn năm sinh sống, lao động, sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cộng đồng các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã hình thành và tạo dựng lên nét văn hóa phong phú, đặc sắc, hun đúc nên truyền thống cách mạng, dũng cảm, kiên cường, thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước. Sau khi đất nước ta giành được độc lập, nhất là từ khi xã Ngàm Đăng Vài được thành lập cùng với sự ra đời của Chi bộ Đảng xã, dưới sự lãnh đạo của các cấp Ủy Đảng, chính quyền, nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực tự cường, tích cực lao động sản xuất, huy động sức người, sức của để chi viện cho các chiến trường, góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cán bộ và nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài luôn năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập, công tác, xây dựng xã vững mạnh về kinh tế, văn hóa giáo dục, củng cố và giữ vững an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, từng bước tạo dựng và làm thay đổi bộ mặt nông thôn của xã Ngàm Đăng Vài như ngày nay. Nhằm tìm hiểu, khai thác và phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng để tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ trong xã hiểu được sự hy sinh cao cả của các thế hệ cha, anh đã cống hiến sức người, sức của để bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Ngàm Đăng Vài đã chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài (1962 - 2018)". Nội dung cuốn sách ghi lại những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã đạt được kể từ khi đất nước ta giành được độc lập, đặc biệt là từ năm 1962 - khi xã Ngàm Đăng Vài được thành lập đến năm 2018. Đây là một tài liệu quý, góp phần tích cực cho công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trên địa bàn xã. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, góp phần xây dựng quê hương ngày càng phát triển. 2
  3. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Ngàm Đăng Vài đã nhận được sự giúp đỡ của Ban Tuyên giáo huyện ủy Hoàng Su Phì, Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, lãnh đạo các phòng, ban chuyên môn của huyện Hoàng Su Phì và các nhân chứng lịch sử, các đồng chí cán bộ, lãnh đạo của huyện Hoàng Su Phì và xã Ngàm Đăng Vài qua các thời kỳ. Ban Thường vụ Đảng ủy xã xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù bộ phận nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng trong công tác sưu tầm tư liệu còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều nguyên nhân nên bị thất lạc nhiều và phần lớn các nhân chứng lịch sử hoặc đã qua đời, hoặc còn sống nhưng đã quá già yếu, trí nhớ có phần suy giảm... Vì vậy, nội dung cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy xã rất mong nhận được sự đóng góp của đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên địa bàn xã để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản. Trân trọng giới thiệu cuốn sách: Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài giai đoạn 1962 - 2018 đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài cùng bạn đọc! T/M BAN THƢỜNG VỤ ĐẢNG ỦY XÃ BÍ THƢ Vƣơng Đào Tóng 3
  4. Chƣơng I KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƢỜI XÃ NGÀM ĐĂNG VÀI 1. Điều kiện tự nhiên. Xã Ngàm Đăng Vài là xã phía nam của huyện Hoàng Su Phì, cách trung tâm huyện lỵ 11 km về phía đông nam, phía Đông giáp xã Bản Nhùng, phía tây giáp xã Bản Luốc, phía nam giáp xã Nậm Dịch, phía bắc giáp xã Tân Tiến. Xã Ngàm Đăng Vài nằm song song với tuyến tỉnh lộ 177 Bắc Quang - Xín Mần nên đây là một trong những điều kiện tương đối thuận lợi trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội của xã Ngàm Đăng Vài. Độ cao trung bình so với mặt biển là 900 m, trong đó có hai ngọn núi cao nhất thuộc khu vực thôn Cao Sán có độ cao trên 1.500 m. Xã Ngàm Đăng Vài có tổng diện tích tự nhiên là 1.162,8 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 281,38 ha, đất lâm nghiệp 456,32 ha, đất trồng lúa 95 ha, đất phi nông nghiệp 75,63, đất chưa sử dụng 349,44 ha. Toàn xã được chia thành 8 thôn bản, nằm cách xA nhất so với trung tâm xã là thôn Ngàm Đăng Vài 1 với cự ly 5 km. Các thôn bản của xã Ngàm Đăng Vài hầu hết đều có những thửa ruộng bậc thang màu mỡ xen lẫn những cánh rừng và khe suối nên có nguồn nước tưới tương đối dồi dào, được người dân canh tác tôn tạo hàng năm và không ngừng mở rộng về diện tích. Một số diện tích đất nương được người dân canh tác các loại cây hoa màu như đậu tương, dong giềng cho năng suất cao nên đây là nguồn sống chính của cộng đồng nhân dân các dân tộc trong xã. Xã Ngàm Đăng Vài nằm trên khối núi phía tây nam của dãy Tây Côn Lĩnh nên có địa hình phức tạp, độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh bởi nhiều khe suối đầu nguồn Sông Chảy. Về khí hậu, xã Ngàm Đăng Vài thuộc khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa và được chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, lượng mưa bình quân từ 1000 - 1.500 mm. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Hàng năm vào mùa mưa thường gây sạt lở, sói mòn, làm ách tắc giao thông, nhất là ở thôn Nậm Cồm, Ngàm Đăng Vài 2 gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Đặc điểm về khí hậu và thổ nhưỡng của xã Ngàm Đăng Vài rất phù hợp với một số cây trồng như cây lúa nước, đậu tương, cây lấy gỗ và các loại cây ăn quả như lê, đào, mận, ngoài ra còn có sản phẩm mật ong của xã cũng được người tiêu dùng ưa chuộng. 4
  5. Xã Ngàm Đăng Vài nằm trên khu vực phòng hộ đầu nguồn sông Chảy nên có diện tích rừng khá lớn với hệ động, thực vật phong phú và đa dạng về chủng loại và là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất, lao động và sinh hoạt của người dân trên địa bàn. Đặc biệt là tại các khu vực núi cao thuộc các thôn Cao Sán, Thiêng Khum Thượng trước đây có rất nhiều các loại cây lấy gỗ quý hiếm như dổi, lim xẹt, pơ mu và các dược liệu như thảo quả, sa nhân, hà thủ ô, tam thất rừng... Song do tập quán du canh, phát nương, làm rẫy từ lâu đời và do ý thức bảo vệ và phát triển rừng chưa cao, tình trạng khai thác gỗ và săn bắt động vật bừa bãi xảy ra trong một thời gian dài đã làm cho vốn rừng, quỹ động, thực vật ngày càng cạn kiệt, nhiều loài gỗ quý, động vật quý hiếm không còn trên địa bàn xã. Những năm gần đây Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đã triển khai nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về phát triển rừng, hỗ trợ nhân dân trong xã trong việc trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng thực hiện giao đất, giao rừng đến hộ gia đình nên diện tích rừng của xã ngày một được mở rộng, nâng độ che phủ của rừng của xã lên 41% vào năm 2018. Trước năm 2000, hệ thống giao thông đường bộ của xã chưa phát triển, việc đi lại trên địa bàn xã rất khó khăn, ngoài tuyến tỉnh lộ 177 chạy qua phần rìa ngoài địa phận các thôn Ngàm Đăng Vài 1, Nậm Cồm thì toàn bộ các tuyến đường trong xã đều là các tuyến đường mòn dân sinh ngựa thồ. Đến nay xã đã có tuyến đường ô tô được đổ bê tông từ km 55 thuộc tỉnh lộ 177 đến trung tâm xã, các tuyến đường nối liền từ trung tâm xã tới các thôn bản đã được mở rộng đảm bảo thông suốt qua các mùa, trong đó tuyến đường đến thôn Nậm Cồm, Nậm Ằn, Ngàm Đăng Vài 1 đã được bê tông hóa. Đây là điều kiện thuận lợi cho các phương tiện ô tô, xe máy và người dân vận chuyển, lưu thông hàng hoá, phát triển kinh tế, đi lại dễ dàng tới trung tâm xã, các thôn bản và kết nối với trung tâm huyện Hoàng Su Phì. Mặc dù còn một số khó khăn nhất định nhưng có thể khẳng định, điều kiện tự nhiên của xã Ngàm Đăng Vài tương đối thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của nhân dân. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội và nhân văn của xã Ngàm Đăng Vài. Ngàm Đăng Vài theo tên gọi người dân địa phương là “yên Mũi Trâu” do khu vực rông núi thuộc địa phận thôn Ngàm Đăng Vài có hình dáng giống như chiếc mũi con trâu và được người dân địa phương đặt tên cho vùng đất này từ rất lâu. Trong chặng đường dài lịch sử của thời dựng nước, Ngàm Đăng Vài là một phần nhỏ của Châu Bình Nguyên do thổ tù địa phương họ Hoàng là Hoàng Văn Kỳ và Hoàng Văn Đồng (Tức Hoàng Vần Thùng) truyền đời cai quản. Dưới thời pháp thuộc, xã Ngàm Đăng Vài là một bộ phận của xã Tụ Nhân thuộc châu Hoàng Thụ Bì của tỉnh Tuyên Quang. Sau khi giành được độc lập, tháng 5
  6. 11/1945, một phần đất của xã Tụ Nhân (trong đó có các thôn bản của xã Ngàm Đăng Vài) được tách ra để thành lập xã Tân Tiến. Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 211-CP về chia tách và sáp nhập các đơn vị hành chính thuộc tỉnh Hà Giang, theo đó thôn Ngàm Đăng Vài của xã Tân Tiến được tách thành 3 thôn là Thiêng Khum, Khư Phá và Ngàm Đăng Vài để thành lập xã mới, lấy tên là xã Ngàm Đăng Vài. Năm 1964, thôn Ngàm Đăng Vài được tách thành 3 thôn là Ngàm Đăng Vài, Cao Sán, Nậm Cồm, thôn Thiêng Khum được tách thành 2 thôn là Thiêng Khum và Nậm Ằn. Đến năm 1997 thôn Ngàm Đăng Vài tiếp tục được chia tách thành 2 thôn là Ngàm Đăng Vài 1 và Ngàm Đăng Vài 2, thôn Thiêng Khum được chia tách thành 2 thôn là Thiêng Khum Thượng và Thiêng Khum Hạ. Qua nhiều lần chia tách, thành lập các thôn, đến tháng 12 năm 2018 xã Ngàm Đăng Vài có 8 thôn gồm: Ngàm Đăng Vài 1, Ngàm Đăng Vài 2, Nậm Cồm, Nậm Ằn, Thiêng Khum Thượng, Thiêng Khum Hạ, Khư Phá, Cao Sán. Những năm trước đây xã Ngàm Đăng Vài đất rộng nhưng dân số ít, chủ yếu là đồng bào dân tộc Nùng và dân tộc Tày sinh sống bằng nghề nông nghiệp và nghề rừng. Đến cuối năm 2018, dân số xã Ngàm Đăng Vài có tổng số 446 hộ với 2.210 nhân khẩu thuộc 5 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Nùng có 1.103 người chiếm 49,9%, dân tộc Tày có 882 người chiếm 39,9%, dân tộc Mông có 173 người chiếm 7,8%, dân tộc Kinh có 42 người chiếm 1,9%, dân tộc Dao có 10 người chiếm 0,45%. Là xã có địa hình phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc nên những năm trước đây người dân trên địa bàn xã chủ yếu sống du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy nên đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn. Từ những năm 1960 trở lại đây thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước các gia đình đã định cư thành các xóm nhỏ trên các sườn núi, tích cực khai hoang phục hóa, làm ruộng bậc thang để phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, xây dựng các mô hình phát triển sản xuất, dịch vụ. Ngoài ra nhân dân còn tập trung phát huy các thế mạnh về kinh tế xã hội của địa phương như trồng đậu tương, rau xanh, trồng và khai thác rừng, phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm, phát triển hệ thống dịch vụ, buôn bán lưu thông hàng hóa để phục vụ đời sống. Ngày nay, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước nhất là việc triển khai xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như: điện lưới Quốc gia, hệ thống đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà trụ sở thôn, cùng với sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã được nâng lên, xuất hiện nhiều hộ khá, hộ giàu và nhiều gương điển hình làm kinh tế giỏi. 6
  7. Do đặc điểm là xã nhiều thành phần dân tộc, trong đó dân tộc Nùng và dân tộc Tày chiếm đa số nên xã Ngàm Đăng Vài có nền văn hóa truyền thống rất đa dạng và phong phú. Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng rẽ và được nhiều thế hệ bảo tồn gìn giữ và gắn liền với sự phát triển của xã hội. Ở xã Ngàm Đăng Vài, người Tày có lễ hội Lồng Tồng, lễ cúng cơm mới, người Nùng có lễ hội cúng Thần rừng còn gọi là Mo Đống Trư, lễ cúng ma khô, người Mông có lễ Gầu Tào, lễ đặt tên... Mặc dù có những bản sắc văn hóa riêng rẽ nhưng họ đều có một đặc điểm chung là thờ cúng ông bà tổ tiên, khi chết đều được làm ma, chôn cất tại nghĩa địa của gia đình hoặc dòng họ. Con cháu khi đến tuổi trưởng thành đều được cưới hỏi, xây dựng gia đình, các nghi thức, nghi lễ cúng bái theo phong tục, tập quán phù hợp với từng gia đình, từng dòng họ và từng dân tộc. Điều đó đã tạo cho xã Ngàm Đăng Vài có điều kiện được bảo tồn và duy trì các bản sắc văn hóa để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Hệ thống chính trị của xã Ngàm Đăng Vài không ngừng được củng cố vững mạnh. Từ một chi bộ ban đầu mới thành lập vào năm 1962 với 4 đảng viên do đồng chí Xạ Kim Phà làm Bí thư Chi bộ, đến năm 1994 đã có 46 đảng viên và được nâng lên thành Đảng ủy. Trải qua 20 kỳ đại hội, đến nay Đảng bộ xã Ngàm Đăng Vài đã có 13 chi bộ trực thuộc, gồm 8 chi bộ thôn bản, 4 chi bộ trường học trạm xá, 1 chi bộ quân sự với tổng số 196 đảng viên, trong đó có 49 đảng viên nữ chiếm tỷ lệ 25% số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đây là lực lượng luôn giữ vai trò là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trên địa bàn xã trong suốt những năm qua. Hoạt động của Chính quyền cũng không ngừng được củng cố vững mạnh. Từ tổ chức tiền thân ban đầu là Ủy ban hành chính xã được thành lập từ năm 1962 đến nay Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã không ngừng đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác tiếp xúc cử tri và hoạt động quản lý điều hành, triển khai cụ thể hóa, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ thị, nghị quyết, mục tiêu kế hoạch được giao trên mọi lĩnh vực của các cấp ủy Đảng và chính quyền cấp trên. Các tổ chức đoàn thể thực sự trở thành cầu nối quan trọng giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, phát huy mối đại đoàn kết toàn dân tích cực vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước và tham gia thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sự thay đổi to lớn về kinh tế xã hội đã giúp cho bộ mặt của xã đã có những thay đổi sâu sắc, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một nâng lên. Những thành tích đó đã củng cố thêm lòng tin tưởng của nhân dân các dân tộc 7
  8. xã Ngàm Đăng Vài đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trên chặng đường xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 3. Truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài thời kỳ trƣớc năm 1962. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của mình, đồng bào các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài luôn chung sống đoàn kết, gắn bó, xây dựng bảo vệ quê hương làng bản và tạo dựng cuộc sống. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm nước ta, chúng chiếm đóng Hà Giang vào năm 1887, cho đến năm 1896, sau khi dập tắt những cuộc đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp chính thức bắt tay vào quá trình khai thác thuộc địa tại Việt Nam với những chính sách bóc lột và cai trị hà khắc, xã Ngàm Đăng Vài cũng không nằm ngoài hệ thống cai trị đó. Vốn có truyền thống chống ngoại xâm không khuất phục trước bất kỳ thế lực thống trị nào, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh sẵn sàng đứng lên chống lại chế độ thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Những năm đầu thế kỷ XX, Thực dân Pháp đã duy trì và củng cố giai cấp địa chủ phong kiến vào bộ máy quản lý, làm tay sai cho chúng để dễ bề cai trị. Tại các địa phương vùng cao của huyện Hoàng Su Phì trong đó có xã Ngàm Đăng Vài, bọn quan lại chức sắc như Lý trưởng, Chánh tổng đã đắc lực tiếp tay cho bọn cầm quyền trong việc bắt phu, bắt lính, thu sưu cao thuế nặng. Nhân dân phải bỏ công việc ruộng nương để đi phu, đi lính, xây dựng đồn bốt tại khu vực thôn Pố Lũng của thị trấn Vinh Quang và thôn Cán Chỉ Rền (xã Tụ Nhân ngày nay) cùng các công việc khác phải phục vụ không công cho bộ máy cai trị của chúng. Thâm độc hơn chúng đẩy mạnh chính sách ngu dân, khuyến khích người dân trồng, buôn bán và hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc, khơi dậy các hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội nhằm đầu độc, tha hóa và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Chính vì vậy người dân trên địa bàn xã Ngàm Đăng Vài khi đó đắm chìm trong nghèo đói bệnh tật. Trước năm 1945, xã Ngàm Đăng Vài mặc dù có diện tích tự nhiên khá lớn, giàu tài nguyên song hầu hết chỉ tập trung vào tay bọn quan lại địa chủ cường hào, người dân chủ yếu sống bằng nghề làm nương rẫy trên các đỉnh núi cao để sinh sống và làm thuê cho bọn địa chủ cường hào địa phương. Mặt khác do thực dân Pháp thi hành chính sách hết sức hà khắc với các loại thuế như: Thuế thân, thuế điền, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế lâm sản, thuế rượu, trong khi đường xá đi lại khó khăn, thiếu muối ăn cùng các loại lương thực thực phẩm thiết yếu đã làm cho nhân dân thêm bần cùng khổ cực. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Hương Cảng Cửu Long - Trung Quốc, đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự 8
  9. trưởng thành của cách mạng Việt Nam. Song do điều kiện là địa phương vùng cao nên ánh sáng cách mạng khi đó chưa đến được với cộng đồng các dân tộc tỉnh Hà Giang cũng như xã Ngàm Đăng Vài nói riêng. Mặc dù vậy, trong suốt những năm sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, cộng đồng các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã cùng với nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang luôn nêu cao truyền thống cách mạng, kiên cường đấu tranh chống lại giai cấp thực dân phong kiến, không cam chịu cuộc sống nô lệ. Tiêu biểu là việc tham gia các cuộc khởi nghĩa do 2 anh em Hoàng Văn Đăng và Hoàng Văn Quang người xã Tân Tiến, là Chánh tổng của huyện Hoàng Su Phì khi đó lãnh đạo. Mặc dù chưa phát triển thành phong trào và chưa đạt được nhiều kết quả nhưng đã khích lệ tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã. Tháng 8 năm 1945 tình hình thế giới cũng như trong nước có nhiều thay đổi sâu sắc. Sau khi phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh, ngày 13/8/1945, hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào nhận định tình hình đã chín muồi và chủ trương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19/8/1945 cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội và nhanh chóng lan ra khắp cả nước. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng Hòa, đưa đất nước ta bước sang một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Tháng 11/1945 lực lượng vũ trang của tỉnh do đồng chí Hồng Quân - là người của Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh Hà Giang đã từ Bắc Quang tiến vào Hoàng Su Phì truy kích quân Tưởng, ngày 13/11/1945 ta đã giải phóng huyện Hoàng Su Phì, đến ngày 18/11/1945 Ủy ban hành chính của huyện được thành lập do Vương Văn Đường làm chủ tịch. Tiếp đó, ngày 10/12/1945, xã Tân Tiến (Bao gồm xã Ngàm Đăng Vài ngày nay) được giải phóng trong niềm hân hoan của đồng bào các dân tộc trong xã. Song, niêm vui chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đứng trước tình hình đó, ngày 25/11/1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, ngày 20/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng Chỉ thị của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài cùng với nhân dân các dân tộc trong huyện anh dũng đứng lên đánh Pháp, tiễu phỉ và bọn thổ ty tay sai. Vượt lên trên rất nhiều khó khăn, xã Ngàm Đăng Vài vẫn là một thôn thuộc xã 9
  10. Tân Tiến và chưa có chi bộ Đảng, mọi phong trào cách mạng của địa phương đều do Mặt trận Việt Minh và Chi bộ Đảng Hoàng Su Phì trực tiếp lãnh đạo1. Hưởng ứng lời kêu gọi "diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã hăng hái tăng gia sản xuất để cứu đói và ủng hộ lương thực, thực phẩm cho cách mạng, cho bộ đội đánh giặc. Tích cực tham gia phong trào Bình dân học vụ để diệt giặc dốt. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và công cuộc tiễu phỉ, nhân dân các dân tộc và lực lượng dân quân du kích xã Ngàm Đăng Vài đã cùng với các lực lượng vũ trang của huyện tham gia nhiều trận đánh, trong đó phải kể đến trận đánh địch ở thôn Bản Qua xã Tiến vào tháng 6 năm 1948. Cùng với việc tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và công cuộc tiễu Phỉ, từ những năm 1952 đến năm 1953 nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài cũng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, cải tạo ruộng nương, khai phá thêm ruộng để cấy lúa và trồng hoa màu để ổn định cuộc sống. Thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ, các hộ gia đình của xã đã được giảm tô giảm tức. Một số hộ không có ruộng hoặc ruộng quá ít đã được chính quyền cách mạng cấp ruộng và cấp trâu để sản xuất. Vì vậy đã tạo thành một phong trào sâu rộng trong nhân dân về lao động sản xuất và phát triển kinh tế. Mặc dù đời sống khi đó còn nhiều khó khăn, song thực hiện lời kêu gọi của chính quyền cách mạng, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã ủng hộ cách mạng được hơn 14 tấn thóc, 6 tấn thực phẩm các loại và hơn 150 mét vải cho bộ đội đánh giặc. Trong năm 1954 Ngàm Đăng Vài còn cử người tham gia vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng của dân tộc, làm sụp đổ hoàn toàn âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Sau khi Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam được ký kết ngày 20/7/1954, cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng tiến lên Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai để tiến tới thống nhất đất nước. Sau 9 năm bám đất bám làng để đánh giặc và tiễu phỉ, nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài càng thể hiện hơn bao giờ hết truyền thống yêu nước, tinh 1 Chi bộ Đảng Hoàng Su Phì được thành lập ngày 16/5/1947 gồm 3 đồng chí, đồng chí Lê Minh Cầm (Tức Mai Anh) làm Bí thư Chi bộ. 10
  11. thần đoàn kết, đấu tranh anh dũng của quê hương mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã nêu cao tinh thần ngoan cường, bất khuất trong đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù, đập tan những âm mưu và hành động gây rối của bọn phản động. Giữ gìn và củng cố chính quyền, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia công cuộc kháng chiến, kiến quốc, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Sang đầu năm 1955, bọn phỉ do Cháng Sào Khún, sếp Sần cầm đầu quay trở lại gây rối một số thôn bản của xã và các xã lân cận, chúng đã ra sức cướp bóc của cải của nhân dân, tập hợp thêm lực lượng, mở rộng phạm vi hoạt động ở các xã vùng nội huyện Hoàng Su Phì, trong đó có khu vực xã Ngàm Đăng Vài. Lúc này, một số phần tử lâu nay nằm im cũng ngóc đầu dậy phụ họa tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của ta, chia rẽ đồng bào các dân tộc. Thực hiện Chỉ thị số 36 của Tỉnh ủy Hà Giang về công tác tiễu Phỉ tiến tới tiêu diệt bằng hết các nhóm Phỉ, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã phối hợp với các lực lượng vũ trang và dân quân trong huyện tiếp tục công cuộc tiễu Phỉ với phương châm lấy vận động chính trị là chủ yếu, lực lượng vũ trang làm hỗ trợ, kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn, lực lượng dân quân xã Ngàm Đăng Vài đã tích cực tham gia tiễu Phỉ, hiểu rõ bản chất, âm mưu thâm độc của kẻ thù và những chủ trương, chính sách đối với bọn Phỉ, chính sách bình đẳng giữa các dân tộc của Đảng, Chính phủ. Một số gia đình có con, em tham gia các nhóm Phỉ đã kêu gọi họ về hàng và nộp vũ khí, súng đạn cho chính quyền cách mạng, tố giác những tên trùm sỏ tay sai đắc lực của bọn đế quốc để nhận sự khoan hồng của Chính phủ. Trong 2 năm 1958 - 1959, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài cùng với lực lượng vũ trang của ta đã kêu gọi hàng chục tên Phỉ bỏ hàng ngũ, tự nguyện giao nộp vũ khí cho chính quyền để về với gia đình làm ăn. Vì vậy đã góp phần làm tan rã các nhóm Phỉ của Cháng Sào Khún, Tải Seo Sần, song vẫn còn một vài tên đầu sỏ ngoan cố ẩn nấp trong các khu rừng già thuộc địa bàn các xã Tân Tiến và Ngàm Đăng Vài ngày nay. Đến ngày 24/12/1959, các lực lượng vũ trang của tỉnh và huyện đã tấn công bao vây và tiêu diệt được tên trùm Phỉ Cháng Sào Khún tại xã Xín Mần khiến cho một số tàn quân phỉ trên địa bàn xã phải rút chạy ra khỏi địa bàn và tan rã. Thắng lợi này đã góp phần đảm bảo tình hình an ninh chính trị địa phương, nhân dân yên tâm lao động sản xuất, khôi phục và phát triển kinh tế. Sau khi hòa bình được lập lại, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì trong đó có xã Ngàm Đăng Vài vẫn phải đối phó với muôn vàn khó khăn. Nền kinh tế tự cung, tự cấp, nghèo nàn và lạc hậu. Trình độ văn hóa của nhân dân thấp, có đến 95% người dân của xã Ngàm Đăng Vài mù chữ và chỉ 11
  12. có một số ít được đi học các lớp bình dân học vụ. Cùng với đó là thiên tai, dịch bệnh thường xuyên đe dọa đối với sản xuất và đời sống nhân dân. Quán triệt Nghị quyết 7 (khóa II) ngày 18/7/1955 của Trung ương Đảng và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Giang về công tác khôi phục kinh tế. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì, nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã tích cực thực hiện các biện pháp khôi phục kinh tế, phát huy tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Đặc biệt, để giải quyết nạn đói tận gốc và phục hồi kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng bộ huyện, nhân dân xã Ngàm Đăng Vài tập trung vào việc khai hoang, phục hóa, cải tạo phát triển hệ thống thủy lợi tưới tiêu để cấy hết diện tích lúa, trồng ngô, sắn trên các diện tích nương rẫy và trồng luân canh trên các chân ruộng một vụ, cải tiến nông cụ, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, tu sửa mương phai dẫn nước chống hạn, trừ sâu hại lúa, ngô, làm cỏ, bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những tập quán làm ăn lạc hậu, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất... bên cạnh đó, nhân dân trong xã đã tích cực tham gia phát triển các nghề thủ công truyền thống như nghề rèn, đúc, trồng lanh, trồng bông dệt vải tại hầu hết các thôn, bản trong xã, đào mương dẫn nước làm thủy lợi.... Cũng trong thời gian này, thực hiện chủ trương của tỉnh và huyện, nhân dân trong xã đã tích cực tham gia vào các tổ đổi công để phát huy tinh thần tương trợ, kịp thời hỗ trợ nhau trong các dịp mùa vụ để cấy hết ruộng, góp phần đưa sản xuất nông nghiệp của xã phát triển thêm một bước mới. Trong những năm 1951, 1952, toàn xã Tân Tiến đã thành lập được 9 tổ đổi công trong đó thôn Ngàm Đăng Vài có 2 tổ. Đến cuối năm 1953 đã tăng lên 4 tổ, mỗi tổ có từ 10 - 15 hộ với sự tham gia của hơn 90% số hộ gia đình, trong đó có 9 tổ hoạt động thường xuyên, 4 tổ còn lại chủ yếu hoạt động theo vụ việc, hỗ trợ nhau trong các dịp cấy hoặc thu hoạch mùa vụ gia đình. Thành tích đó đã góp phần để xã Tân Tiến đã trở thành một trong 6 xã đi đầu trong phong trào này của huyện2 và tạo tiền để xã Tân Tiến xây dựng thành công hợp tác xã điểm của huyện trong giai đoạn tiếp theo. Các tổ đổi công được thành lập đã phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ trong cộng đồng. Do đó, những khó khăn về nhân lực, sức kéo, nông cụ, lương thực được mọi người chia sẻ, tự giúp nhau khắc phục dần. Nhìn chung, các hộ trong tổ đổi công đều gieo cấy hết ruộng, trồng kịp thời vụ, thu nhập cao hơn các hộ chưa vào tổ đổi công. 2 Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2007), trang 62. 12
  13. Mặc dù còn nhiều hạn chế, song đây là một thành công không nhỏ, bước đầu đưa một số hộ nông dân quen dần với cách thức làm ăn tập thể. Phong trào tổ đổi công có tác dụng tích cực, góp phần thúc đẩy xã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân sau khi hòa bình được lập lại. Nó cũng cho thấy đó là một hướng đi đúng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cũng như phong tục tập quán của nhân dân trên địa bàn trong giai đoạn này. Với những kết quả đạt được trong phong trào xây dựng tổ đổi công trên địa bàn xã, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã chọn xã Tân Tiến để triển khai xây dựng thí điểm mô hình hợp tác xã trên địa bàn huyện. Đến tháng 11 năm 1959, hợp tác xã Tân Tiến được thành lập, đây là hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của huyện ra đời trong cuộc vận động cải cách dân chủ, phát triển sản xuất kết hợp với phong trào xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp. Kết quả xây dựng hợp tác xã nông nghiệp Tân Tiến đã có tác động tích cực đến phong trào xây dựng hợp tác xã của huyện Hoàng Su Phì cũng như các thôn bản trong toàn xã. Đến cuối năm 1961, xã Tân Tiến trong đó có thôn Ngàm Đăng Vài đã căn bản hoàn thành việc đưa nông dân cá thể vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của phong trào thành lập hợp tác xã trên địa bàn xã Tân Tiến cũng như thôn Ngàm Đăng Vài là một minh chứng cho việc phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ xóm làng và giúp cho cộng đồng nhân dân các dân tộc trong xã nêu cao ý thức giác ngộ cách mạng, sẵn sàng đi theo Đảng, theo cách mạng để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây chính là điều kiện thuận lợi, là sức mạnh to lớn để nhân dân các dân tộc Ngàm Đăng Vài tiếp tục góp phần viết nên những trang sử vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc. Chƣơng II XÃ NGÀM ĐĂNG VÀI VÀ CHI BỘ ĐẢNG XÃ ĐƢỢC THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG XÃ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, TÍCH CỰC GÓP PHẦN CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN ĐÁNH MỸ, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƢỚC 1962 – 1975 1. Xã Ngàm Đăng Vài và Chi bộ Đảng của xã đƣợc thành lập, trực tiếp lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1962 - 1965. Bước sang năm 1962, trước sự phát triển về dân cư, đồng thời để tạo thuận cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đồng thời 13
  14. nhằm phát huy được thế mạnh của mỗi vùng. Ngày 15/12/1962, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 211-CP về việc chia và sáp nhập các đơn vị hành chính huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Theo đó xã Tân Tiến được chia thành 5 xã mới là xã Tân Tiến, Túng Sán, Ngàm Đăng Vài, Tả Sử Choóng, Bản Nhùng. Trong đó xã Ngàm Đăng Vài gồm 3 thôn là Khư Phá, Thiêng Khum và Ngàm Đăng Vài. Sau khi chia tách, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Ban Thường vụ Huyện ủy Hoàng Su Phì ra quyết định thành lập Chi bộ xã Ngàm Đăng Vài. Ngày 10/01/1963, xã Ngàm Đăng Vài long trọng tổ chức lễ công bố quyết định thành lập xã. Trong ngày này, Ủy ban hành chính và Chi bộ xã đã ra mắt. Ngày mới thành lập, Chi bộ xã Ngàm Đăng Vài gồm có 4 đảng viên, trong đó có 3 đảng viên được tách từ chi bộ Tân Tiến gồm đồng chí Hoàng Chính Lâm, đồng chí Lý Seo Thàng và đồng chí Lù Lao Dùng (là đảng viên dự bị), đồng thời Ban thường vụ Huyện ủy đã điều động đồng chí Xạ Kim Phà là cán bộ Mặt trận tổ quốc huyện về xã để xây dựng cơ sở và chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Lý Seo Thàng giữ chức vụ Phó bí thư Chi bộ, Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hoàng Chính Lâm giữ chức vụ Chủ tịch. Xã Ngàm Đăng Vài được thành lập và chi bộ Đảng của xã ra đời đã đánh dấu bước phát triển phong trào cách mạng trên địa bàn xã, giải quyết được khó khăn về địa bàn cũng như tạo thuận lợi cho công tác quản lý của chính quyền xã. Kể từ đây sự nghiệp cách mạng của xã Ngàm Đăng Vài do chi bộ Đảng lãnh đạo dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy Hoàng Su Phì. Nhân dân các dân tộc trong xã dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đã đoàn kết thành một khối vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của xã trong giai đoạn tới. Ngay sau khi được thành lập, Chi bộ đã tập trung củng cố về tổ chức và củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng để lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho cách mạng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước, đồng thời chuẩn bị cho Đại hội chi bộ Đảng lần thứ nhất. Nhờ những cố gắng nỗ lực của tập thể chi bộ, đến năm 1963 Chi bộ đã phát triển được thêm 2 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong Chi bộ lên 5 đồng chí. Tháng 10 năm 1963, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ xã triển khai đợt sinh hoạt, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) và Nghị quyết số 79 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Để triển khai có hiệu quả cuộc vận động, năm 1964 thôn Thiêng Khum được tách thành 2 thôn là Thiêng Khum và Nậm Ằn, thôn Ngàm Đăng Vài được tách thành 3 thôn 14
  15. là thôn Ngàm Đăng Vài, Nậm Cồm, Cao Sán. Như vậy, đến năm 1964 xã Ngàm Đăng Vài có tổng số 6 thôn bản. Thực hiện kế hoạch của huyện, Chi bộ đã tập trung lãnh đạo củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã. Riêng hợp tác xã Thiêng Khum thì triển khai làm điểm xây dựng xã bậc cao và thôn Cao Sán thì thành lập Tổ sản xuất, các thôn còn lại xây dựng hợp tác xã bậc thấp. Chi bộ và chính quyền xã đẩy mạnh việc hướng dẫn bà con nhân dân và các xã viên áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tích cực cải tiến nông cụ, thay bỏ nông cụ lạc hậu, sử dụng nông cụ tiên tiến hơn. Một số giống lúa mới như bào thai đỏ, nam ninh đã được trồng thử nghiệm, sau đó nhân rộng. Trong thời gian này, Chi bộ đặc biệt chú trọng công tác khai hoang phục hóa và làm thủy lợi. Nhiều diện tích đất ở các thôn Thiêng Khum, Ngàm Đăng Vài đã được đào mới ruộng bậc thang, nâng diện tích ruộng của toàn xã lên 73 ha. Các tuyến mương nước cũng được nhân dân đào đắp và tận dụng tối đa các nguồn nước, dùng hệ thống máng dẫn nước bằng tre, vầu để cung cấp nước tưới đảm bảo cấy đúng thời vụ. Chi bộ chỉ đạo sát sao việc thực hiện phong trào tận dụng các nguồn phân phân xanh, phân chuồng để bón ruộng, xử lý giống “3 sôi, 2 lạnh” trước khi ngâm mạ. Trong quá trình thực hiện, Chi bộ đã phân công các gia đình cán bộ chủ chủ chốt, các đoàn thể của xã gương mẫu thực hiện trước để bà con xã viên làm theo, vì vậy đã được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng. Đến cuối năm 1964, 5 thôn bản trong xã đã thành lập được hợp tác xã, thôn Cao Sán thành lập Tổ sản xuất với gần 80% số hộ tham gia. Cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp mang lại kết quả không những giải phóng một phần sức lao động, nâng cao hiệu quả lao động mà còn ổn định tư tưởng của xã viên, tin tưởng vào hợp tác xã, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Sau 2 năm được thành lập, tháng 8/1964 Chi bộ xã Đảng xã Ngàm Đăng Vài tổ chức Đại hội lần thứ nhất, dự Đại hội có 9 đảng viên, Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện công tác lãnh đạo của Chi bộ từ khi thành lập, đồng thời đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo đó là: Do mới thành lập nên Chi bộ chưa có nhiều kinh nghiệm, còn lúng trong công tác lãnh đạo, trình độ văn hóa và chính trị của cán bộ, đảng viên còn thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất, canh tác của nhân dân chưa được nâng cao, năng suất, sản lượng các loại cây trồng còn thấp và chủ yếu là độc canh cấy lúa. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém còn tồn tại. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới đó là: Tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi 3 cuộc cách mạng: cách mạng 15
  16. về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa. Về vực kinh tế, tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển nghề thủ công truyền thống, tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất gieo trồng; tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời huy động sức người, sức của để chi viện cho chiến trường Miền nam. Đại hội bầu đồng chí Lý Seo Thàng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Hoàng Chính Lâm giữ chức vụ Phó bí thư Chi bộ - Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Sau đại hội, đồng chí Sạ Kim Phà được rút về huyện giữ chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc huyện. Để đưa nghị quyết Đại hội chi bộ xã lần thứ nhất đi vào cuộc sống, Chi bộ đã chỉ đạo các hợp tác xã học tập, quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện trong từng lĩnh vực, phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, tu sửa hệ thống đường giao thông bảo đảm phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Các hợp tác xã đã phát huy được sức mạnh tập thể, coi trọng quyền làm chủ của các xã viên hợp tác xã, hàng tuần và tháng đều thực hiện tốt việc bình công chấm điểm, các xã viên ngày càng gắn bó hơn với công việc, tích cực tu bổ tôn tạo ruộng nương và đầu tư sửa chữa đồ dùng dụng cụ, tư liệu sản xuất của các hợp tác xã. Mối đoàn kết giữa các xã viên ngày càng được củng cố, ý thức được vai trò làm chủ tập thể của mỗi người, thông qua đó từng bước cùng cố nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế của địa phương. Thực hiện Nghị quyết Đại hội chi bộ xã đề ra, bước sang năm 1965 là năm cuối cùng cả nước thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Hoàng Su Phì, Chi bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã giành được những kết quả to lớn và toàn diện, nhất là lĩnh vực cải tạo và phát triển kinh tế, sản xuất nông nghiệp. Ngoài việc tăng cường khai hoang phục hóa, làm thủy lợi để cấy lúa hai vụ ở các chân ruộng có nước thuộc các thôn Thiêng Khum, Khư Phá, đưa giống lúa mới Nam Ninh có năng suất cao vào gieo cấy, nhân dân các dân tộc trong xã đã tận dụng các diện tích thiếu nước thuộc khu vực các thôn Ngàm Đăng Vài, Thiêng Khum để trồng ngô, đậu tương, cao lương và mạnh dạn trồng ngô xuống các chân ruộng một vụ nhằm phá thế độc canh cây lúa. Việc vận động nhân dân làm thủy lợi và cấy lúa trên những thửa ruộng bậc thang không những đem lại hiệu quả cao trong canh tác mà còn góp phần ổn định dân cư, từng bước chấm dứt tình trạng du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy vốn xảy ra từ hàng ngàn năm trước. 16
  17. Việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là sử dụng phân chuồng và phân xanh đã tạo ra năng suất lao động cao hơn, diện tích gieo trồng tăng dần, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh việc sản xuất lương thực đồng bào xã Ngàm Đăng Vài còn đẩy mạnh chăn nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa để tăng sức cày kéo và vận chuyển hàng hóa, đồng thời tích cực chăn nuôi gia cầm để phục vụ đời sống. Vì vậy đến cuối năm 1965, diện tích lúa ruộng của toàn xã đạt 5.240 kg giống, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 93 tấn, nâng mức lương thực bình quân đầu người lên 135kg/người/năm. Về chăn nuôi toàn xã có 195 con trâu, 120 con dê, hơn 200 con lợn và trên 1.000 con gia cầm các loại. Trong giai đoạn những năm 1962 - 1965, hưởng ứng Cuộc phát động làm đường của huyện, Chi bộ Đảng và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã tích cực tham gia hưởng ứng các đợt làm đường giao thông với các khẩu hiệu “Vì Miền Nam ruột thịt”, “Vì Lâm Đồng thân yêu”. Tạo thành phong trào sâu rộng từ huyện đến khắp các thôn bản với sự tham gia của nhiều tầng lớp, thế hệ. Với tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, Chi bộ và nhân dân xã Ngàm Đăng Vài đã góp hàng ngàn ngày công để làm tuyến đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì dài 64 km mang tên tỉnh Lâm Đồng kết nghĩa (Tuyến đường tỉnh lộ 177) chạy qua địa bàn xã, tạo thành mạng lưới giao thông đồng bộ, kết nối giữa các vùng miền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoàng Su Phì nói chung và xã Ngàm Đăng Vài nói riêng. Ngoài ra, Chi bộ còn lãnh đạo nhân dân mở các tuyến đường giao thông liên thôn, liên xã và đường ngựa thồ từ trung tâm xã đi các xã Tân Tiến, Bản Nhùng, Nậm Dịch. Với thành tích này, năm 1965 Đảng bộ và nhân dân huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương lao động hạng ba, trong đó có đóng góp không nhỏ của Chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài. Đi đôi với việc phát triển kinh tế, lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội trong những năm 1964 - 1965 cũng đạt được một số thành tích. Các lớp bình dân học vụ tiếp tục được duy trì với hơn 10 học viên theo học. Các phong trào vệ sinh, làm chuồng trại, đưa gia súc ra khỏi gầm sàn, thực hiện ăn chín uống sôi đã được Chi bộ chỉ đạo thực hiện quyết liệt, một số bệnh hiểm nghèo như sốt rét, thương hàn, tả lỵ đã giảm hẳn so với trước, người dân trong xã khi ốm đau đã đưa xuống khám và điều trị ở bệnh xá thuộc trung tâm huyện lỵ, qua đó giúp nâng cao sức khỏe cho người dân. Năm 1965, xã đã thành lập được đội tuyên truyền văn nghệ xung kích, nòng cốt là những đoàn viên thanh niên để biểu diễn các tiết mục văn hóa văn nghệ dân gian phục vụ nhân dân trong các kỳ lễ tết, các sự kiện chính trị diễn ra tại địa phương, đồng thời tổ chức tuyên truyền và biểu diễn phục vụ tại công trường mở đường Lâm Đồng. Ngoài ra, cấp ủy và chính quyền xã cũng huy 17
  18. động dân công tích cực tham gia vận chuyển máy móc thiết bị cho đội chiếu bóng lưu động số 124 của tỉnh vào chiếu phim phục vụ đồng bào để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân trong xã. Song song với việc lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng được Chi bộ quan tâm tích cực. Được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của huyện, các tổ chức đoàn thể quần chúng ở xã đã kịp thời được củng cố, hoạt động có hiệu quả. Chi bộ xã tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và các nghị quyết 5, 6, 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Chi bộ ngày càng trưởng thành, có thêm kinh nghiệm lãnh đạo các mặt công tác. Năm 1964, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Hoàng Su Phì, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân tổ chức tốt cuộc bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính cấp xã và cấp huyện, tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng Nhân dân xã đã bầu ông Hoàng Chính Lâm tiếp tục làm chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Tháng 4 năm 1965, đồng chí Lý Seo Thàng được Ban thường vụ Huyện ủy điều động sang địa phương khác công tác, đồng chí Vương Văn Khương được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể được quan tâm đẩy mạnh, góp phần tích cực trong việc vận động, giáo dục các tầng lớp nhân dân trong xã thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các phong trào thi đua xây dựng phát triển kinh tế của cấp ủy chính quyền địa phương như: tham gia lao động sản xuất, tham gia hợp tác xã, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ. Các tầng lớp thanh niên, phụ nữ qua học tập và rèn luyện thực tiễn đã có nhận thức sâu sắc hơn về tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong cả nước, nhất là nhiệm vụ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tạo ra một khí thế mới trong các phong trào thi đua “Ba quyết tâm”, “Ba sẵn sàng”, "3 đảm đang”, tích cực tham gia sản xuất, học bổ túc văn hóa, vận động con em tòng quân vào miền Nam chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Với đặc điểm của một xã địa hình hiểm trở, phức tạp và hẻo lánh, một số phần tử phản động có những hành động tuyên truyền, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, gây chia rẽ giữa các dân tộc, nhất là ở các thôn có dân tộc Mông sinh sống. Chi bộ Đảng xã đã quán triệt sâu sắc công tác quân sự địa phương. Thực hiện Chỉ thị 20-CT/TW của Ban Bí thư và Nghị quyết 34-NQ/TW của Bộ Chính trị về chống hoạt động biệt kích, gián điệp, Chi bộ đã phát động phong trào bảo vệ trị an trong xã, đề cao cảnh giác và tiến hành đấu tranh với phản động. Đồng thời thường xuyên thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và dân quân tự vệ nên tinh thần cảnh giác cách mạng và ý thức bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu được nâng cao thêm 18
  19. một bước. Lực lượng dân quân tự vệ được tích cực củng cố và xây dựng, luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chi bộ tích cực vận động nhân dân tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên sẵn sàng lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu. Xã đã mở nhiều đợt chỉnh huấn, giáo dục đoàn viên, thanh niên, giúp họ nhận thức rõ vai trò của mình trong tình hình cả nước có chiến tranh là sẵn sàng tham gia quân đội, chiến đấu bảo vệ đất nước, quê hương. Có thể thấy chỉ trong thời gian ngắn sau gần 4 năm được thành lập, trong điều kiện còn nhiều khó khăn (1962 - 1966), Chi bộ Đảng và nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, từng bước ổn định các mặt tổ chức chính quyền và các đoàn thể quần chúng, phát triển đời sống kinh tế - xã hội. Thể hiện sự quyết tâm và linh hoạt thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch, đảm bảo vừa xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vừa chi viện đắc lực cho tiền tuyến đánh Mỹ. Những thắng lợi đó, vừa là nguồn động viên khích lệ, vừa là cơ sở vững chắc để chi bộ Đảng và nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài tiếp tục khắc phục khó khăn, cùng với cả nước thi đua quyết thắng trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. 2. Dƣới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài tích cực sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nƣớc (1965 - 1975) Do bị thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và sa lầy ở miền Nam, sang năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh, từng bước đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc . Ngày 10/8/1965, máy bay Mỹ bắn phá cầu Vĩnh Tuy làm một số thường dân chết và bị thương. Như vậy, sự kiện này đã đánh dấu việc quân dân Hà Giang trực tiếp đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Thực hiện chủ trương của Đảng, miền Bắc chuyển sang thời kỳ mới, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời tăng sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. Đối với xã Ngàm Đăng Vài tuy không bị đế quốc Mỹ trực tiếp đánh phá, song Chi bộ đã tích cực lãnh đạo nhân dân trong xã luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kịp thời lãnh đạo chuyển hướng mọi hoạt động kinh tế - xã hội sang thời chiến. Trước tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, Chi bộ Đảng xã Ngàm Đăng Vài đã tập trung nghiên cứu, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ các cấp về đường lối chiến tranh nhân 19
  20. dân, nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là nhiệm vụ phòng không nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, biệt kích của đế quốc Mỹ. Trên cơ sở đó, Chi bộ xác định nhiệm vụ của Cấp ủy, Chính quyền và các đoàn thể cùng toàn thể nhân dân trong thời kỳ này là: Chuyển hướng xây dựng kinh tế sang điều kiện có chiến tranh với tinh thần “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “mỗi người làm việc bằng hai”; tăng cường khả năng quốc phòng - an ninh bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến đánh Mỹ, ổn định đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch.... Từ nhận thức đó, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế, lấy sản xuất lương thực là chính, đồng thời phát triển một số cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, nghề rừng, củng cố hợp tác xã, chú trọng công tác bảo vệ, củng cố an ninh - quốc phòng, củng cố tổ chức đảng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Để tạo điều kiện cho việc lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời nhằm phát huy được thế mạnh của mỗi vùng, cũng như đáp ứng nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong huyện. Ngày 01/4/1965, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 49-CP về việc chia huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện và lấy tên là huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Theo đó, xã Ngàm Đăng Vài thuộc huyện Hoàng Su Phì. Thực hiện Quyết định của Chính phủ, ngày 25/4/1965, hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần đã tổ chức lễ chia tách và đi vào hoạt động. Cũng trong ngày này, cùng với việc tổ chức lễ chia tách huyện, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính huyện Hoàng Su Phì, chi bộ Đảng xã Ngàm Đăng Vài đã lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tham gia bỏ phiếu bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, với trên 90% cử tri tham gia. Tại kỳ họp đầu tiên, Hội đồng Nhân dân xã Ngàm Đăng Vài tiếp tục bầu đồng chí Hoàng Chính Lâm giữ chức Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Cuộc bầu cử diễn ra thắng lợi với kết quả đã bầu ra được Hội đồng nhân dân các cấp, chính quyền được củng cố vững mạnh, nhân dân vô cùng phấn khởi khi được thực hiện quyền công dân làm chủ quê hương, làm chủ về chính trị. Cùng với những thắng lợi vượt bậc trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đây là nguồn động viên to lớn đối với chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Ngàm Đăng Vài vững tin trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đoàn kết hăng hái thi đua lao động sản xuất và tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng Miền nam thống nhất đất nước. Bước sang năm 1966, Đế quốc Mỹ tăng cường đánh phá Miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt hơn. Phát huy truyền thống đoàn kết, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2