Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
lượt xem 3
download
Tiếp nội dung phần 1, Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: chi bộ đảng xã Lũng Pù lãnh đạo nhân dân trong xã đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc (1975 – 1985); đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 – 2020). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
- nhiều khó khăn; công tác y tế, giáo dục, văn hóa còn chậm phát triển. Song, những kết quả đã đạt được là tiền đề, là cơ sở để Lũng Pù tiếp tục đoàn kết xây dựng quê hương trong những năm tiếp theo. Chương III CHI BỘ ĐẢNG XÃ LŨNG PÙ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG XÃ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1985) 1. Chi bộ Đảng xã Lũng Pù lãnh đạo nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn (1975 – 1980) Chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi xã Lùng Pù cũng phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức như: Cơ sở vật chất nghèo nàn, chủ yếu tự cấp, tự túc và phương thức canh tác lạc hậu, điểm xuất phát lên chủ nghĩa xã hội thấp; hoạt động cấm vận về chính trị, kinh tế, cô lập ngoại giao của đế 61
- quốc, bọn phản cách mạng gây nhiều khó khăn cho cách mạng nước ta. Tuy nhiên, Chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Lũng Pù đã không ngừng nỗ lực thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980). Đây cũng là thời kỳ có nhiều sự kiện trọng đại đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc: Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá V, ngày 27/12/1975 đã quyết định hợp nhất một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên; ngày 25/4/1976, nhân dân các dân tộc xã Lũng Pù cùng với cử tri cả nước phấn khởi, vui mừng cầm lá phiếu bầu cử Quốc hội khóa VI - Quốc hội nước Việt Nam thống nhất. Ngày 02/7/1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Những sự kiện đó vừa tạo động lực mới cho cấp ủy, chính quyền và nhân dân Lũng Pù, vừa đặt ra thách thức mới trong hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương. Trong khi đó, sau 15 năm xây dựng, trưởng thành xã Lũng Pù vẫn là địa phương có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn độc canh cây ngô; mô hình tổ chức sản xuất hợp tác xã mức độ thấp, ruộng đất và các tư liệu sản xuất được tập thể hóa nên chưa phát huy hết tiềm năng, người dân vẫn còn thói quen du canh, du cư, 62
- chưa biết ứng dụng khoa học kỹ thuật... Trước những khó khăn cũ và thách thức mới đang đặt ra, Chi bộ và nhân dân xã Lũng Pù vẫn hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, vượt qua mọi khó khăn, từng bước hoàn thành các nhiệm vụ, đưa xã dần vượt qua đói nghèo, lạc hậu. Tháng 02/1976, Chi bộ xã Lũng Pù tổ chức Đại hội lần thứ VII, nhiệm kỳ 1976 – 1979; dự Đại hội có 9 đảng viên. Đại hội đã đánh giá, kiểm điểm sự lãnh đạo của Chi bộ trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ trước và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ mới là: Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của chi ủy, chi bộ, tiếp tục xây dựng hợp tác xã, từng bước đưa sản xuất của địa phương lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; qua đó nâng cao đời sống văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Đại hội bầu 3 đồng chí vào chi ủy, đồng chí Lầu Mí Sèo giữ chức bí thư chi bộ, đồng chí Hờ Vả Hờ phó bí thư (chủ tịch ủy ban hành chính xã), đồng chí Giàng Chứ Chơ - chi ủy viên Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VII đề ra, Chi bộ xã đã tập trung kiện toàn, củng cố, phát huy hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, vận động tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý hợp tác xã, thực hiện tốt chế độ “3 quản”. Toàn xã có 4 hợp tác xã nông nghiệp được chia thành 4 đội sản xuất với 216 hộ gia đình xã viên. Tiếp tục khai hoang, phục hóa, quy hoạch lại ruộng, nương, khoanh vùng sản xuất, tổ chức quản lý 63
- theo hướng tập trung thâm canh, chuyên canh tăng vụ cả ngô, lúa và hoa màu, mở rộng diện tích, sử dụng giống mới, cải tiến kỹ thuật canh tác. Đến năm 1977, diện tích đất nông nghiệp được khai thác 665 ha, trong đó đất trồng ngô 451, lúa 2 ha, đậu tương, đay 90 ha còn lại đất trồng hoa màu. Tổng diện tích gieo trồng đạt 95% kế hoạch, so với năm 1975 tăng 3%… Chăn nuôi cũng được phát triển, chủ yếu tập trung ở mô hình hộ gia đình; năm 1977, toàn xã có 597 con bò, ngựa; trên 600 con lợn và 1.200 con gia cầm các loại. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm triển khai xây dựng tạo điều kiện đi lại, giao thương hàng hóa dễ dàng, thuận tiện. Các công trình thủy lợi, xây dựng bể chứa nước tiếp tục được đầu tư xây dựng, sửa chữa với hàng nghìn ngày công lao động của người dân trong xã. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo tiếp tục được quan tâm, chỉ đạo thường xuyên. Cấp ủy, chính quyền xã Lũng Pù đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác vận động người dân đóng góp xây dựng trường lớp và đưa trẻ đến trường. Năm học 1976- 1977, trường tiểu học của xã đã có đủ các khối lớp với 106 học sinh; toàn xã có 6 lớp học vỡ lòng với gần 130 cháu. Hàng năm, kết quả thi chuyển lớp đạt kết quả trên 87%; thực hiện tốt nhiệm vụ học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội; tích cực tham gia mọi hoạt động của địa phương, góp phần xây dựng cuộc sống mới ở từng địa bàn dân cư. Tuy nhiên, kết quả giáo 64
- dục của xã chưa bền vững, tỉ lệ bỏ học còn cao, cơ sở vật chất của trường như: Lớp, bàn, ghế phục vụ giảng dạy, học tập của giáo viên, học sinh vẫn còn khó khăn, thiếu thốn… Lĩnh vực y tế đã đạt được nhiều tiến bộ, trạm xá có đủ các loại thuốc chữa bệnh thông thường đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho việc khám, chữa bệnh của nhân dân. Trạm xá cũng thường xuyên tổ chức phun thuốc diệt muỗi, phòng chống sốt rét, hướng dẫn nông dân vệ sinh phòng bệnh nên dịch bệnh không phát triển, sức khỏe nhân dân được đảm bảo. Phát động và duy trì các phong trào như: vệ sinh phòng bệnh, chống rét mùa đông, chống các bệnh sốt rét, sinh đẻ có kế hoạch, chữa bệnh bướu cổ cho nhân dân... Cùng với công tác y tế, giáo dục, Chi bộ cũng thường xuyên quan tâm đến phong trào văn hóa, văn nghệ. Đội văn nghệ của xã có 17 thành viên, tiếp tục các hoạt động tích cực, tuy chất lượng chưa cao nhưng đã góp phần thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần cho nhân dân trong xã. Cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới được đồng bào hưởng ứng tích cực. Nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của địa phương, đất nước, Chi bộ xã đã chỉ đạo tổ chức các hoạt động biểu diễn văn nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Thông qua các hoạt động này, nhiều tiết mục văn hóa đặc sắc như: Múa khèn mông, hát đối giao duyên dân ca Mông… được biểu diễn, qua đó góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn xã. 65
- Hưởng ứng phong trào toàn dân tiến công vào làm đường giao thông, xây bể nước phục vụ sinh hoạt do Ủy ban nhân dân huyện Mèo Vạc phát động, trong giai đoạn (1976 - 1978) cấp ủy, chính quyền xã Lũng Pù đã huy động trên 2.000 ngày công tu sửa và làm mới các tuyến đường cơ giới từ trung tâm xã đi các xóm Quán Xí, Sảng Chải... đảm bảo thông suốt; xây mới hơn 42 bể giữ nước của các hộ gia đình. Năm 1978, Ủy ban nhân dân xã huy động trên 1.500 ngày công tham gia làm đường liên xóm, phục vụ sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cử hơn 120 người thay nhau tham gia mở mới đường từ huyện Mèo Vạc đi xã Xín Cái, Thượng Phùng, Sơn Vĩ; huy động trên 1.300 ngày công phục vụ làm đường đi các xã biên giới và xây cầu Tràng Hương. Tháng 5/1977, Chi bộ đã chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã với 99% cử tri đi bỏ phiếu thực hiện nghĩa vụ và quyền công dân. Qua các kỳ họp, Hội đồng nhân dân xã đã ra được một số nghị quyết quan trọng trên lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã đã bước đầu có sự đổi mới phương thức hoạt động, tăng cường công tác quản lý, điều hành, tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo hoạt động các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, nhằm phát huy vai trò vận động các tầng lớp nhân dân thi đua trong phát triển kinh tế, thâm canh tăng vụ, tăng 66
- năng suất cây trồng, vật nuôi, hoàn thành tốt nghĩa vụ với Nhà nước, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn; bảo đảm trật tự trị an trong các thôn bản và toàn xã. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Chi bộ tập trung vào nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của Đảng; việc thực hiện Chỉ thị 192 và các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh về công tác Đảng... Tăng cường phân công và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên trong chi bộ; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; kịp thời uốn nắn những thiếu sót trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ Chi bộ giao. Bên cạnh đó, Chi bộ cũng chú trọng phát triển đảng viên, thông qua hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các đoàn thể quần chúng trong xã để lựa chọn ra những đoàn viên và quần chúng ưu tú bồi dưỡng, giáo dục kết nạp vào Đảng; trong nhiệm kỳ Chi bộ đã đề nghị và tổ chức kết nạp mới được 2 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn Chi bộ lên 10 đồng chí (một đồng chí chuyển công tác). Năm 1978, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên xấu đi, tình hình biên giới ở phía Bắc căng thẳng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ xã Lũng Pù đã tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Nhận thức rõ tầm quan trọng của 67
- mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và cùng cố quốc phòng, tăng cường lực lượng dân quân du kích, dự bị động viên, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh với 3 nhiệm vụ: Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, bảo vệ tốt tài sản xã hội chủ nghĩa và trật tự xã hội tại các thôn bản. Trọng tâm là giáo dục ý thức cảnh giác và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền quốc gia. Công tác quản lý, đăng ký hộ khẩu được duy trì chặt chẽ; các tệ nạn xã hội được xử lý nghiêm minh. Nhờ đó, tình hình chính trị, an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn xã được ổn định, văn hóa, giáo dục phát triển. Xã tiếp tục củng cố trung đội dân quân và xây dựng lực lượng dự bị động viên sẵn sàng chiến đấu với quân số hơn 70 người. Ngày 02/12/1978, một trung đội lính Trung Quốc tập kích vào trạm Biên phòng Xín Cái (Mèo Vạc), đẩy nguy cơ xung đột ở biên giới lên cao. Đến ngày 14/01/1979, phía Trung Quốc cho quân áp sát biên giới, khiêu khích, lấn đất của ta; ngày 02/02/1979 chúng sử dụng 01 tiểu đoàn đánh vào khu vực Đồn biên phòng Săm Pun và Lâm trường Săm Pun. Đến ngày 17/02/1979, chúng sử dụng một trung đoàn chủ lực có pháo yểm trợ tấn công vượt qua mốc 138, 140 và 21 tấn công vào 3 xã biên giới là Thượng Phùng, Xín Cái, Sơn Vĩ13. 13 Lịch sử Đảng bộ huyện Mèo Vạc 1962 – 2015, tr 87 68
- Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, với tinh thần sẵn sàng hi sinh bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc, Chi bộ Lũng Pù đã lãnh đạo chính quyền và nhân dân tích cực xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, phát động quần chúng xây dựng làng chiến đấu, chuẩn bị sẵn sàng và giữ trật tự an ninh trong nội địa. Đồng thời chỉ đạo xây dựng các phương án, kế hoạch tác chiến, nội quy phòng gian bảo mật, nội quy giữ gìn, bảo vệ vũ khí, đạn dược chặt chẽ; tăng cường xây dựng, củng cố công sự trận địa; tổ chức huấn luyện, tuần tra, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn. Chỉ đạo các thôn, xóm thành lập các tổ, đội an ninh, đội sản xuất để đảm bảo an ninh trật tự. Đội ngũ công an viên được củng cố về tư tưởng, tổ chức, giáo dục về nhiệm vụ, chức năng và sử dụng vũ khí chiến đấu; tăng cường quản lý an ninh trật tự trên địa bàn, đặc biệt là giám sát đối tượng xấu hay kích động, xúi giục phản loạn; vận động quần chúng tố giác, phát hiện những kẻ gian, lạ mặt buôn bán các mặt hàng trái phép nếu xuất hiện trên địa bàn xã. Bên cạnh đó, xã cũng tích cực vận động người dân di tản về tuyến sau tại những địa điểm an toàn nhằm tránh pháo kích của Trung Quốc, đồng thời sẵn sàng chiến đấu khi chiến sự xảy ra. Chính quyền và Ban chỉ huy quân sự xã đã vận động người dân xây dựng trên 40 hầm trú ẩn, hơn 3,5km giao thông hào, công sự chiến đấu. Quán triệt Nghị quyết 07-NQ/TW (khóa IV) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xác định kẻ thù cơ 69
- bản, lâu dài của cách mạng nước ta là chủ nghĩa đế quốc nhưng kẻ thù mới, trực tiếp nguy hiểm với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, đe dọa độc lập chủ quyền của nước ta là “tư tưởng bành trướng”; xác định nhiệm vụ xây dựng thế trận phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ban Chi ủy xã đã phối hợp với các ngành làm tốt công tác tuyên truyền, nêu cao tinh thần cảnh giác cho người dân; củng cố lực lượng ở cơ sở và phát động phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng tổ an ninh nhân dân. Đồng thời, yêu cầu lực lượng công an, dân quân du kích ngày đêm tuần tra canh gác; bắt giữ được một số đối tượng xâm nhập, hoạt động trái phép; phối hợp tốt với lực lượng của huyện, tỉnh, tuần tra canh gác, chủ động theo dõi những phần tử dễ bị lôi kéo, kích động để có biện pháp xử lý, đối phó kịp thời. Thực hiện Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, nhân dân các dân tộc xã Lũng Pù đã tích cực đóng góp sức người sức của cho bộ đội đánh giặc. Trong 3 tháng đầu năm 1979, xã đã đóng góp gần 150 con lợn, 400 con gà, 1 bò, 5 ngựa cùng 17 tấn ngô, mì và rau quả các loại cho bộ đội, dân quân xã. Dưới sự chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm của bộ đội biên phòng, công an và dân quân các địa phương, ngày 05/3/1979 Trung Quốc tuyên bố rút quân, đến ngày 20/3/1979 Trung Quốc đã rút quân ra khỏi 3 xã biên giới Thượng Phùng, Xín Cái, Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc. 70
- Tháng 4/1979, Chi bộ Lũng Pù tổ chức Đại hội lần VIII, dự Đại hội có 10 đảng viên. Đại hội đánh giá những kết quả đạt được trong những năm 1977 – 1979, nhất là việc đóng góp sức người, sức của và trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới của nhân dân Lũng Pù; đồng thời chỉ ra những hạn chế, tồn tại như việc “chưa giải quyết kịp thời tình trạng một số hộ dân người Hoa bị xúi dục bỏ sang Trung Quốc”. Xác định phương hướng, nhiệm vụ của Chi bộ trong thời gian tới là: Sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu của địch, quyết tâm bám đất, bám làng vừa chiến đấu vừa sản xuất, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ an ninh - quốc phòng; đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, tổ chức tốt đời sống nhân dân, đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu quốc phòng. Đại hội bầu 3 đồng chí vào Chi ủy, đồng chí Lầu Mí Sèo giữ chức bí thư Chi bộ, đồng chí Vừ Pà Chứ phó bí thư (chủ tịch UBND xã), đồng chí Giàng Mí Chẩu chi ủy viên. Trong giai đoạn này, kinh tế tập thể hợp tác xã bộc lộ một số hạn chế: việc phân phối trong các hợp tác xã còn mang tính bao cấp, bình quân, không khuyến khích được sản xuất; công tác tài vụ của các hợp tác xã không thanh, quyết toán được dứt điểm, nợ nần dây dưa kéo dài, khiến quần chúng thiếu tin tưởng vào ban quản lý hợp tác xã. 71
- Vì vậy, Chi bộ đã ban hành nghị quyết về việc nâng cao vai trò của hợp tác xã, đồng thời phát động thi đua lao động sản xuất. Chi bộ và các đoàn thể quần chúng của xã đã thường xuyên động viên nhân dân tập trung lao động sản xuất, ý thức chăm sóc, vun xới và phát hiện sâu bệnh, chăm sóc các loại cây trồng được tăng cường. Nhân dân đã tích cực sử dụng phân bón trong canh tác đảm bảo số lượng phân bón cho các loại cây trồng. Trước mùa vụ, chuẩn bị sửa kho, sắm sửa dụng cụ thu hoạch được thực hiện chu đáo; sau khi thu hoạch, tại các hợp tác xã, Chi bộ đã chú ý lãnh chỉ đạo chủ nhiệm hợp tác, kế toán thực hiện việc phân chia sản phẩm đảm bảo công bằng theo ngày công với phương châm “người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, người không làm không hưởng”, kiểm tra năng suất và vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương không nấu rượu bằng ngô, gạo nhằm đảm bảo lương thực, phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Đồng thời, lãnh chỉ đạo việc tuyên truyền các hộ xã viên triển khai tốt việc thu hoạch đến đâu đốt, dọn chuẩn bị đất trồng đến đó; nông cụ, phân, giống đều được đảm bảo yêu cầu canh tác. Chi bộ cũng chủ trương, sau khi thu hoạch xong các hợp tác khuyến khích cho xã viên tranh thủ mượn diện tích đất để trồng các cây vụ đông ngắn ngày; việc mượn đất canh tác được đảm bảo theo tổ chức, quy định. Mặt khác khuyến khích các hợp tác tích cực trồng rau, đậu để phục vụ sinh hoạt cho người dân và bán lại 72
- cho Nhà nước. Nhờ đó, nhân dân đã tích cực trồng rau, đậu, mạch… góp phần đảm bảo lương thực tại chỗ. Phong trào khai hoang, lấy đất bỏ hốc đá để canh tác được đẩy mạnh, năm 1979 tuy tình trạng chiến tranh nhưng xã đã mở rộng thêm 8 ha trồng ngô, 1 ha sắn, nâng diện tích sản xuất nông nghiệp toàn xã đạt 748 ha. Đàn gia súc, gia cầm tăng trưởng mạnh ở các trại chăn nuôi tập trung của các Hợp tác xã và hộ gia đình với 136 ngựa, gần 650 bò, dê; 750 lợn. Cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm củng cố và phát triển Hợp tác xã mua bán, đảm bảo cung ứng đủ các mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu của nhân dân, như: dầu, muối, vải, sách vở cho học sinh và các mặt hàng phục vụ cho sản suất. Đi đôi với các mặt hàng phục vụ sinh hoạt, Hợp tác xã mua bán còn làm chức năng tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân. Do đặc thù của địa phương, sản xuất lương thực và chăn nuôi ở xã Lũng Pù phụ thuộc rất nhiều vào khí hậu thời tiết. Trong giai đoạn này thường có rét đậm, băng giá kéo dài, giữa vụ lại nắng hạn làm ảnh hưởng đến sản xuất; riêng năm 1979 rét đậm, rét hại, băng giá kéo dài làm cho cây trồng chết hàng loạt. Trước tình hình đó, Chi bộ đã chỉ đạo các hợp tác xã và hộ gia đình sử dụng nhiều biện pháp chống rét cho cây trồng, vật nuôi, tăng lượng phân bón hỗ trợ, áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong làm phân, gieo lại giống trồng gối vụ. Vì vậy, năm 1979-1980, mặc dù chịu ảnh hưởng chiến tranh biên giới nhưng sản lượng nông nghiệp vẫn cơ bản 73
- đạt mục tiêu đề ra. Đồng thời, Chi bộ xã tiếp tục chỉ đạo các hợp tác xã chủ động xây dựng bể chứa nước để cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt; trong 2 năm 1979 - 1980 xã đã xây thêm 46 bể nước gia đình tại xóm Quán Xí, Lũng Lừ, Sảng Chải. Mặt khác, xã cũng tích cực mời cán bộ phụ trách công tác khuyến nông cùng cán bộ huyện khảo sát các công trình cấp nước sinh hoạt trên địa bàn xã để tìm giải pháp khắc phục lâu dài và đề nghị huyện hỗ trợ, giúp đỡ thêm nguyên vật liệu và nhân lực xây dựng hồ chứa nước phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân. Đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng, Chi bộ tiếp tục thực hiện cuộc vận động bảo vệ Đảng theo Chỉ thị 72 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và kế hoạch của Tỉnh ủy; tiếp tục quan tâm chỉ đạo triển khai đến các tổ đảng và từng đảng viên, qua đó đã giúp cán bộ, đảng viên củng cố, nâng cao quan điểm, lập trường chính trị ngày càng vững chắc trong tình hình mới, Chi bộ Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh. Chi bộ thường xuyên chăm lo đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xã theo nguyên tắc “liên tục và kế thừa”, tăng cường đào tạo cán bộ nữ, cán bộ trẻ và cán bộ dân tộc thiểu số, thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo, tập huấn về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và công tác Đảng. Cuối năm 1980 đồng chí Vừ Pà Chứ phó bí thư, chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được huyện luân chuyển, đồng chí Giàng Chứ Chơ được bầu phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. 74
- Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã có nhiều tiến bộ, trình độ, năng lực điều hành có hiệu quả hơn. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân... thường xuyên được củng cố về tổ chức, hoạt động có nề nếp. Công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao ý thức trách nhiệm trong lao động sản xuất, phục vụ chiến đấu, đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được đẩy mạnh. 2. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân Lũng Pù đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ biên cương của Tổ quốc (1980 – 1985) Kết thúc việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 – 1980), hoạt động của mô hình kinh tế hợp tác xã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc, việc phân phối trong các hợp tác xã còn mang tính bao cấp, bình quân, không khuyến khích được sản xuất. Trong quá trình hợp tác hóa nông nghiệp, hợp tác chỉ quản lý nương, ruộng; còn sản xuất khoai, sắn giao cho xã viên làm riêng. Do đó, xã viên dành nhiều thời gian chăm sóc hoa màu và chăn nuôi của hộ gia đình, chưa tích cực chăm sóc nương lúa của tập thể. Mặt khác, công tác tài vụ của các hợp tác xã không thanh, quyết toán dứt điểm, nợ nần dây dưa kéo dài, khiến quần chúng thiếu tin tưởng vào ban quản lý hợp tác xã; năng suất lao động giảm, số ngày công lao động của xã viên thấp, nhiều người không còn mặn mà 75
- với sản xuất tập thể… Tại Lũng Pù ngoài hợp tác xã Quán Xí thì các hợp tác xã khác đều ở mức yếu… Trong khi đó, thời điểm này xã vẫn phải dồn sức cho canh gác, đề phòng chiến tranh phá hoại của phía đối phương tại khu vực biên giới; tình trạng thiếu nhu yếu phẩm, lương thực thuốc men diễn ra thường xuyên, 6 tháng đầu năm 1980, trên 40% người dân trong xã bị thiếu lương thực… Trước những khó khăn bất cập kéo dài trên phạm vi toàn quốc và tồn tại trong phân phối lưu thông, thị trường giá cả… Chi bộ xác định, nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ hậu cần tại chỗ phục vụ chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chi bộ đã chỉ đạo các thôn, bản, hợp tác xã dựa vào nội lực, tăng cường hợp tác liên kết, khai thác nguyên liệu, trao đổi hàng hoá, phát triển sản xuất, nỗ lực phấn đấu đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân và hỗ trợ cho bộ đội. Mặt khác, trong bối cảnh cả nước gặp nhiều khó khăn trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ngày 21/10/1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra thông báo số 22, cho phép các địa phương làm thử khoán sản phẩm đối với cây lúa, đến ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương đã ra Chỉ thị 100/CT-TW về cải tiến công tác khoán và mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị 100 là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển đổi cơ chế trong công tác quản lý nông nghiệp, theo đó, Chi bộ xã 76
- Lũng Pù đã chỉ đạo các hợp tác xã chuyển từ lao động tập thể sang giao ruộng đất về cho nhóm và hộ xã viên canh tác theo kế hoạch của hợp tác xã. Đồng thời tiếp tục củng cố, cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp; thực hiện cơ chế khoán đến nhóm và người lao động, khuyến khích lao động cá thể. Cuối năm 1981, Ủy ban nhân dân xã đã chọn hai đội sản xuất thuộc Hợp tác xã Làng Tỉnh Dào và Sảng Chải để làm điểm thực hiện đầy đủ các bước khoán; sau đó tổng kết rút kinh nghiệm về chính sách khoán; tiến hành nhân rộng ra tất cả các hợp tác xã. Tháng 3/1982, Chi bộ xã Lũng Pù tổ chức Đại hội lần thứ IX, Đại hội đã kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của nhiệm kỳ trước và đề ra phương hướng, nhiệm vụ khóa IX, đồng thời bầu Chi ủy Chi bộ khóa mới, đồng chí Lầu Mí Sèo được Đại hội bầu làm bí thư, đồng chí Giàng Chứ Chẩu phó bí thư (chủ tịch Ủy ban nhân dân xã), đồng chí Giàng Chứ Chơ làm chi ủy viên Thực hiện Nghị quyết Đại hội chi bộ lần thứ IX, cấp ủy, chính quyền xã tích cực đẩy mạnh khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo nội dung Chỉ thị 100, theo đó xã viên được làm chủ 3 khâu (gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch), các khâu còn lại do hợp tác xã đảm nhiệm. Thời gian đầu, cơ chế khoán đã kích thích các hộ nông dân đầu tư, chăm sóc, thâm canh để thu phần sản phẩm vượt khoán. Nhờ chuyển đổi phương pháp quản lý và giao khoán sản phẩm trong các hợp tác xã, sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1982-1985 của xã có 77
- bước phát triển mới. Các loại giống ngô Q2, TBS1, TBS2... được đưa vào gieo trồng đã cho năng suất cao. Vì vậy, sản lượng cây, con tăng lên đáng kể; kinh tế hộ gia đình bắt đầu phát triển. Kết quả sản xuất năm 1983, sản lượng ngô đạt 21,5 tạ/ha, lúa đạt 23 tạ/ha, đậu tương đạt 5,7 tạ/ha. Tổng sản lượng quy thóc là 376 tấn, bình quân lương thực đầu người là 160kg/năm; hàng năm bán nghĩa vụ tại chỗ cho Nhà nước 7,4 tấn lương thực, 800kg thực phẩm các loại; đàn gia súc của xã phát triển qua các năm, đến năm 1985 toàn xã có 304 con bò, ngựa 115 con; lợn 620 con...; gia cầm ước đạt 1.500 con. Cùng với việc quan tâm phát triển cây lương thực, các loại cây công nghiệp và các loại rau màu khác được đưa vào trồng xen canh đảm bảo rau tại chỗ cho người dân và cung ứng cho dân quân. Đối với lâm nghiệp, Chi bộ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể xã đã đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân không tùy tiện phát rừng làm nương rẫy; thực hiện tốt công tác quản lý, tu bổ, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn ở thôn theo quy định bảo vệ, phòng chống cháy rừng nhằm nâng cao ý thức, vai trò trách nhiệm của người dân trong công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, góp phần bảo vệ môi trường. Đồng thời, phối hợp với cán bộ kiểm lâm tích cực kiểm tra, ngăn chặn và xử lý nghiêm những vụ vi phạm phát rừng làm nương rẫy bằng các hình thức như nhắc nhở, viết cam 78
- kết không tái phạm, phạt tiền theo quy định của pháp luật. Tích cực trồng mới, cải tạo đất rừng, tuy nhiên do điều kiện tự nhiên của xã chủ yếu là núi đá không có đất nên khó phục hồi số rừng bị chặt phá, dẫn tới diện tích rừng của xã có xu hướng bị thu hẹp. Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, xã đã tiến hành củng cố trang bị tương đối đầy đủ trang bị y tế, thuốc men; đồng thời phối hợp chặt chẽ với Bệnh viện huyện trong việc cấp cứu, điều trị, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Bên cạnh đó, tích cực tuyên truyền chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, sinh đẻ có kế hoạch; vận động người dân các xóm ăn ở hợp vệ sinh, phòng bệnh, sử dụng thuốc chữa bệnh... Tuy nhiên, do nhận thức của người dân còn hạn chế nên tỉ lệ sinh của xã có mức độ tăng đột biến, năm 1982 tỉ lệ sinh 3,3%, tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong ước tính khoảng 55/1.000 trẻ... Việc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình bộ đội, gia đình có công với cách mạng; các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không nơi nương tựa... được các đoàn thể quần chúng và nhân dân hưởng ứng tích cực. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được đông đảo tầng lớn nhân dân hưởng ứng. Đội văn nghệ không chuyên của xã được duy trì và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động. Trong các dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước, địa phương đều tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao; các trò chơi dân 79
- gian: tung còn, đẩy gậy, đánh sảng, đánh yến, bóng chuyền... được duy trì, góp phần động viên, cổ vũ cho các sinh hoạt văn hóa ở cơ sở, đồng thời tạo ra không gian văn hóa lành mạnh cho dân cư địa phương. Trung bình mỗi năm có 3 buổi chiếu phim cho người dân, 3 đến 5 lần tổ chức hội diễn văn nghệ, thi đấu thể thao giữa các hợp tác xã trên địa bàn. Công tác giáo dục - đào tạo, thời kỳ này do ảnh hưởng của chiến tranh bảo vệ biên giới, học sinh sơ tán theo gia đình nhiều nên tỉ lệ bỏ học cao, cơ sở vật chất, trường lớp xuống cấp, hư hỏng. Do vậy, Chi bộ đã chỉ đạo các đoàn thể quần chúng vận động người dân hỗ trợ ngày công và vật liệu xây dựng, sửa chữa lại lớp học, tiếp tục duy trì các lớp vỡ lòng tại các hợp tác xã, đội sản xuất. Năm học 1983- 1984, Trường tiểu học Lũng Pù đã có 6 lớp với 133 học sinh, sỹ số học sinh luôn đạt từ 84% trở lên; chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao, tỷ lệ lên lớp bình quân hàng năm đạt 87%. Năm học 1984-1985, xã mở thêm 4 điểm trường với trên 170 học sinh ở các bậc học với 12 giáo viên, cơ bản ổn định về số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng. Một số hợp tác xã đã cử người biết chữ ra dạy học cho những người chưa biết chữ, nhờ đó, tỷ lệ mù chữ trên địa bàn đã giảm đáng kể. Công tác xây dựng Đảng được tiến hành thường xuyên, năng lực lãnh đạo của Chi bộ Đảng đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể của xã được nâng cao một bước rõ rệt. Cán bộ, đảng viên thường xuyên được 80
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn